Trước hết, phải kể đến các di tích ở huyện Đông Triều,
Xứ Đông, nay thuộc tỉnh Quảng Ninh, Tổ đình của Thiền phái này. Đó là:
Chùa Ngự Long: thuộc xã Vĩnh Tuy, huyện Đông Triều do
Trúc Lâm Đại Đầu Đà xây dựng trên nền cũ của Hành cung của Ngài khi còn ở
ngôi vua.
Am Ngọa Vân: ở núi Yên Tử, huyện Đông Triều. Am dựng bên
phải chùa Hoa Yên, nơi đây quanh năm thường có mây mù che phủ, nên mới
đặt là Ngọa Vân. Năm 1299, Thượng Hoàng Trần Nhân Tông xuất gia, đến trụ
trì ở chùa Vân Yên (sau đổi thành Hoa Yên). Ngài thường đến am Ngọa Vân
đọc kinh, xem sách và nghỉ ngơi. Chùa Vân Yên (Hoa Yên) và am Ngọa Vân
là 2 di tích tiêu biểu gắn liền với sự nghiệp tu hành của Điều Ngự Giác
Hoàng. Hai di tích này đã được Nhà nước xếp hạng di tích lịch sử văn hóa
tháng 3 – 1974. Từ xưa đến nay là nơi Phật tử, tín đồ, khách hành hương
thường xuyên đến chiêm bái đông vào bậc nhất nước ta.
Toàn cảnh am Ngọa Vân
Chùa Long Động: thường gọi là chùa Lân dựng ở chân núi
Yên Tử, thuộc xã Nam Mẫu, huyện Đông Triều do Trúc Lâm Đại Đầu Đà – Điều
Ngự Giác Hoàng xây dựng ít lâu su khi Ngài xuất gia. Ngài và các thiền
sư Trúc Lâm đệ nhị tổ Pháp Loa, Trúc Lâm đệ ta tổ Huyền Quang thường
thuyết pháp ở đây. Kinh sách quảng bá tư tưởng Thiền tông Trúc Lâm. Chùa
đã bị tàn phá trong kháng chiến chống Pháp(1946 – 1945). Gần đây đã
được Giáo hội Phật giáo Việt Nam trùng tu, tôn tạo thành Thiền viện Trúc
Lâm Yên Tử. tháng 3 năm 1974 chùa được Nhà nước xếp hạng di tích lịch
sử văn hóa.
Chùa Hồ Thiên: ở xã Phù Ninh, huyện Đông Triều, nay
thuộc xã Yên Sinh cùng huyện Trúc Lâm đệ nhất tổ từng thuyết pháp ở đây.
Sau khi Ngài tịch, để tử chùa Hồ Thiên tạc tượng thờ ở trong chùa. Chùa
nổi tiếng là một Thiền viện từng lưu dấu tích của vị Tổ khai sáng dòng
Thiền Trúc Lâm Yên Tử, nên nhân dân rất sung mộ.
Tại quê hương Nam Định có:
Chùa Phổ Minh: ở Tức Mặc, Nam Định. Trong chùa có tượng
Đệ nhất tổ Đại Đầu Đà – Điều Ngự Giác Hoàng, cùng hai Thiền Sư Pháp Loa
và Huyền Quang của phái Trúc Lâm. (lăng của trúc lâm đại đầu đà đặt ở
tháp Huệ Quang gần chùa Hoa Yên, Yên Tử) có một phần “xá lị” của ngài
còn đặt ở Đức Lăng – Phủ Long Hưng hay Thượng tháp chùa Phổ Minh – Tức
Măc. Phật tử, tín đồ, khách hành hương thường xuyên đến chime bái rất
đông.
Đền Thờ Trần Nhân Tông: ở xã Dưỡng Hối, huyện Ý Yến,
tỉnh Nam Định. Theo thần tích, sau khi xuất gia Điều Ngự Giác Hoang từ
đến thuyết pháp ở xã Dưỡng Hối. Sau khi Ngài viên tịch, dân bản xã dựng
đền thờ, gọi là Trần Nhân Tông Từ.
Ở tỉnh Hải Dương có:
Chùa Tư Phúc: thường gọi là chùa Hun, chùa dựng trên núi
Côn Sơn(còn gọi là Núi Kỳ Lân) ở làng Chi Ngại, huyện Chí Linh, Tỉnh
Hải Dương. Chùa có từ đời Hậu Lý. Vua Trần Nhân Tông sau khi xuất gia
cũng đến tham thiền nhập định. Khoảng năm 1329 Trúc Lâm đệ nhị tổ Pháp
Loa dựng 2 am Hồ Thiên và Chân Lạc. sau Trúc Lâm đệ tam tổ Huyền Quang
đến trụ trì chùa này rồi viên tịch tại đây ngày 23 tháng giêng năm Giáp
Tuất(1329).
