Trong cuộc hội thảo khoa học về "Nho giáo ở Việt
Nam" do trường Ðại học Harvard phối hợp với trường Ðại học Khoa học Xã
hội và Nhân văn TP. HCM tổ chức, từ ngày 18-20 tháng 7-2001 tại TP. HCM,
nhà nghiên cứu Phật học Minh Chi đã trình bày tham luận về mối quan hệ
giữa Phật giáo và Nho giáo ở Việt Nam. Chúng tôi xin trích giới thiệu
với bạn đọc phần thứ hai của tham luận)
...
Nho giáo đến Việt Nam vào thời Bắc thuộc, tất nhiên nó đóng vai trò hệ
tư tưởng thống trị và có tác dụng củng cố quyền thống trị của người Hán ở
Giao Châu thời bấy giờ. Sức mạnh về quân sự, một chế độ thống trị chính
trị kéo dài hàng nghìn năm, eộng với một nền văn hóa Nho, Lão có truyền
thống lâu đời khíến cho dân tộc Việt thời bấy giờ có nguy cơ đồng hóa
và Hán hóa, như một số bộ tộc người Việt ở Quảng Ðông và Quảng Tây đã bị
Hán hóa vậy.
Tôi xin nhắc lại, Nho giáo là một hệ tư tưởng
chính trị-tôn giáo đứng đầu là vua Trung Quốc cai trị thiên hạ theo mệnh
Trời. Khái niệm thiên hạ ở đây bao quát cả người Hán và người phi Hán,
mà sách Trung Quốc thường gọi thời bấy giờ là Di Ðịch. Phật giáo đến
Trung Quốc theo con đường tơ lụa Trung Á, có thể là khoảng cùng một thời
với Phật giáo du nhập vào Việt Nam theo đường biển. Tôi dùng từ có thể
và khoảng bởi lẽ không có sử liệu ghi chép rõ ràng về vấn đề này.
Vấn
đề này đã được nhiều tác giả nghiên cứu về lịch sử Phật giáo Việt Nam
đề cập đến (như Nguyễn Lang, Hà Văn Tấn, Lê Mạnh Thát...) ở đây tôi
không bàn lại.
Phật giáo là lực đối trọng, tuy đến từ xa nhưng
rất mạnh lại đặc thù :
Trước hết Phật• giáo xuất phát từ Ấn Ðộ
như là một trung tâm văn hóa hàng đầu của thế giới cổ đại, có liên hệ
trực tiếp với trung tâm văn hóa cổ đại Hy Lạp-La Mã, Lưỡng Hà và Ai Cập.
Phật giáo là• một tôn giáo, một hệ triết học có tầm cỡ thế giới
từ thế kỷ III trước Công nguyên, sau khi Hoàng đế Asoka (triều đại
Maurya-Khổng Tước) gửi nhiều phái đoàn truyền giáo đến các nước ngoài
(kể cả một phái đoàn đến vùng hiện nay là bán đảo Ðông Dương, và lúc bấy
giờ gọi là Suvannabhumi Ðất xứ của Vàng). Trong khi đó, Nho giáo chủ
yếu chỉ là hệ tư tưởng-tôn giáo của dân tộc Ðại Hán.
Từ thế kỷ
IV• đến đầu thế kỷ IX Phật giáo trên thực tế đã trở thành một tôn giáo,
một hệ tư tưởng ngự trị khắp vùng Ðông á, hầu như cả châu á, ngoại trừ
Xi-bê-ri và Trung Cận Ðông. Hàng loạt Tăng sĩ Ðông á đã đến Ấn Ðộ cầu
pháp, hoặc theo con đường biển, hoặc theo con đường bộ xuyên Trung Á. Sử
liệu thống kê giữa những thế kỷ thứ IV và thứ IX có tới 200 Tăng sĩ,
chủ yếu là người Trung Hoa, đã đến Ấn Ðộ theo nhiều đợt. Trong số Tăng
sĩ trên, có cả người Triều Tiên (5 người) và người Việt Nam (trong đó có
sư Ðại Thặng Ðăng, người Thanh Hóa).
