Ðây là một thời kỳ đặc
biệt của Phật giáo Việt Nam, và đỉnh cao của nó là sự thành lập các nhà
nước Phật giáo thời Lý, Trần với các chiến công hiển hách không chỉ
trong việc nhiều lần đánh bại đế quốc xâm lược Nguyên-Mông bảo vệ trọn
vẹn ranh giới của Tổ quốc, mà còn vẻ vang trong sự nghiệp xây dựng đất
nước và mở mang bờ cõi. Giai đoạn này đặc biệt sôi nổi với phong trào
vận động xây dựng nền độc lập lâu dài cho nước ta, cùng với sự xuất hiện
của các dòng Thiền lớn.
Căn cứ vào những đặc thù của sự
phát triển tư tưởng Phật giáo và dân tộc, nội dung bài này trình bày về
hai thời kỳ phát triển, một là thời kỳ từ nhà nước độc lập Vạn Xuân ra
đời (544) đến thời Lý Thánh tông (ở ngôi 1054-1072), hai là thời kỳ từ
vua Lý Thánh tông đến vua Trần Nhân tông ( ở ngôi 1279-1293).
I.
Phật giáo từ thời Lý Nam Ðế đến Lý Thánh Tông
Sự ra đời của nhà nước
độc lập Vạn Xuân là kết quả của một quá trình vận động và đấu tranh lâu
dài của dân tộc suốt hơn nửa thiên niên kỷ, trong đó Phật giáo là lực
lượng nòng cốt, trọng yếu, đặc biệt là trên mặt trận văn hóa và tư
tưởng. Nhà nước do Lý Nam Ðế thành lập là một nhà nước Phật giáo đầu
tiên trong lịch sử dân tộc ta. Nói như vậy là hoàn toàn có cơ sở. Bởi,
ngay sau khi dựng nước, dù đang ngổn ngang những khó khăn và chật vật về
mọi mặt, nhưng một trong những công tác quốc gia trước tiên là xây dựng
một ngôi chùa lớn lấy tên là Khai Quốc tự, nghĩa là chùa Mở Nước, tiền
thân của chùa Trấn Quốc tại thủ đô Hà Nội hiện nay. Việc dựng chùa và
đặt tên là Khai Quốc ngay trong những ngày đầu của một nhà nước vừa
thành lập là một công tác có ý thức văn hóa, chính trị sâu sắc, tỏ rõ
bản chất của nhà nước Vạn Xuân là nhà nước Phật giáo và Phật giáo là lực
lượng nòng cốt kiến thiết nên nhà nước độc lập này. Ðấy là chưa kể đến
bản thân Lý Nam Ðế là người Phật tử được đào tạo hơn 10 năm trong chùa
(1), và một vị vua lấy niên hiệu cho mình là Lý Phật Tử (Hậu Lý Nam Ðế,
571-603).
Nhà nước độc lập Vạn Xuân
non trẻ của Lý Nam Ðế tồn tại hơn năm mươi năm thì bị nhà Tùy thôn tính
vào năm 603, rồi đến nhà Ðường đô hộ. Thanh bình chưa được lâu dài thì
lại bị xâm lăng, cả dân tộc lại phải bước vào cuộc đấu tranh vô cùng
khốc liệt về mọi mặt để chuẩn bị cho một nền độc lập hoàn toàn và lâu
dài.
Ðiều hết sức quan trọng
của Phật giáo trong khoảng thời gian tồn tại của nhà nước Vạn Xuân là sự
ra đời của dòng thiền Tỳ Ni Ða Lưu Chi (2), hay còn gọi là dòng thiền
Pháp Vân, một dòng thiền đầu tiên trong lịch sử Phật giáo nước ta. Dòng
thiền Tỳ Ni Ða Lưu Chi ra đời là một sự kiện quan trọng, nó đã bước đầu
giải quyết tình trạng khủng hoảng tư tưởng Phật giáo mà thời đại trước
để lại đồng thời mở ra một nền tư tưởng mới chỉ đạo sự phát triển của
Phật giáo Việt Nam.
1. Dòng thiền Tỳ
Ni Ða Lưu Chi ra đời, bước đầu giải quyết những khủng hoảng của nền Phật
giáo quyền năng
a. Ðôi nét về ngài Tỳ
Ni Ða Lưu Chi
Theo Thiền uyển tập
anh, ngài Tỳ Ni Ða Lưu Chi (Vinitaruci), người Nam Ấn Ðộ, năm Ðại
Kiến thứ 6 đời Trần Tuyên Ðế (574) đến Trường An, Trung Quốc, gặp lúc
Phật giáo Trung Quốc đang bị khủng bố bởi Chu Vũ đế, Ngài lánh nạn sang
đất Nghiệp (3), gặp tổ Tăng Xán tại đây và đắc pháp với Ngài. Sau đó,
Ngài đi về phía nam đến trú ngụ tại chùa Chế Chỉ ở Quảng Châu, và đã
dịch các bộ kinh như Tượng đầu tinh xá và Báo nghiệp sai biệt
(4) tại ngôi chùa này. Sáu năm sau (580), Ngài sang nước ta trụ trì
chùa Pháp Vân (5) và dịch kinh Tổng trì (6) ở đây. Ngài mất năm
594 tại nước ta, nhưng không rõ sinh năm nào và thọ bao nhiêu tuổi.
Truyền nhân của Ngài là thiền sư Pháp Hiền (?-626), người có vai trò
quan trọng trong việc thành lập dòng thiền Tỳ Ni Ða Lưu Chi.
Việc các vị Tăng nước
ngoài đến Việt Nam tu học hay các vị Tăng Việt Nam ra nước ngoài truyền
bá, giảng dạy Phật pháp không phải là trường hợp đặc biệt, mà đã thành
một hiện tượng quen thuộc như phần trước đã nói sơ lược. Tại nước ta,
trước thời điểm ngài Tỳ Ni Ða Lưu Chi sang, đã có một vị thiền sư nước
ngoài tên là Ðạt Ma Ðề Bà (Dharmadeva) đến giảng dạy thiền học cho ngài
Huệ Thắng, với phương pháp "quán hạnh", đồng thời trước đó các kinh quan
trọng về thiền học như An ban thủ ý kinh, Pháp hoa tam muội...
cũng đã lưu hành ở nước ta muộn nhất là thế kỷ thứ III. Tuy nhiên, không
thấy một dòng thiền nào được thành lập. Khi ngài Tỳ Ni Ða Lưu Chi đến
chùa Pháp Vân, và sau đó, dòng thiền thứ nhất trong lịch sử Phật giáo
Việt Nam ra đời. Ðiều này có nguyên nhân tại sao? Chúng ta sẽ có được
câu trả lời qua việc tìm hiểu bối cảnh của Phật giáo Việt Nam thời bấy
giờ và tư tưởng của ngài Tỳ Ni Ða Lưu Chi.
b. Tư tưởng của Tỳ Ni
Ða Lưu Chi và nguyên nhân ra đời của dòng thiền mang tên Ngài
Hơn nửa đầu thế kỷ thứ
VI, cuộc khủng hoảng tư tưởng của nền Phật giáo quyền năng vẫn chưa đến
hồi kết thúc. Vấn nạn tại sao không thấy được hình của Phật mà Phật tử
Lý Miễu nêu lên vẫn chưa được giải đáp một cách thỏa đáng. Nói đúng hơn,
nền tư tưởng Phật giáo quyền năng dẫu có nỗ lực qua cách viện dẫn
thuyết "cảm ứng" mà các Pháp sư Ðạo Cao và Pháp Minh đã trả lời cũng
không thể hàn gắn nổi những rạn nứt này, đặc biệt là trong tình hình
mới, ở đó sức mạnh của tự thân được thể hiện một cách mạnh mẽ qua những
thành quả trước mắt mà con người đạt được với sự thành công rực rỡ của
phong trào đấu tranh giành độc lập, nước Vạn Xuân ra đời. Do thế, ý thức
về sức mạnh của con người được bộc lộ một cách mãnh liệt. Trong bối
cảnh đó, ngài Tỳ Ni Ða Lưu Chi mang những tư tưởng Phật giáo mới lạ sang
nước ta, và lập tức thu hút người Phật tử Việt Nam đang đi tìm giải đáp
cho những thắc mắc bấy lâu của mình. Những tư tưởng đó là gì?