Am Minh Dương: dựng trên núi Kiệt Đặt, huyện Chí Linh,
tỉnh Hải Dương từ thời Hậu Lý, là nơi tu hành của Thiền sư Bản Tịnh(1100
-1176) thế hệ 10 dòng Vô Ngôn Thông. Đến đầu đời Trần, am Bình Dương là
nơi tu hành của các vị trong Hoàng tộc. cuối năm 1308 Trúc Lâm đệ nhất
tổ xuống núi thăm chị alf công chúa Thiên Thụy. khi trở về Yên Tử Hoàng
hậu Tuyên Từ mời Ngài dùng bữa cơm chay ở am Bình Dương. Ngài nói: ‘đây
là lần cúng dàng cuối cùng đây”. Ít lâu sau Ngài viên tịch.
Chùa Minh Độ: ở làng Hương Đại, huyện Thanh Hà, tỉnh Hải
Dương. Chùa đucợ khởi dựng từ thời Hậu Lý. Có thuyết, Trần Nhân Tông
xuống tóc ở chùa này, Ngài chích máu để phát nguyện. sau có nhà sư dựng
tháp để bảo quản. niên hiệu Hồng Đức, Lê Thánh Tông sai sửa sang chùa
khá lộng lẫy, đẹp đẽ. Nay trước chàu thờ Trần Nhân Tông, có tháp lưu
tang huyết thư của Ngài, rấ linh ứng.
Tại Hải Phòng có:
Chùa Dư Hàng: (Phúc Lâm Tự) ở xã Dư Hàng, huyện An
Dương, Xứ Đông, nay thuộc phường Dư Hàng Kênh, quận Lê Chân, Hải Phòng.
Trong chùa có thờ Tam Tổ Trúc Lâm Yên Tử, đã được Nhà nước công nhận Di
tích Lịch sử văn hóa tháng 12 năm 1986. Phật tử, khách hành hương thường
xuyên đến chiêm bái rất đông.
Đền thờ Trần Nhân Tông: ở làng Diên Lão, nay thuộc xã
Tiên Minh, huyện Tiên Lãng, ngoại thành Hải Phòng. Sách Đồng Khánh địa
chí dư lược ghi: “Nhân Tông sau khi thoái vị về trụ trì chùa Yên Tử, một
hôm đến phủ Thiên Trường qua làng Diên Lão, già làng kính cẩn nghinh
đón, Nhân Tông hài lòng vì làng biết lễ nghi nên ban tên là Diên Lão,
lại dặn bao giờ trên sông có vật lạ thì rước về thời ác được phù hộ. sau
này Nhân Tông đã nằm trên phiến đá ở núi Yên Tử thiêu hóa, các già làng
Diên Lão thấy có một viên đá trôi ngược dòng sông, nhớ đến lời dặn của
Nhân Tông bèn rước về thờ, rất linh ứng. viên đá này còn ở trong đền.
Trong thời Pháp tạm chiếm, có một viên tề là giáo dân
vào đền xâm phạm tượng, nói nhiều lời vô lễ. Ít ngày sau, tên Tề ác này
dẫm phải mìn chết tan xác. Đền đã được UBND Tp. Hải Phòng xếp hạng di
tích lịch sử văn hóa.
Bến đò “sáu mươi”: ở xã Nghi Dương, nay thuộc xã Ngũ
Phúc huyện Kiến Thụy, Hải Phòng. Theo truyền ngôn nguồn gốc của tên bến
đò này, vì có lần Trúc Lâm Đại Đầu Đà từ Thiên Trường qua bến đò thăm
chị gái là công chúa Thiên Thụy tu ở chùa Nghi Dương. Lúc ấy trời đã xẫm
tối, viên xã quan đi kiểm tra đếm canh, hắn thấy nhà sư gầy gò, túi vải
vát vai, chống gậy dò đường lên bến. Viên xã quan đã ngà ngà sai rượu,
đã hách dịch hỏi giấy tờ tùy thân, Ngài từ tốn đáp không mang theo, thế
là tên này túm lấy Ngài đấm 60 đấm. Vừa may gia nhân công chúa Thiên
Thụy thấy thế quát to “Thượng Hoàng đấy, sao dám hỗn”. viên xã quan sợ
hết hồn, quỳ rạp xuống xin xá tội. Ngài ôn tồn bảo tên xã quan chừa tính
hóng hách rượu chè, và quay lại nói với giai nhân công chúa : “ đây là
nghiệp chướng của ta”. Nhân đó ban tên bến đò này là “bến đò 60”. Dân
thường gọi tắt là bến đò “sáu”.
Di tích của Ngài chắc còn nhiều. Nhưng do thời gian găp,
điều kiện khó khăn, khẳ năng lại có hạn, nên chúng tôi mới siêu tầm
được số di tích liên quan tới Trúc Lâm Yên Tử đệ nhất tổ, mong các vị
thức giả bổ xung. Dân tộc ta giàu đạo lý “uống nước nhớ nguồn”. Văn trị,
Võ công, Thiền học của hoàng đế Trần Nhân Tông – Trúc Lâm Đại Đầu Đà –
Điều Ngự Giác Hoàng vô cung to lớn các di tích liên quan tới Ngài cần
được tôn tạo, bảo quản và phát dương.