Tuy nhiên, đó là một lực
đối trọng rất đặc thù , vì khác với Nho giáo thường hẹp hòi, cố chấp,
Phật giáo không bao giờ có tư tưởng độc tôn, đối với các tôn giáo khác
và hệ tư tưởng khác, Phật giáo bao giờ cũng tỏ thái độ kính trọng, hợp
tác, đoàn kết, tuy là không bao giờ hành xử trái ngược với tinh thần
giải thoát và hỷ xả của đạo.
Ở Việt Nam, thái độ bao dung của
đạo Phật thấy rõ:
Trong các sự• kiện như đời nhà Lý, các ông vua
sùng đạo Phật như Lý Thánh Tông, đã cho thành lập Văn Miếu, tạc tượng
Chu Công và Khổng Tử để thờ, mở các khoa thi tam giáo để tuyển chọn nhân
tài.
Các triều đại• Phật giáo đời Lý và Trần đều trọng dụng Nho sĩ, như
các ông Tô Hiến Thành, Lê Văn Thịnh, Chu Văn An, Mạc Ðĩnh Chi.
Tuy
nhiên, như đã nhấn mạnh trên đây, tuy Phật giáo Việt Nam ngay dưới các
tnều đại Phật giáo như Lý-Trần tôn trọng đạo Nho và trọng dụng Nho sĩ,
thế nhưng đường lối trị nước, an dân, bảo vệ độc lập dân tộc và bản sắc
văn hóa dân tộc thì lại thấm đượm tinh thần Phật giáo: bình đẳng, dân
chủ, từ bi, hỷ xả v.v... Sau đây là một vài chứng cứ nổi bật:
Những
đặc điểm nổi bật của Phật giáo Việt Nam
Sư Vạn Hạnh từng phục vụ các triều Ðinh, Tiền Lê, nhưng đã không ngại
chủ trương thế nhà Tiền Lê, lập ra nhà Lý. Bởi vì, trước họa xâm lăng
của nhà Tống mà một cánh quân xâm lược đã vào Lạng Sơn, ông nhận thấy
triều đại Tiền Lê không còn thích hợp nữa, cho nên sư đã cùng với Ðào
Cam Mộc phò Lý Công Uẩn lên ngôi, lập ra triều đại Phật giáo nhà Lý
(không phải ngu trung).
Lý Công Uẩn mới lên ngôi, đã cho mở cừa các nhà tù, thả các tội nhân,
đồng thời cho đốt bỏ hình cụ.
Nhà Lý cũng như nhà Trần để có thể đảm bảo kháng chiến thắng lợi
chống mọi cuộc xâm lăng liên tiếp của phương Bắc, đã triệt để và nhất
quán áp dụng chính sách đoàn kết dân tộc và đoàn kết toàn dân (chứng cớ:
Bài thơ “Vận nước” của Thiền sư Pháp Thuận, chính sách khoan dung của
nhà Lý đối với họ Nùng ở Việt Nam, các hội nghị Diên Hồng và Bình Than
đời Trần, việc vua Trần gả cháu gái Huyền Trân cho vua Chiêm v.v...)
Tuy Phật giáo Việt Nam chịu ảnh hưởng của Phật giáo Ấn Ðộ, thế nhưng
Phật giáo Việt Nam không mất thời giờ vào cái tệ tư biện siêu hình và
mộng mơ như Phật giáo Ấn Ðộ (đặc biệt là từ thế kỷ IV trở đi ) 1. Vì dân
tộc Việt Nam không thể mộng mơ trước họa xâm lăng thường trực của phong
kiến Trung Quốc. Phật giáo Việt Nam có đầu óc thực tiễn, và giúp cho
các ông vua Phật tử đời Lý và đời Trần có đầu óc thực tiễn đó, thì mới
có thể thường xuyên cả nh giác phòng bị, bảo vệ được nền độc lập chính
trị của Tổ quốc.