Ðắc pháp với ngài Tăng
Xán và là dịch giả của kinh Tượng đầu tinh xá, Tổng trì..., tư
tưởng Thiền của ngài Tỳ Ni Ða Lưu Chi hẳn phải chịu ảnh hưởng sâu đậm
của tư tưởng Bát nhã. Kinh Tượng đầu tinh xá đặc biệt nói về bản
chất của Giác ngộ. Giác ngộ (Bồ đề) không mang tính quyền năng như các
ngài Mâu Tử, Khương Tăng Hội và cả đến Ðạo Cao, Pháp Minh sau đó quan
niệm. Giác ngộ là trạng thái tâm không chấp trước và tâm giác ngộ này
vốn có trong mỗi con người. Muốn đạt đến giác ngộ phải thực hành mười
pháp thiền quán như trong kinh Tượng đầu tinh xá nói (7). Rõ ràng, giác
ngộ ở đây không phải quan niệm như một địa vị có khả năng vô biên, tùy ý
biến hiện, có năng lực siêu nhiên và không bị chế ngự bởi các điều kiện
khách quan; bậc Giác ngộ (Phật) không phải là một đối tượng quyền năng
tồn tại trong vũ trụ, thường thì con người không thấy được nhưng lại có
thể cảm ứng nếu con người có lòng thành khẩn. Trong bài kệ mà Ngài nói
với đệ tử là ngài Pháp Hiền trước lúc mất, biểu hiện rõ nhất quan niệm
này:
"Tâm ấn chư Phật
Tất
không lừa dối
Tròn đồng thái hư
Không thiếu không dư
(...)
Vì đối vọng duyên
Nên
giả đặt tên
Bởi thế chư Phật ba đời
Cũng dùng như thế mà được
Tổ
sư nhiều đời
Cũng dùng như thế mà được
Ta cũng dùng như thế mà
được
Ngươi cũng dùng như thế mà được
Cho đến hữu tình, vô tình
Cũng
dùng như thế mà được..." (8)
Giác ngộ hay thành Phật
không phải là một địa vị cao siêu và đầy quyền năng, mà ở đây, ngài Tỳ
Ni Ða Lưu Chi đã đưa đến một quan niệm mới, giác ngộ là tâm chuyển hóa,
là nhận được "tâm ấn" của Phật, giác ngộ là vấn đề xảy ra ngay trong tâm
mỗi người mà không phải bên ngoài, và ai cũng tiềm tàng cái khả năng
này, tâm tức Phật, nếu thực hành đúng phương pháp tu tập. Và đây chính
là lời giải đáp cho cuộc khủng hoảng niềm tin về một Ðức Phật quyền năng
tồn tại bên ngoài con người, mà Phật tử Lý Miễu đã nêu lên và tranh
luận với các vị Ðạo Cao, Pháp Minh qua sự kiện "sáu lá thư" hơn một trăm
năm trước.
Trong lịch sử không có
những hiện tượng ngẫu nhiên, sự ra đời của một tư tưởng hay trào lưu mới
bao giờ cũng có những bối cảnh và các nguyên nhân của nó, nó cáo chung
một trào lưu và mở ra một xu thế phát triển mới. Vào cuối thế kỷ thứ VI,
với thuyết Tâm tức Phật, ngài Tỳ Ni Ða Lưu Chi đã đem đến cho
Phật giáo nước ta lời giải đáp về vấn nạn "Phật bất kiến hình" mà Phật
tử Lý Miễu đã nêu lên, khép lại thời đại thứ nhất trong lịch sử Phật
giáo Việt Nam, thời đại Phật giáo quyền năng, và mở ra một thời đại Phật
giáo mới, với những bước chuẩn bị cho nền độc lập dân tộc và hưng thịnh
của đất nước vào các thế kỷ sau.
c. Về ngài Pháp Hiền
và hệ thống truyền thừa của dòng thiền Tỳ Ni Ða Lưu Chi
Không kể từ vị tổ sáng
lập, ngài Tỳ Ni Ða Lưu Chi, theo Thiền uyển tập anh, dòng thiền
Pháp Vân truyền thừa được19 đời, từ ngài Pháp Hiền (?-626) đến thiền sư Y
Sơn (?-1216) thì chấm dứt. Như vậy, nếu tính từ ngài Tỳ Ni Ða Lưu Chi
đến thiền sư Y Sơn, dòng thiền Pháp Vân tồn tại trong thời gian khá dài,
hơn 600 năm. Một trong những nhân vật có vai trò quan trọng đối với sự
hình thành của dòng Thiền này là vị thiền sư thế hệ thứ nhất, ngài Pháp
Hiền.
Theo Thiền uyển tập
anh, Thiền sư Pháp Hiền (?-626) người họ Ðỗ làng Chu Diên (thuộc
vùng phụ cận phía đông nam của huyện Gia Lâm, Bắc Ninh ngày nay), tu ở
chùa Chúng Thiện núi Tiên Du (Bắc Ninh). Là đệ tử đắc pháp của ngài Tỳ
Ni Ða Lưu Chi, nhưng trước khi học Thiền với Ngài thì đã từng học đạo và
thọ giới tỳ kheo với đại sư Quán Duyên tại chùa Pháp Vân. Sau khi ngài
Tỳ Ni Ða Lưu Chi mất, sư vào núi chuyên tâm tu tập thiền định. Dẫu ở
trong núi rừng nhưng tiếng tăm đạo phong của Ngài vang xa, nhiều người
tìm đến xin thọ giáo và Ngài phải lập chùa làm nơi giảng dạy. Tăng chúng
đến ở tu học thường hơn 300 người. Dòng thiền này nhân đó mà thịnh,
được kế tục qua nhiều thế hệ, có không ít tông môn xuất chúng không chỉ
trong lĩnh vực Phật học mà còn đóng vai trò quan trọng trong sự nghiệp
xây dựng đất nước, điển hình như các ngài Ðịnh Không (?-808) thế hệ thứ
8, Ðỗ Pháp Thuận (?-991) thế hệ thứ 10, đặc biệt là ngài Vạn Hạnh
(?-1025), thế hệ thứ 12...mà chúng tôi sẽ trở lại đề cập kỹ hơn trong
phần sau.
2. Sự ra đời của
dòng thiền Vô Ngôn Thông ở thế kỷ thứ IX
Sau khi dòng thiền Tỳ Ni
Ða Lưu Chi ra đời khoảng gần 250 năm, một dòng thiền thứ hai ở nước ta
được thành lập. Ðó là dòng thiền Vô Ngôn Thông. Sự ra đời của dòng thiền
này có ý nghĩa như thế nào trong lịch sử Phật giáo Việt Nam? Trước khi
trả lời cho câu hỏi đó, chúng ta tìm hiểu đôi nét về vị tổ khai sáng ra
nó, ngài Vô Ngôn Thông (759?-826).
a. Vài nét về Thiền
sư Vô Ngôn Thông
Theo Thiền uyển tập
anh, Thiền sư Vô Ngôn Thông người họ Trịnh, gốc ở Quảng Châu, Trung
Hoa. Từ nhỏ Ngài đã có những tư chất khác thường, mộ đạo, không màng đến
gia sản. Ngài xuất gia tại chùa Song Lâm ở Vũ Châu, tính tình trầm hậu,
ít nói. Tuy luôn im lặng, nhưng lại là người biết mọi chuyện một cách
tổng quát. Vô Ngôn Thông (9) là tên người đương thời gọi Ngài, cũng từ
tính cách ấy mà có. Trong thời gian ở Trung Quốc, Ngài học Thiền với
Thiền sư Bách Trượng Hoài Hải (749-814), học trò của ngài Mã Tổ Ðạo Nhất
(709-788), và là đệ tử đắc pháp với vị Thiền sư cự phách này.