Tuy Phật giáo Việt Nam cũng chịu ảnh hưởng sâu đậm của Phật giáo
T'rung Hoa và nền văn hóa Nho giáo của Trung Hoa, thế nhưng Phật giáo
không tán thành quan điểm thiên mệnh, và cho rằng vua cai trị dân là
theo ý dân (lấy ý muốn của dân làm ý muốn của mình : Trần Thái Tông
trong cuốn “Thiền Tông Chỉ Nam”), đồng thời nhà vua ở cương vị lãnh đạo
phải thực hành đạo đức vô ngã v.v...
Phản ứng chống Nho giáo
của Phật giáo Việt Nam
Phản ứng mạnh nhất chống Nho giáo là cuốn Lý Hoặc Luận mà tác giả Mâu
Tử 2 lại là một người Hán ở Giao Châu. Có thể nói đó là một người Hán
đã Việt hóa, một Nho sĩ chính thống và uyên bác, nhưng về sau lại theo
Ðạo Phật, điều này cho thấy ảnh hướng sâu đậm của Phật giáo đối với trí
thức Trung Quốc vào cuối đời Hán, khi mà nhà Hán bắt đầu suy tàn, kèm
theo là sự mất uy tín của văn hóa truyề n thống Trung Quốc vốn là chỗ
dựa của chính quyền thống trị về mặt tư tưởng hệ.
Trong 37 câu vấn nạn và trả lời là nội dung cuốn Lý Hoặc Luận, chỉ có
5 câu đầu nói về Phật và Phật giáo, 7 câu sau cùng về Lão Tử và Lão
giáo, 25 câu còn lại là những câu Nho gia vấn nạn Phật gìáo và Mâu Tử
trả lời. Kết cấu cuốn Lý Hoặc Luận cho thấy thời bấy giờ Phật giáo là
đối tượng công kích chính của Nho gia; nhưng Nho gia cũng là đối tượng
phản bác chính của Phật giáo.
Nói chung, cái sai trong thái độ phê phán của Nho gia đối với Phật
giáo là bao giờ cũng lấy Nho gia làm chuẩn mực của chân lý, tuy rằng
Phật giáo không công nhận chuẩn mực đó, cho nên Mâu Tử khi trả lời đã ví
Phật giáo như mặt trời giữa trưa, Nho giáo như đuốc sáng, Phật giáo như
phượng hoàng, như núi Thái Sơn, như sông Trường Giang, còn Nho giáo thì
như chim sẻ, như gò đống, như ngòi lạch v.v...
Có thể nói toàn bộ lời phê phán của Nho gia trong cuốn Lý Hoặc Luận
đều phạm sai lầm chủ quan ấy, cái sai lầm mà lô-gíc học Phật giáo hay
Nhân minh học Phật giáo gọi là Sở y bất thành nghĩa là chỗ dựa để lập
luận là không vững, bất thành. Ðó là loại câu chất vấn như Nho giáo
trọng kiệm ước, vì sao đạo Phật lại đề cao sự bố thí (điều 17), Nho gia
xem như không có con nối dõi tông đường là đại bất hiếu, sao Tăng sĩ lại
không có vợ. Nho gia không bàn chuyện chết và quỷ thần nhưng đạo Phật
lại bàn đến chuyện chết và quỷ thần. Thậm chí, ngay khi Nho gia dẫn
chứng ở Giao Châu thời bấy giờ có Tăng sĩ rượu chè, có vợ con, mua rẻ
bán đắt, làm chuyện dối trá, sao gọi đạo Phật là coi trọng giới luật
được và sống đạo đức? Tuy trong lời phê phán này, chỗ dựa của Nho gia là
thực tế có thật nhưng vấn đề là thực tế nào, nếu đó chỉ là thực tế cá
biệt, số ít, không phải là tiêu biểu thì dựa vào thực tế một vài người
mà phê phán chung cả một đạo cũng là một sai trái về biện luận lôgíc.