Năm 820 Ngài đến nước ta,
ở chùa Kiến Sơ (10), sống tĩnh lặng, ngoài việc cơm cháo, thì thường
ngồi quay mặt vào vách, vui cái vui của Thiền, không nói năng gì suốt
mấy năm. Trong chùa có một vị Tăng tên là Cảm Thành nhận ra ở Ngài một
con người đặc biệt và hết lòng tôn kính, hầu hạ thường xuyên, từ đó tiếp
nhận được những tinh túy của Thiền tông qua cuộc sống hàng ngày của
Ngài. Và, trước khi mất, Ngài gọi sư Cảm Thành đến nhắc lại bài kệ thị
tịch của thiền sư Hoài Nhượng (677-744), đệ tử đắc pháp của Lục tổ Huệ
Năng và là thầy của thiền sư Mã tổ Ðạo Nhất:
Tất cả các pháp
Ðều
từ tâm sinh
Tâm không chỗ sinh
Pháp không chỗ trụ
Nếu đạt đất
lòng
Chỗ làm không ngại
Không gặp thượng căn
Cẩn thận chớ nói
(11).
Ngài mất vào ngày 12
tháng giêng năm Bính Ngọ, tức năm 826, thọ khoảng 68 tuổi. Nhục thân của
Ngài được học trò là ngài Cảm Thành hỏa thiêu và xây tháp thờ tại núi
Tiên Du.
Sau khi Ngài mất, dòng
thiền mang tên Ngài được hình thành. Do Ngài sang nước ta tu tại chùa
Kiến Sơ, nên dòng thiền này cũng được gọi là dòng thiền Kiến sơ.
b. Tư tưởng Thiền của
ngài Vô Ngôn Thông hay nguyên nhân ra đời của dòng Thiền mang tên Ngài ở
nước ta vào thế kỷ thứ IX
Là học trò đắc pháp của
Thiền sư Bách Trượng Hoài Hải, chắc chắn rằng tư tưởng của ngài Vô Ngôn
Thông cũng đã ảnh hưởng sâu đậm bởi tư tưởng thiền của kinh Pháp Hoa
và Viên Giác cũng như thanh quy của Tổ Bách Trượng. Nhưng tư
tưởng ấy được thể hiện trong thời gian Ngài ở nước ta như thế nào? Hiện
chúng ta biết được qua bài kệ mà Ngài đã nói cho học trò là thiền sư Cảm
Thành (?-860), được ghi lại trong Thiền uyển tập anh, trong đó
có hai câu:
Tây thiên cõi
này
Cõi này Tây thiên (12)
Những câu này rất quan
trọng, nó cho biết một trong những đặc điểm tư tưởng Thiền của ngài Vô
Ngôn Thông, và cũng chính là cơ sở lý luận để dòng thiền này ra đời. Cơ
sở này cũng không ngoài căn bản của quan niệm "tức tâm tức Phật" mà ngài
Tỳ Ni Ða Lưu Chi đã tuyên bố trước đó, nhưng có những bổ sung làm cho
cơ sở lý luận trên hoàn chỉnh hơn.
Nếu ngài Tỳ Ni Ða Lưu Chi
đưa ra một giải đáp cấp thời cho vấn nạn tại sao không thấy Phật của
người Phật tử Việt Nam ở thế kỷ thứ V, rằng Phật không ở bên ngoài mà
hiện hữu ngay trong lòng mỗi người, thì đến ngài Vô Ngôn Thông, câu trả
lời đó được bổ sung để hoàn chỉnh về mặt lý luận. Tư tưởng của ngài Tỳ
Ni Ða Lưu Chi mới chỉ nói đến một mặt của vấn đề Phật tại tâm, tức
phương diện chánh báo, mà chưa đề cập đến hoàn cảnh tương ứng bên ngoài,
tức phần y báo của đức Phật trong tâm đó. Ðến ngài Vô Ngôn Thông, vấn
đề này mới được giải quyết một cách trọn vẹn.
Khi con người giác ngộ,
"tâm địa nhược không, tuệ nhật tự chiếu" (đất tâm nếu không, trời tuệ tự
chiếu), thì không những tâm là Phật, mà hoàn cảnh bên ngoài cũng là
cảnh Phật, chứ không riêng gì Tây thiên mới là đất Phật, mà hơn thế nữa,
tại đất nước Việt Nam này cũng là đất Phật. Ðây là một tư tưởng hết sức
quan trọng, chứng tỏ một bước phát triển mới của Phật giáo và dân tộc,
khẳng định sự bình đẳng giữa các quốc gia, các nền văn hóa trên thế
giới. Ðồng thời nó khơi dậy ý thức tự tín và độc lập không những của
người Phật tử mà cả dân tộc Việt Nam. Tư tưởng này phù hợp với bối cảnh
của nước ta ở giai đoạn mà các phong trào đấu tranh giành độc lập của
nhân dân bùng lên mạnh mẽ, nó được vị Thiền sư nước ta là Cảm Thành xiển
dương, và đó là những nguyên nhân cơ bản để dòng thiền Vô Ngôn Thông ra
đời.
c. Sự truyền thừa của
dòng thiền Vô Ngôn Thông
Không kể vị sáng lập,
ngài Vô Ngôn Thông, theo Thiền uyển tập anh, dòng thiền Kiến sơ
truyền thừa được 15 thế hệ, từ ngài Cảm Thành (?-860) đến cư sĩ ng
Vương, đầu thế kỷ thứ XIII, hơn 400 năm. Dòng thiền này đã sản sinh
nhiều bậc cao tăng cho Phật giáo Việt Nam và đồng thời là những anh tài,
trí thức có những đóng góp quan trọng cho sự nghiệp gầy dựng và bảo vệ
nền độc lập của đất nước, mà nổi bật là Thái sư Khuông Việt (?-1011)
(13) thế hệ thứ IV, các ngài Ða Bảo thế hệ thứ V, Quốc sư Thông Biện
(?-1134) thế hệ thứ VIII, v.v... Ðiểm đáng chú ý của dòng thiền Vô Ngôn
Thông là đã thấy sự xuất hiện của hình thức cư sĩ-thiền sư, cư sĩ ng
Thuận Vương thế hệ thứ XV, và đây là xuất phát của dòng thiền Trúc Lâm
Yên Tử đời Trần sẽ đề cập trong phần nói về Phật giáo ở thời của vua
Trần Nhân Tông.
3. Một số đặc
điểm của Phật giáo giai đoạn từ thời Lý Nam Ðế đến thời Lý Thánh Tông
Sự ra đời của nhà nước
độc lập Vạn Xuân ở thế kỷ thứ VI có một ý nghĩa hết sức quan trọng đối
với lịch sử dân tộc ta. Nó làm phát huy mạnh mẽ ý thức độc lập dân tộc
trong nhân dân đồng thời chứng tỏ khả năng độc lập tự chủ lâu dài là có
thể. Từ năm 603, nước ta rơi vào tình trạng mất chủ quyền, bị thuộc nhà
Tùy (603-617), nhà Ðường (618-721), Hậu Lương... Nhưng trong suốt thời
kỳ này luôn sôi động bởi các phong trào đấu tranh trên các mặt trận văn
hóa cũng như vũ trang liên tục nổ ra khắp nơi, mà nổi bật hơn cả là cuộc
khởi nghĩa của Mai Hắc Ðế (722), cuộc khởi nghĩa thắng lợi với sự ra
đời của chính quyền độc lập do Phùng Hưng (Bố Cái Ðại Vương) đứng đầu
(791) (14)...và đến Ngô Quyền với chiến thắng năm 938, đã đẩy lùi quân
xâm lược ra khỏi lãnh thổ, mở ra một thời kỳ tái kiến thiết quốc gia qua
các triều Ngô, Ðinh, Tiền Lê, và đỉnh cao của giai đoạn này là sự ra
đời của triều đại Phật giáo nhà Lý do Lý Công Uẩn đứng đầu với sự hậu
thuẫn của Thiền sư Vạn Hạnh. Sơ lược như thế để thấy được sức sống của
dân tộc không bao giờ bị gián đoạn, và ở hoàn cảnh nào, Phật giáo cũng
có mặt và người Phật tử là lực lượng đại diện cho tầng lớp tiên phong
trong các phong trào, chuẩn bị về mọi mặt để tái lập nền tự chủ cho dân
tộc lâu dài, xây dựng một đất nước giàu văn hiến cũng như mở mang bờ
cõi, tạo thế phát triển vững chắc không những cho Phật giáo mà cho cả
dân tộc. Sau đây, chúng tôi sẽ nói tới ba đặc điểm nổi bật của Phật giáo
trong giai đoạn này.