Một phản ứng mạnh mẽ khác chống Nho giáo là của Khương Tăng Hội, một
Tăng sĩ Trung Á nhưng sinh ra và lớn lên và tu học Phật pháp, thành đạt ở
Giao Châu (200-280). Năm 247, Tăng Hội đến Kiến Nghiệp, thuộc Ðông Ngô,
dưới triều đại của Ngô Tôn Quyền, ông dịch nhiều kinh Phật và biên soạn
cuốn sách nhan đề Lục Ðộ Tập Kinh phản ánh thái độ phê phán Nho giáo và
bênh vực đề cao Phật giáo.
Học giả Lê Mạnh Thát trong cuốn Lịch sử Phật giáo Việt Nam, tập I
chương 5 về Khương Tăng Hội đã trích đẫn các câu của Tăng Hội viết trong
Lục Ðộ Tập Kinh như: “Tôi ở đời đã lâu thấy Nho gia không bằng Phật tử”
(trang 341).
“Phật giáo đề cập đến nhiều vấn đề mà Nho giáo không nói tới. Nho
giáo là một hệ tư tưởng chưa hoàn chỉnh, chưa đầy đủ, còn nhiều mắc mứu.
Chỉ có Phật giáo là hoàn chỉnh và đầy đủ, giải đáp được hết mắc mứu của
mọi người”(sách đã dẫn cùng trang).
Thái độ của trí thức Việt
Nam đối với Khổng giáo cách tân đời Tống
Hiện nay, có một số người muốn đề cao họ Trình, họ Chu đời Tống
trong việc khởi xướng phong trào Khổng giáo cách tân, đem lại sự ổn định
cho xã hội Trung Hoa trong hàng nhiều thế kỷ, trước khi phong trào đó
bị sụp đổ vì các cuộc xâm lược liên tiếp của quân Anh, quân Pháp và Liên
quân Ðồng Minh.
Chỗ yếu và ehỗ mạnh của thiết chế Khổng giáo cách tân cũng là một.
Cấu kết với chính quyền, nó tạo ra sự độc tôn của Khổng giáo, một sự
nhất trí hình thức và giả tạo về tư tưởng hệ. Muốn thi đỗ ra làm quan,
có chức có phận thì phải làm bài thi theo nhận thức khuôn mẫu của họ
Chu, họ Trình, nếu không bị đánh hỏng . Không có chức, có phận thì nói
gì đến ảnh hưởng tới đất nước, tới quốc gia?
Ðộc tôn Nho giáo dẫn tới làm cho Nho gìáo thoáì hóa, mất sức sống và
sáng tạo, chỉ còn là một bậc thang của danh và lợi mà thôi. Ổn định là
sức mạnh, nhưng cường điệu sự ổn định thành ra trì trệ; thì lại là chỗ
yếu. Thống nhất vốn là chỗ mạnh, nhưng cường điệu sự thống nhất thành ra
khuôn sáo, hình thức, không còn sáng tạo nữa, mất nhạy bén với cuộc
sống thì lại là chỗ yếu. Tất cả những tệ hại này của Khổng giáo cách tân
và độc tôn đã bị phong trào Ngũ Tứ đả kích kịch liệt, không cần bàn
thêm nữa. Ấy thế mà bây giờ vẫn có người muốn đề cao Khổng giáo cách tân
như là ngọn nguồn của cáe con rồng châu á thì cũng thật lạ kỳ .
Chúng ta đặt câu hỏi, Khổng giáo cách tân, chớm nở vào cuối đời Ðường
và cực thịnh vào đời Tống với hai họ Chu, Trình có trách nhiệm gì không
trong sự kiện hai lần cả nước Trung Quốc bị những dân tộc phi Hán là
nhà Nguyên và nhà Thanh đô hộ, thống trị... những dân tộc phi Hán mà
tổng cộng lại, dân số chỉ bằng khoảng 1/24 của dân số người Hán?