a. Phong trào du học
cầu pháp ở Ấn Ðộ
Ngay từ rất sớm, người
Phật tử Việt Nam đã tiếp thu Phật giáo một cách chủ động, như đã nói qua
quá trình bản địa hóa Phật giáo và sự kiện "sáu lá thư" ở các phần
trước. Ðến giai đoạn này, câu hỏi tại sao không thấy Phật thị hiện giữa
đời đã được giải quyết với sự ra đời của hai dòng thiền Tỳ Ni Ða Lưu Chi
và Vô Ngôn Thông (dòng thiền Pháp vân và Kiến sơ). Tuy nhiên, nó cũng
không được thỏa đáng lắm. Do thế, từ thế kỷ thứ VII trở đi, một phong
trào du học tại quê hương của Phật giáo (Ấn Ðộ) chắc chắn là một phong
trào rầm rộ, mà tên tuổi các danh tăng hiện biết được như các ngài Vận
Kỳ, Giải Thoát Thiên, Khuy Xung, Huệ Diệm, Trí Hành, và đặc biệt là ngài
Ðại Thừa Ðăng (15)...
Ngài Ðại Thừa Ðăng (16)
sau khi đã học tập và nghiên cứu ở Ấn Ðộ, đã ghé Trung Quốc và gặp ngài
Huyền Tráng ở Trường An, có thể đã cộng tác dịch thuật kinh điển, sau đó
Ngài về thăm quê hương, rồi lại lên đường sang Ấn lần nữa. Theo học giả
Lê Mạnh Thát, ngài Ðại Thừa Ðăng là tác giả của nhiều tác phẩm Phật học
giá trị như Câu xá luận lý, Duy thức chỉ nguyên, Ðại thừa bách pháp
minh môn luận thuật ký...được viết vào khoảng những năm 660. Ngài đã
đi khắp nơi trên đất nước Ấn Ðộ để chiêm bái các Thánh tích của Ðức
Phật và Thánh chúng đệ tử của Ngài cũng như nghiên cứu học tập. Ngài mất
tại nơi Ðức Phật nhập diệt, ở Kusinara lúc khoảng 60 tuổi. Trước khi
mất, Ngài có để lại một bài thơ ẩn chứa đầy tình cảm tha thiết đối với
quê hương đất nước:
Khốn khổ Tử
vương
Sức vẫn còn cường
Truyền đăng một đấng
Bỗng chốc vân vong
Châu
thần vọng đoạn
Cảnh thánh hồn dương
Ðoái trông buồn mà rơi lệ
Nghĩ
khổ cực mà tình thương (17)
Ðó chỉ là những tên tuổi
nổi bật hiện nay biết được, chắc chắn rằng, du học là một phong trào rầm
rộ ở giai đoạn này, chưa kể những vị Tăng Trung Quốc đã ghé lại nước ta
trước khi đi Tây Trúc khá nhiều ở thời gian này. Ðiều đó chứng tỏ Phật
giáo vẫn phát triển trong xu thế mới, xu thế của ý thức dân tộc đang
trỗi dậy mạnh mẽ và chuẩn bị cho một nền độc lập thực sự lâu dài.
b. Phong trào các cao
tăng sang giảng kinh ở Trung Quốc
Thế kỷ thứ VII-VIII, Phật
giáo nước ta đã đào tạo nên những anh tài làm vẻ vang cho dân tộc,
trong đó có không ít người tiếng tăm lẫy lừng, được vua Ðường mời sang
thuyết pháp tại kinh đô như các ngài Ðịnh Không (18), Duy Giám mà chúng
ta biết được. Việc sang Trung Quốc để giảng dạy Phật pháp không phải là
một hiện tượng mới lạ đối với Phật giáo Việt Nam, điều này đã được các
ngài Khương Tăng Hội, Ðạo Thiền trước đó thực hiện. Tuy nhiên, việc các
danh tăng Việt Nam đi giảng đạo ở giai đoạn này, thế kỷ thứ VII-VIII,
không giống với các trường hợp trước, mà có những đặc điểm riêng. Một
mặt, các Ngài sang giảng đạo ở Trung Quốc theo lời mời của triều đình
phương Bắc, thuyết pháp cho vua quan và giới trí thức; mặt khác, trong
giai đọan này ở Trung Quốc không hiếm những anh tài, các gương mặt cự
phách trong giới Phật học, tiêu biểu như các ngài Huệ Năng, Thần Tú, Nam
Nhạc, Hạnh Tư, Thanh Nguyên, Mã Tổ Ðạo Nhất, Bách Trượng Hoài Hải,
Huyền Tráng...Như vậy, đặt trong bối cảnh đó mới thấy tài năng và đạo
phong của Tăng sĩ Việt Nam, đồng thời sự ảnh hưởng của Phật giáo nước ta
đối với các nước trong khu vực là rất lớn.Và, điểm đáng chú ý là các
Ngài sau khi thuyết giảng lại về quê hương, để lại niềm kính trọng sâu
sắc trong giới trí thức đương thời, điều này được thể hiện qua những bài
thơ tiễn đưa của các thi hào lớn như Dương Cự Nguyên viết thơ tặng Ðịnh
(Không) pháp sư; thi hào lỗi lạc Giả Ðảo làm thơ tiễn ngài Duy Giám...
còn lưu lại đến hôm nay. Ðấy là chưa kể đến những tình cảm và sự kính
trọng của các thi hào khác đối với các cao Tăng nước ta khi có dịp gặp
gỡ như nhà thơ lớn Thẩm Thuyên Kỳ với ngài Vô Ngại ở chùa Tịnh Cư,
Trương Tịch đối với một vị Tăng người Nhật Nam... (19)
Nếu như giai đoạn trước,
Phật giáo đã phát triển với một nền giáo dục toàn diện mà Khương Tăng
Hội là một điển hình cho thành quả đó, thì nay với các ngài Duy Giám,
Ðịnh Không..., nền giáo dục Phật giáo nước ta đã một lần nữa khẳng định
tính ưu việt của nó. Phải có một tri thức và đạo hạnh toàn diện mới có
thể chinh phục được tầng lớp vua quan và giới trí thức phương Bắc như
thế; với một ý thức và tình yêu đất nước sâu sắc mới không bị vinh hoa
phú quý ở nước người cám dỗ, mà luôn hướng về hay trở lại quê hương như
ngài Ðại Thừa Ðăng hay các ngài Duy Giám, Ðịnh Không..., sau khi thuyết
pháp xong thì quay về Việt Nam, để lại nhiều lưu luyến và sự kính trọng
trong giới trí thức Trung Quốc đương thời mà hôm nay chúng ta biết được
một cách rõ ràng. Ðấy là chưa kể đến những người không để lại tên tuổi
hay những Phật tử, Tăng sĩ ở trong nước đã có những đóng góp hết sức
quan trọng cho nền độc lập, văn học, tư tưởng, đặc biệt là nền giáo dục
nước nhà, như các ngài Ðịnh Hương (?-1050), Thiền Lão (sống thời Lý Thái
Tông)..., sách Thiền uyển tập anh cho biết người theo học với
các Ngài đông đến hàng nghìn.