Người
Việt chúng ta cũng học Tống nho, cũng học Khổng giáo cách tân, nhưng
may sao chỉ học một nửa. Cho nên, Nguyên Mông, lật đổ nhà Tống thống trị
Trung Quốc và 1/2 thế giới mà cả ba lần đánh ta đều bị quân dân nhà
Trần đánh cho đại bại. Mãn Thanh lật đổ nhà Minh, thống trị Trung Quốc
rồi đem 20 vạn binh sang đánh ta cũng bị Nguyễn Huệ đánh cho kinh hồn
tán đởm.
Nhưng đó chỉ mới là chiến thắng quân sự, mà cũng là nhờ hồn thiêng
sông núi, kết tinh lại trong những anh hùng như Trần Hưng Ðạo và Nguyễn
Huệ, đã biết phát huy cao độ tinh thần tự cường dân tộc, lòng yêu nước
nồng nàn của nhân dân ta. Nhưng còn về mặt văn hóa?
Sự xâm lược về
quân sự bị chặn đứng và đẩy lùi, nhưng sự xâm lược về văn hóa vẫn tiếp
tục, lặng lẽ mà kiên trì, cái đó mới đáng sợ. Trong một thế giới và xã
hộì sôì động, với những phát minh khoa học có tính cách mạng làm đảo lộn
biết bao khái niệm truyền thống tưởng chừng bất di dịch như núi Thái
Sơn thế mà Khổng giáo cách tân lại cung cấp cho chúng ta mô hình một nền
văn hóa tĩnh, đòi phục hồi những giá trị đạo đức thời Lưỡng Hán, đề cao
tam cương, ngũ thường như là một thiết chế cố định, hợp với thiên
mệnh... tôi nói cái chết, cái nguy hạí của Khồng giáo cách tân chính là ở
chỗ đó.
Giặc đến ngoài ngõ mà trong nhà như là không hay, từng lớp hủ Nho thi
đua ngâm vịnh, tán tụng Nghiêu Thuấn và Khổng Tữ, rồi lại mong chờ
thiên binh của Thiên triều qua giúp để đánh đuổi bọn bạch quỷ đi.
Francis Garnier với 175 quân đã hạ dễ dàng thành Hà Nội, trong khi 70
vạn quân Nguyên phải bó tay trước sự kháng cự ngoan cường của Trần Hưng
Ðạo và quân dân nhà Trần. Cùng là người Việt cả , sao mà khác nhau đến
thế. Tôi nghĩ: Di hại của Tống Nho thực đáng sợ là vậy.
Sau này cụ Phan Chu Trinh, kết án chế độ khoa cử và Hán học, Hán tự
không phải là không có lý do. Thậm chí ông viết bài “Bất phế Hán tự, bất
túc dĩ cứu Nam quốc”, nghĩa là không bỏ chữ Hán, sẽ không đủ để cứu
nước Nam. Tất nhiên, cụ Phan không ghét gì Hán tự, thế nhưng cái học
khoa cừ, tầm chương trích cú, nhồi nhét vào đầu chữ nghĩa của thánh
hìền, rập khuôn theo Tống Nho thì thật là tệ hại.
Cụ Phan không thích thú Tống Nho nhưng lại đề cao đạo Phật. Cụ viết:
“Nay bà con thử xét, đời Trần sao dân tộc ta hùng dũng như vậy Quân
Nguyên thắng cả Á và Âu, nuốt trọn Trung Hoa mà qua đến nước ta thì bại
tẩu. Nào bị cướp giáo ở Chương Dương đô, nào bị bắt trói ở Bạch Ðằng,
như vậy chẳng phải nhờ đạo Phật ở ta thời đó rất thịnh ư ? (Ðông kinh
nghĩa thục-Nguyễn Hiến Lê, Lá Bối, 1974-chuyển dẫn từ Việt Nam Phật giáo
sử luận, quyển III).
Cụ Phan Khôi bình luận về tình hình chính trị
so sánh bên Trung Quốc và bên ta, cũng đồng ý như cụ Phan Chu Trinh:
“Xưa nay, bên Tàu, quốc thể có hai lần hèn yếu nhất, bị lũ mọi rợ
phương Bắc vào đè đầu: lần trước vào thời kỳ Tấn Lục Triều, là kết quả
của sự sùng thượng Lão Trang, lần sau vào thời kỳ Tống, Minh thì là kết
quả của cuộc vận động Lý học. Còn Phật giáo thì theo lịch sử chẳng khi
nào gây ra sự hèn yếu cả.
Ở nước ta cũng vậy, vào thời nhà Lý, nhà Trần, đạo Phật tràn ngập cả
nước, chủa chiền khắp nơi, nhưng nước nhà chưa hề có cái vẻ tích nhược
như hồi Lê trung hưng hay Nguyễn thống nhất là cái thời đạo Nho học
thịnh hành. Trái lại, nhà Lý, nhà Trần mạnh lắm, dân khí còn hăng lắm,
mấy phen giặc Tàu sang chúng ta đuổi đi như đuổi vịt. Lịch sử là cái
chứng mạnh lắm. Không ai cãi được. Nó đã làm bằng chứng cho Phật giáo:
không phải là một thứ thuốc phiện làm mòn yếu con người”. (Báo Tiếng
Chuông Sớm số 9, ngày 12-10-1935- chuyển dẫn từ Việt Nam Phật Giáo Sử
Luận, tập III, trang 29).
Tôi nghĩ những trích dẫn trên đầy đủ cho chúng ta thấm thía tất cả
cái tệ hại của lối học khoa cử mà phái Tống Nho và phong trào Khổng giáo
cách tân truyền sang cho ta. Học giả Ðào Duy Anh đã có nhận định rất
xác đáng về di hại của Tống Nho đối với từng lớp gọi là sĩ phu nước ta
như sau:
“Chế độ khoa cử thế ấy thì phải sinh ra phương pháp giáo dục thế kia
là lẽ tất nhiên. Học như vậy thì học trò chỉ chăm học thuộc lòng một số
ít sách kể trên (Ðào Duy Anh muốn nói Tứ Thư, Ngũ Kinh và Bắc Sử tức là
sử Trung Hoa, không phải sử Việt Nam-MC), và chăm lựa lời cho khéo, gọt
câu cho chỉnh, viết chữ cho tử tế, một ý tứ có thể điền ra năm, bảy cách
miễn là lời văn cho bóng bẩy mà ý tứ dù là cặn bã của Tống Nho cũng
không cần gì. Cái thói trọng từ chương, ưa hư văn đã trở thành một thiên
tính của dân tộc ta. Với cách giáo dục ấy, thì dù người thiên tư lỗi
lạc cũng phải nhạt đi, huống gì những người tư chất tầm thường. Thực là
một thứ giáo dục giết chết nhân cách vậy”. (Ðào Duy Anh–Chữ Nôm. NXB
Khoa học Xã hội, 1975, tr. 260, chuyển từ cuốn Việt Nam và Nhật Bản
trong thế giới Ðông Á. Vĩnh Sinh, tr. 159).
Tác hại của phong trào Khổng giáo cách tân tại Việt Nam, đã dẫn tới
sự trì trệ yếu kém của triều Nguyễn, và đó cũng là một nguyên nhân chính
để phương Tây đô hộ. Nếu ôn lại Phật giáo đời Lý Trần và những phê phán
kịch liệt về Tống Nho của cụ Phan Chu Trinh và Ðào Duy Anh, chúng ta sẽ
thấy rõ luận điểm nói trên.
Chú thích:
1. Năm 1190. một toán
200 kỵ binh đặc công của Hồi giáo từ Tây Ấn dưới sự chỉ huy cũa tướng
Mahmud đã mở một cuộc tấn công chớp nhoáng táo bạo vào thủ đô Bihar của
triều đại Semas xứ Bengan, sau đó đốt phá và san bằng trường Ðại học
Phật giáo Nalanda, chêm giết Tăng Sĩ và dân chúng nhiều không kể xiết.
2.
Mâu Tử là người Thương Ngô ( tức là Quảng Tây hiện nay) sinh vào các
năm 165- 170 Tây lịch.
(Bài này được in trong tạp chí Xưa và Nay số
100, tháng 9-2001)
Minh Chi