Bị đô hộ, với chính sách
ngu dân nhằm đồng hóa về mặt văn hóa để cai trị lâu dài, nhưng chính
sách này đã thất bại. Nó đã gặp sức đối kháng trên cả nhiều mặt, vũ
trang lẫn văn hóa. Giai đoạn này, nhà chùa là trường học, các thiền sư
là người đã không những dạy chữ mà còn nhen nhúm và kích động ý thức tự
chủ trong nhân dân. Và hơn thế nữa, môi trường giáo dục Phật giáo còn là
nơi đào tạo nhân tài lãnh đạo đất nước, như các ngài Khuông Việt, Vạn
Hạnh, và đặc biệt là Lý Công Uẩn, tức Lý Thái Tổ, người mở đầu triều đại
nhà Lý với sự kiện quan trọng là quyết định dời đô từ Hoa Lư chật hẹp
về Thăng Long, mở ra một xu thế phát triển mới của dân tộc, thời kỳ Ðại
Việt hùng cường. Ðặc điểm này sẽ được đề cập rõ hơn trong phần tiếp
theo.
c. Sử dụng sấm vỹ để
nuôi dưỡng ý thức độc lập tự chủ dân tộc và làm nên các cuộc cách mạng
bất bạo động hiếm thấy trong lịch sử
Sau khi nhà nước độc lập
Vạn Xuân do Lý Nam Ðế mở đầu sụp đổ, dân tộc ta lại một lần nữa đấu
tranh gian nan để tái thiết nền độc lập tự chủ lâu dài hơn, và Phật giáo
lại thực hiện vai trò của mình, ráo riết chuẩn bị lực lượng, đặc biệt
là đã vận dụng sấm vỹ để nuôi dưỡng ý thức dân tộc, làm nên những cuộc
vận động chính trị và cách mạng thay đổi một triều đại mà không đổ một
giọt máu. Ðây là một trong những đặc điểm nổi bật của tình hình Phật
giáo ở giai đoạn này, đồng thời nó là một thể hiện về tính chất toàn
diện của nền giáo dục Phật giáo Việt Nam có từ thời ngài Khương Tăng Hội
ở thế kỷ thứ III.
Thiền uyển tập
anh có ghi lại những tiên đoán của ngài Ðịnh Không (?-808) được lưu
truyền trong quần chúng thời bấy giờ, trước khi dòng thiền Vô Ngôn Thông
ra đời, rằng trong tương lai, tại làng Cổ Pháp sẽ xuất hiện một vị vua
họ Lý làm hưng long Phật giáo (20). Những lời tiên đoán này được lưu
truyền trong nhân dân, và mãi cho đến gần 200 năm sau, thời ngài Vạn
Hạnh (?-1025) mới thành hiện thực.
Trong mấy trăm năm xâm
lược nước ta, các triều đại phương Bắc không thể thực thi chính sách đô
hộ và đồng hóa, bởi đã gặp một sức đối kháng mạnh mẽ trong quần chúng,
các cuộc khởi nghĩa nổ ra và đã có những thành công nhất định. Năm 722,
Mai Thúc Loan khởi nghĩa, xưng là Mai Hắc Ðế. Kế đến là Phùng Hưng,
vương hiệu là Bố Cái Ðại Vương, khởi nghĩa thành công lập nên một bộ máy
hành chính độc lập. Và sau đó là các triều đại độc lập của Khúc
(906-923), Dương (931-938), Ngô (939-967), Ðinh (968-980), Tiền Lê
(980-1009), và đặc biệt là thời kỳ thịnh trị của đất nước dưới sự lãnh
đạo của triều đại Phật giáo là nhà Lý (1010-1225), một triều đại làm
hưng thịnh đất nước trên mọi phương diện, nhất là về mặt văn hiến. Ðó là
những thành quả của một quá trình đấu tranh và chuẩn bị hết sức gian
lao, và Phật giáo giai đoạn này đã hoàn thành sứ mệnh của mình, không
những nuôi dưỡng ý thức dân tộc mà còn chuẩn bị lực lượng, trực tiếp
tham gia vào nhà nước trong buổi đầu xây dựng Tổ quốc với những vai trò
chính trị xung yếu, như trường hợp của ngài Ðỗ Pháp Thuận (925-990), một
người "bác học, hay thơ, có tài vương tá, hiểu rõ việc đời" (21), đã
thay mặt Hoàng đế thảo các văn thư ngoại giao của quốc gia (22); ngài
Khuông Việt Thái sư (933-1011) được vua giao những trọng trách của nước
nhà, đại diện triều đình để tiếp sứ nhà Tống và đã để lại một bài thơ
ngoại giao sớm nhất hiện biết được trong lịch sử ngoại giao của nước ta
(23); và đặc biệt là các ngài Vạn Hạnh, Ða Bảo, không những đã đào tạo
Lý Công Uẩn tài đức kiêm toàn, mà còn là người đã làm nên cuộc vận động
đưa Lý Công Uẩn lên nắm quyền lãnh đạo tối cao của đất nước khi nhà Tiền
Lê đã rơi vào chỗ mục nát, Lê Long Ðĩnh cai trị với những chính sách
bạo ngược; đồng thời ngài Vạn Hạnh là cố vấn cho vua Lý Thái Tổ, và có
thể là người "kiến trúc sư" cho việc dời đô từ Hoa Lư chật hẹp về Thăng
Long, mở ra một thời đại phát triển mới của dân tộc, của tinh thần Ðại
Việt bất khuất.
Việc các thiền sư sử dụng
sấm vỹ để truyền bá Phật pháp không phải là hiện tượng lạ, nhưng sử
dụng sấm vỹ để làm nên những cuộc vận động chính trị, không những cổ xúy
cho ý thức độc lập trong người Việt, mà còn thay đổi cả triều đại như
các ngài Ða Bảo và Vạn Hạnh đã làm đối với việc đưa Lý Công Uẩn lên chấp
chính, chấm dứt sự cai trị bạo ngược của Lê Ngọa Triều, là một đặc điểm
nổi bật của Phật giáo giai đoạn này. Từ những năm đầu của thế kỷ thứ
IX, ngài Ðịnh Không đã dấy lên trong dư luận quần chúng một tiên đoán có
người họ Lý làng Cổ Pháp sẽ ở vào ngôi thiên tử làm hưng thịnh Phật
giáo. Nó được các học trò của Ngài thừa kế, và có thể nói là tạo nên một
làn sóng dư luận dữ dội bởi vào những năm sau đó, quan đô hộ của triều
đình phương Bắc nổi tiếng về địa lý là Cao Biền (?-887) đến làm phép yểm
để nước ta không thể sinh vua. Sách Thiền uyển tập anh cũng chép
rằng, ngài Pháp Thuận "mỗi khi nói năng đều đọc thành những câu sấm",
ngài Vạn Hạnh thì "mỗi khi sư nói câu gì, người đời đều cho là câu
sấm"...Những lời sấm được vận dụng như một phương thức vận động chính
trị, tạo tiền đề cho những cuộc cách mạng giành độc lập dân tộc cũng như
xây dựng một nhà nước hợp lòng dân, với xu thế phát triển mới của đất
nước.
Trên là những đặc điểm
nổi bật của Phật giáo giai đoạn này được nói sơ lược. Tình hình Phật
giáo giai đoạn này còn có những điểm mới, nhất là sau khi các triều đại
độc lập ra đời. Nói một cách tổng quát, Phật giáo đã ảnh hưởng sâu sắc
và rộng lớn trong nhân dân, cả tầng lớp vua chúa quan lại lẫn quần
chúng. Những cột kinh có niên đại nhà Ðinh (năm 973) (24) do Nam Việt
Vương Ðinh Khuông Liễn dựng để cầu siêu cho em cùng những người chết
trước sau và là một biểu hiện sám hối tội lỗi đã sát hại em là (Ðại đức)
Ðỉnh Noa Tăng Noa, mặc dù với nguyên nhân là vì em "không trung hiếu
thờ cha và trưởng huynh, lại có ác tâm", cho biết tầng lớp lãnh đạo đất
nước thời bấy giờ đã thấm nhuần đạo lý của Phật giáo. Chỉ có thấm nhuần
đạo lý của Phật giáo mới biết ăn năn sám hối như thế, và khi người lãnh
đạo đất nước biết ăn năn trước những lỗi lầm của mình thì mới làm cho
đất nước phát triển theo chiều hướng tốt đẹp được.
Phật giáo ở giai đoạn này
không những đã phát triển sâu rộng trong nhân dân, mà đi vào các chính
sách của nhà nước. Trong các triều đại Ðinh, Lê và đầu đời Lý, các vị
cao Tăng đã trực tiếp tham gia chính sự, làm cố vấn cho nhà vua như ngài
Ngô Chân Lưu, người được vua Ðinh Tiên Hoàng (ở ngôi 970-979) tặng tên
hiệu hết sức ý nghĩa là "Giúp nước Việt" (Khuông Việt), đến thời Lê Ðại
Hành (ở ngôi 980-1005), tài đức của Ngài càng được nhà vua kính trọng, Thiền
uyển tập anh chép rằng "phàm việc quân, việc nước ở triều đình, Sư
đều dự vào" (25). Thiền uyển tập anh cũng chép về ngài Ðỗ Pháp
Thuận: "Ðang lúc nhà Lê mới dựng nghiệp, trù kế định sách lược, Sư tham
dự đắc lực. Ðến khi thiên hạ thái bình, Sư không nhận phong thưởng. Vua
Lê Ðại Hành càng thêm kính trọng, thường không gọi tên, chỉ gọi Ðỗ Pháp
sư và đem việc soạn thảo văn thư giao phó cho sư". Ngài cũng từng giả
dạng người đưa đò trong cuộc đón sứ Tống là Lý Giác năm 987 và đã để lại
những bài thơ ứng khẩu tài tình, cùng với ngài Khuông Việt, đã khiến Lý
Giác không thể không khâm phục nhân tài của nước Nam. Ngoài ra, các
ngài như Ma Ha, Vạn Hạnh đã từng được vua Lê Ðại Hành mời vào cung để
hỏi về đạo lý cũng như kế sách quốc gia, trong đó đặc biệt là ngài Vạn
Hạnh, người đã cố vấn cho Lê Ðại Hạnh nhiều lần về các vấn đề hệ trọng
của nước nhà, như việc hỏi ý kiến của Ngài về kết quả của cuôạc kháng
chiến chống quân xâm lược nhà Tống năm 980, và kết quả đúng như tiên
đoán của Ngài. Các ngài Ða Bảo và Vạn Hạnh không những là người thầy của
Lý Thái Tổ mà còn là những cố vấn chính trị quan trọng cho nhà vua
trong đường lối lãnh đạo đất nước, không những dạy cho nhà vua về Phật
pháp mà còn nhiều lần được vua mời vào cung để hỏi ý kiến và tham dự
quyết định các kế sách quốc gia. Những đóng góp của ngài Vạn Hạnh là hết
sức to lớn, được hậu thế là vua Lý Nhân Tông (ở ngôi 1072-1128) truy
tán bằng những lời đầy kính ngưỡng: "Vạn Hạnh thông ba cõi, thật hiệp
lời sấm xưa, quê hương tên Cổ Pháp, chống gậy trấn kinh đô" (26).
Trong giai đoạn này, đặc
biệt là từ các thời Ðinh, Tiền Lê, chùa chiền được xây dựng nhiều, kinh
sách được thỉnh về khá đầy đủ. Ðến đời Lý Thái Tổ, ngay sau khi dời đô
từ Hoa Lư về Thăng Long, nhà vua đã sai người đi thỉnh đại tạng kinh từ
Trung Quốc, cho xây dựng hàng loạt ngôi chùa tại kinh đô, trong và ngoài
thành như chùa Hưng Phước, Thắng Nghiêm; năm sau (1011) lại sai dựng
các chùa Vạn Tuế, Tứ Ðại Thiên Vương, Cẩm Y, Long Hưng Thánh Thọ, và
nhiều đài kinh các. Năm 1024 lại dựng chùa Chân Giáo ngay tại nội thành
để làm nơi tu tập, tụng kinh bái sám của nhà vua. Thời Lý Thái Tông (ở
ngôi 1028-1054), nhà vua đã phát tâm xây dựng hàng trăm ngôi chùa, trong
đó đặc biệt là chùa Diên Hựu (dựng năm 1049) ngay giữa kinh đô Thăng
Long (tức chùa Một Cột tại Hà Nội ngày nay) và hình ảnh của nó đã đi vào
lòng mọi người trên thế giới, trở thành một biểu tượng cho đất nước
Việt Nam.
Tóm lại, với sự ra đời
của hai dòng thiền Tỳ Ni Ða Lưu Chi (dòng thiền Pháp vân) và Vô Ngôn
Thông (dòng thiền Kiến sơ), Phật giáo không chỉ giải quyết được cuộc
khủng hoảng tư tưởng của tự thân mà hơn thế nữa, đã thực sự hòa nhập với
dân tộc, trở thành dòng tư tưởng chủ lưu trong đời sống văn hóa, chính
trị của đất nước. Phật giáo đã bổ sung, làm giàu và làm mạnh mẽ thêm cho
bản lĩnh Việt Nam quật cường. Tinh thần này được kế thừa và phát triển
trong những giai đoạn sau mà chúng ta sẽ tiếp tục tìm hiểu.
II.
Phật giáo từ thời Lý Thánh Tông đến thời Trần Nhân Tông
Phật giáo giai đoạn từ
thời Lý Thánh Tông (ở ngôi 1054-1072) đến thời vua Trần Nhân Tông (ở
ngôi 1279-1293) đã có những bước phát triển hết sức đặc thù, cùng với
việc mở rộng biên giới Tổ quốc về phương nam, Phật giáo giai đoạn này đã
chuyển mình theo một xu thế phát triển mới, xu thế cư sĩ hóa Phật giáo,
chuẩn bị tiền đề cho sự ra đời của một trào lưu nhập thế tích cực của
Phật giáo Việt Nam kể từ Trần Nhân Tông trở đi. Tuy nhiên, trước hết
chúng ta nói sơ lược về sự ra đời dòng thiền thứ ba trong lịch sử Phật
giáo dân tộc, một dòng thiền tuy tồn tại không lâu, chỉ khoảng 150 năm
(1055-1205), nhưng ý nghĩa lịch sử của nó thì không kém phần quan trọng.
1. Sự ra đời của
dòng thiền Thảo Ðường đời Lý
Năm 1069, vua Lý Thánh
Tông đi chinh phạt Chiêm Thành thắng lợi, lấy thêm được các châu Ðịa Lý,
Ma Linh và Bố Chính, mở rộng biên cương của Tổ quốc vào tận huyện Do
Linh của tỉnh Quảng Trị ngày nay; và đã bắt về một số tù nhân, trong đó
có ngài Thảo Ðường. Ngài Thảo Ðường người Trung Quốc, rất giỏi Thiền
học. Truyện chép rằng, lúc bị đưa về nước ta, Ngài được bố trí giúp việc
cho một vị Tăng lục. Một hôm, Ngài lén chữa bản Ngữ lục mà vị Tăng lục
đang biên soạn. Vị Tăng lục đó hết sức ngạc nhiên về tài năng và sự hiểu
biết của Ngài, liền mang chuyện này trình lên vua, nhà vua bèn phong
Ngài làm Quốc sư và mời về ở tại chùa Khai Quốc. Và dòng thiền thứ ba
trong lịch sử Phật giáo Việt Nam từ đó ra đời - dòng thiền Thảo Ðường.
Vậy bối cảnh để dòng thiền này thành lập là như thế nào?
Nước ta đến thời Lý Thánh
Tông đã là một quốc gia hùng cường. Cuộc chinh phạt Chiêm Thành năm
1069 thắng lợi đã tạo cho đất nước một xu thế phát triển mới, xu thế Nam
tiến mạnh mẽ. Với xu thế phát triển đó, Phật giáo cần có những bứt phá
mới để đáp ứng được yêu cầu của thời đại. Là một nhà lãnh đạo chính trị
đồng thời là một Phật tử, vua Lý Thánh Tông không thể không nhận thức
được việc chọn Phật giáo làm tư tưởng chủ đạo cho sự phát triển và việc
đào tạo con người, do vậy chính vị vua Phật tử này đã cho xây dựng Văn
miếu năm 1070 và sáu năm sau đó, tức năm 1076, vua Lý Nhân Tông cho
thành lập Quốc tử giám, một ngôi trường đại học đầu tiên trong lịch sử
giáo dục Việt Nam. Và với mục tiêu xây dựng đất nước, vị vua Phật tử này
đã không ngần ngại trong việc đưa tư tưởng Nho giáo vào để bổ sung cho ý
đồ giáo dục của mình. Chính sự xuất hiện của hệ thống trường học và
đường lối giáo dục như vậy đã chứng tỏ nền giáo dục Phật giáo đến giai
đoạn này đã được hợp thức hóa, và có một sự chuyển biến hết sức căn bản
từ một nền giáo dục tự phát tại các chùa thành nền giáo dục chính quy do
nhà nước thành lập. Trong tình hình đó, Phật giáo cần có những đổi thay
để phù hợp với yêu cầu của thực tiễn, và dòng thiền Thảo Ðường ra đời
với sự xuất hiện của các thế hệ truyền thừa chính thức không phải là
giới xuất gia như trước mà đa phần là cư sĩ, đấy là một đặc điểm nổi bật
của Phật giáo trong tình hình phát triển mới của dân tộc. Bởi lẽ, Phật
giáo nếu thực sự đi vào đời thì không chỉ giới hạn trong giới Tăng sĩ,
mà cần phải phổ biến trong giới tại gia cư sĩ; đồng thời, để cho Phật
giáo được phát triển thì ngoài thành phần cốt tủy là Tăng già, cần phải
có một sự ngoại hộ vững chắc. Lực lượng đó không thể ai khác ngoài giới
tại gia, những người sống trong đời thường mà thực hành Phật pháp, vẫn
tham gia vào mọi hoạt động xã hội để xây dựng đất nước, ngay cả vai trò
của người lãnh đạo cao nhất, mà vẫn có thể là một thiền sư, chẳng hạn
như các hoàng đế Lý Thánh Tông (thế hệ thứ nhất), Lý Anh Tông (thế hệ
thứ ba), v.v...
Theo Thiền uyển tập
anh, không tính sáng tổ là ngài Thảo Ðường, dòng thiền Thảo Ðường
truyền thừa được 5 thế hệ, từ vua Lý Thánh Tông đến Phụng Ngự Phạm Ðẳng
thì thất truyền. Về tư tưởng Thiền thì không thấy gì đặc sắc, nhưng điểm
nổi bật của dòng thiền này là lần đầu tiên trong lịch sử Phật giáo Việt
Nam, vai trò của giới cư sĩ được khẳng định một cách chính thức, phù
hợp với yêu cầu phát triển mới của dân tộc, của việc đưa đạo vào đời,
nhằm định hướng cho đời sống tâm linh, văn hóa của dân tộc. Chủ trương
này được phát triển mạnh mẽ vào đời Trần, với đỉnh cao là tư tưởng "cư
trần lạc đạo" của nhà vua-thiền sư Trần Nhân Tông.
2. Vài nét về
tình hình Phật giáo
Trong giai đoạn này, các
dòng thiền ra đời trước đó vẫn tồn tại. Tuy có sự hiện diện của ba dòng
thiền, nhưng về cơ bản, nền tảng tư tưởng của chúng không có gì khác xa
nhau, mà chỉ bổ sung và ảnh hưởng qua lại lẫn nhau. Ðặc điểm nổi bật là
sự có mặt chính thức của giới cư sĩ trong dòng thiền Thảo Ðường, phù hợp
với xu thế Nam tiến của dân tộc, vì yêu cầu về con người cho các vùng
đất mới. Nó cũng đã ảnh hưởng đến các dòng thiền khác. Ðiều đáng chú ý
là nhà vua-thiền sư Lý Thánh Tông trong thời đại của mình đã làm được
hai việc quan trọng: một là dựng Văn miếu, và hai là thành lập dòng
thiền cư sĩ, tuy không thấy một tác phẩm nào hiện có của Ngài lý giải về
hai sự kiện trên, và mãi đến thời Trần Thái Tông, qua các tác phẩm của
Ngài, những việc làm này mới được lý giải một cách rõ ràng. Trong Thiền
tông chỉ nam tự, Ngài cho biết chủ trương lập Văn miếu là để dùng
Nho làm công cụ truyền bá cho Phật giáo (27), và cư sĩ hóa với những lý
giải bằng thuyết "cư trần lạc đạo".
Với sự mở mang biên cương
của Tổ quốc về phương Nam, và với yêu cầu cấp thiết đào tạo nhân tài
cho đất nước một cách chính quy, nhà lãnh đạo Phật tử-hoàng đế Lý Nhân
Tông đã lập Văn miếu, chủ trương đưa Phật giáo vào đời sống hằng ngày,
vào tận từng đơn vị gia đình với hình thức thiền sư- cư sĩ, đồng thời
tạo lập một thế lực vững mạnh hộ trì Phật giáo, làm cho Phật giáo phát
triển sâu rộng trong xã hội. Xu hướng này là một tiền đề cho sự xuất
hiện của các thiền sư-nhà tư tưởng lớn của dân tộc như Tuệ Trung Thượng
sĩ, Trần Thái Tông, v.v... sau này.
Biến cố chính trị năm
1226 đã chấm dứt một thời kỳ rối ren cuối nhà Lý và cáo chung luôn cả
triều đại này, Trần Cảnh (1218-1277) được đưa lên nắm chính quyền, lấy
hiệu là Thái Tông, mở ra một triều đại mới là nhà Trần. Tuy nhiên, sự
thay đổi đó không ảnh hưởng lớn đến đời sống tinh thần của dân tộc, mà
về cơ bản, đặc biệt là Phật giáo, vẫn tiếp tục phát triển với nền tảng
của thời đại trước cho đến thời vua Trần Nhân Tông mới thực sự chuyển
biến một cách rõ rệt. Triều đại nhà Trần là một triều đại Phật giáo, với
nhiều chiến công hiển hách, ba lần đánh tan quân xâm lược Nguyên-Mông,
và đạt được những thành tựu rực rỡ trong công cuộc xây dựng đất nước./.
*
Chú thích:
(1) Xem Quỳnh Cư-Ðỗ Ðức
Hùng, Các triều đại Việt Nam, nxb. Thanh Niên, 1995, phần nói về
Lý Nam Ðế.
(2) Do ngài Tỳ Ni Ða Lưu
Chi sang nước ta và ở tại chùa Pháp Vân, nên dòng thiền này cũng còn
được gọi là dòng thiền Pháp Vân.
(3) Không phải là Kiến
Nghiệp, kinh đô của nhà Ngô xưa (222-280) như một số người lầm tưởng,
theo học giả Lê Mạnh Thát (trong Nghiên cứu về Thiền uyển tập anh),
"đất Nghiệp" ở đây là kinh đô của nhà Bắc Tề, nơi có núi Tư Không mà
ngài Tăng Xán từng lánh nạn (nay thuộc tỉnh Hà Nam, Trung Quốc).
(4) Gọi đủ là Phật
thuyết thủ trưởng giả nghiệp báo sai biệt kinh. Theo tác giả của Nghiên
cứu về Thiền uyển tập anh Lê Mạnh Thát, thì bản dịch hiện mang số
80 trong Ðại tạng kinh có thể không phải là bản mà ngài tỳ Ni Ða Lưu Chi
đã dịch như tiểu sử về Ngài trong Thiền uyển tập anh đã kể. Phải
chăng bản dịch của Ngài đã mất và chắc chắn nôi dung không phải thuộc
loại kinh này, bởi nghiên cứu về học lý của Ngài qua hai bản dịch đã kể
không có điểm tương thích mà học lý của bản dịch ngày nay thể hiện. Xem
chú thích 9, sđd, trang 498.
(5) Tức chùa Diên ứng,
còn gọi là chùa Dâu, nay thuộc tỉnh Bắc Ninh.
(6) Gọi đầy đủ là Ðại
phương quảng tổng trì kinh.
(7) 1.Quán nội giới của
thân là không, 2. Quán ngoại giới của thân là không, 3. Quán các pháp
trong và ngoài đều không, 4. Không bị chấp trước vào Nhất thiết trí, 5.
Không bị chấp trước vào những phương tiện tu hành, 6. Không bị chấp
trước vào các địa vị tu chứng của các bậc hiền thánh, 7. Không bị chấp
trước vào sự thanh tịnh đạt được do sự hành đạo lâu ngày, 8. An trú ở
Trí tuệ Ba la mật, 9. Không bị chấp trước vào công việc giảng luận giáo
hóa, và 10. Quán sát chúng sinh phát khởi từ bi và lòng lân mẫn.
(8) Tiểu truyện Thiền sư
Tỳ Ni Ða Lưu Chi, Thiền uyển tập anh.
(9) Cũng có người gọi
Ngài là Bất Ngữ Thông.
(10) Thuộc làng Phù Ðổng,
tỉnh Bắc Ninh ngày nay.
(11) Phiên âm Hán -Việt
nguyên văn:
Nhất thiết chư pháp
Giai
tùng tâm sinh
Tâm vô sở sinh
Pháp vô sở trụ
Nhược đạt tâm địa
Sở
tác vô ngại
Phi ngộ thượng căn
Thận vật khinh hứa.
(12) Nguyên văn phiên âm
chữ Hán: " Tây thiên thử độ/ Thử độ Tây Thiên". Tây Thiên ở đây có thể
hiểu 2 nghĩa, một là chỉ cho Ấn Ðộ, nơi xuất phát của Thiền tông,; và
hai là chỉ cho cõi Phật. Xem toàn văn bài kệ trong Thiền uyển tập anh.
(13) Thái sư là chức danh
của triều đình như Tể tướng, Khuông Việt là tước hiệu của vua Ðinh Tiên
Hoàng tặng, nghĩa là vị Thái sư khuông phò nước Việt.
(14) Một trong những dấu
vết hiếm hoi còn lại của thời kỳ lịch sử này là chiếc chuông Thanh Mai,
niên đại 798, được phát hiện tháng 4/1986 tại tỉnh Hà Sơn Bình, có khắc
tên những người đứng cúng đúc chuông, trong đó có tướng của triều đại
Phùng Hưng là Ðỗ Anh Hàn với đầy đủ tước hiệu. Xem Ðinh Khắc Thuân-Hoàng
Ngọc, Văn bản chuông Thanh Mai thế kỷ VIII, tạp chí Hán-Nôm
số 1+2/1987.
(15) Tiểu sử của các vị
danh tăng Việt Nam được ngài Nghĩa Tịnh (682-727) ghi lại trong sách Ðại
Ðường Tây Vức cầu pháp cao tăng truyện.
(16) Có tên chữ Phạn là
Mahayanapradìpa.
(17) Nguyên văn phiên âm
Hán-Việt:
Ta hỷ Tử vương
Kỳ
cực di cường
Truyền đăng chi sĩ
Yến dĩ vân vong
Thần châu vọng
đọan
Thánh cảnh hồn dương
Quyến dư trường nhi lưu thế
Khoái bố
tố nhi tình thương.
(18) Có nơi gọi là Phụng
Ðình, đó là một nhầm lẫn.
(19) Về các bài thơ, xem
Lê Mạnh Thát, Về mấy bài Ðường thi liên quan đến Phật giáo Việt Nam,
Tập văn Ban Văn hóa Trung ương GHPGVN, số 46-2000.
(20) Ngài Ðịnh Không họ
Nguyễn, mấy đời vọng tộc, am tường thế số, hành động đúng pháp tắc,được
mọi người kính trọng. Chuyện chép rằng, khoảng năm Ðường Trinh Nguyên
(785-804), Ngài lập chùa Quỳnh Lâm tại quê mình, trong lúc đào đất đắp
nền thì phát hiện có 1 cái lư hương và 10 cái khánh, Ngài cho người đem
xuống bến sông để rửa và không biết tại sao 1 cái bị chìm xuống đáy
sông. Nhân đó Ngài đổi tên cho làng từ Diên Uẩn thành Cổ Pháp (theo kiểu
chiết tự của chữ Hán) và nói những lời sấm tiên đoán rằng tại làng này
sẽ có người họ Lý làm vua làm cho Tam bảo hưng thịnh (Xem thêm tiểu
truyện Thiền sư Ðịnh Không).
(21) Tiểu truyện Thiền sư
Pháp Thuận, Thiền uyển tập anh.
(22) Sách Thiền uyển
tập anh, tiểu truyện Thiền sư Pháp Thuận chép: "Ðang lúc nhà (Tiền)
Lê mới dựng nghiệp, trù kế hoạch sách lược, sư tham gia đắc lực. Ðến khi
thiên hạ thái bình, sư không nhận phong thưởng. Vua Lê Ðại Hành càng
thêm kính trọng, thường không gọi tên, chỉ gọi Ðỗ Pháp sư và đem việc
soạn thảo văn thư giao phó cho sư". Ðáng tiếc là những tác phẩm của Ngài
nay còn không nhiều, hầu hết đã bị thất lạc. Gần đây, trong Nghiên
cứu về Thiền uyển tập anh, học giả Lê Mạnh Thát đã rà soát trong các
thư tịch cổ Trung Quốc (Toàn thư và Tống hội yếu), đã phát hiện một lá
thư do Ngài chấp bút.
(23) Thiền uyển tập
anh chép (phiên âm Hán-Việt nguyên văn):
Tường quang phong hảo
cẩm phàm trương
Thần tiên phục đế hương
Thiên trùng vạn lý thiệp
thương lương
Cữu thiên quy lộ trường
(Nhân) tình thảm thiết đối ly
trường
Phan luyến tinh tinh lang
Nguyện tương thâm ý vị Nam cương
Phân
minh báo ngã hoàng.
Dịch nghĩa:
Trời lành gió thuận,
gấm buồm trương
Thần tiên về đế hương
Muôn trùng vạn dặm biển mênh
mang
Trời xanh xa dặm trường
Tình day dứt chén lên đường
Bịn
rịn sứ tinh lang
Nguyện đem thâm ý vị Nam bang
Phân minh tấu
Thượng hoàng.
(24) Phát hiện năm 1963
tại xã Gia Trường, huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình. Xem Hà Văn Tấn, Từ
một cột kinh Phật năm 973 vừa phát hiện ở Hoa Lư, in trong Theo dấu
các văn hóa cổ, nxb. KHXH, 1998.
(25) Tiểu truyện Ðại sư
Khuông Việt.
(26) Nguyên văn phiên âm
Hán-Việt:
Vạn Hạnh dung tam tế
Chân
phù cổ sấm ky
Hương quan danh Cổ Pháp
Trụ tích trấn vương kỳ.
(27) "Ngã Phật chi giáo
hựu giả tiên thánh nhân dĩ truyền ư thế giả". Xem Thơ văn Lý-Trần,
tập II, quyển thượng, nxb. KHXH, 1989, trang 26.
Theo: Phật học hàm Thụ