Ra
đời tại Ấn Độ hơn 2500 năm trước, Phật giáo đã nhanh chóng lan toả
sang
nhiều nước trên thế giới từ trên những yếu tố tích cực của đạo đóng
góp vào
trong đời sống hàng ngày cho người dân. Có mặt tại Việt Nam hơn
2.000 năm,
Phật giáo cũng đã có những đóng góp nhất định vào nền văn hoá dân
tộc, đã
để lại những dấu ấn sâu đậm trong từng triều đại. Tuy nhiên, không
phải lúc
nào Phật giáo cũng giữ được vai trò và vị trí vàng son đó. Điều này
còn tùy
thuộc vào nhiều nguyên nhân khác nhau: từ sự vận dụng tinh thần Phật
giáo
của các thiền sư, của các vì vua, của chính quyền, đến việc từng
người dân
tiếp nhận tinh thần Phật giáo vào trong đời sống của chính mình như
thế nào
… cũng góp phần đưa lại một vị trí và vai trò nhất định cho Phật
giáo Việt
Nam.
Đặc
biệt, trong những thập niên gần đây, Phật giáo Việt Nam chuyển mình
bươc
vào một vận hội mới. Những thuận lợi, cơ duyên đã có trong bản thân
sự chuyển
biến nội lực của tổ chức Phật giáo Việt Nam, cũng như những nhân tố
từ bên
ngoài đưa vào đã tạo cho Phật giáo Việt Nam một cơ hội mới. Đồng
thời với
những yếu tố ấy, Phật giáo Việt Nam cũng đang phải đối đầu với nhiều
thách
thức đặt ra từ hai phía: nội lực và ngoại sinh.
Để
có thể thấy rõ được vị trí và vai trò của Phật giáo Việt Nam thời
hiện đại,
Phật giáo đóng góp gì vào công cuộc xây dựng một cuộc sống an bình,
hạnh
phúc và tạo ra một đời sống tâm linh phong phú, cần tìm hiểu những
cơ hội
và thách thức đang đặt ra cho Phật giáo Việt Nam.
1. Những cơ
hội mới của Phật giáo Việt Nam
-
Những nhân tố nội lực
Thế
kỷ 21 đang đến, Phật giáo thế giới cũng như Phật giáo Việt Nam bước
vào một
vận hội mới. Về phía bản thân Phật giáo Việt Nam cũng có được nhiều
thuận
lợi cơ bản. Trước hết, đó chính là việc hình thành một tổ chức Giáo
hội
Phật Giáo Việt Nam. Có một tổ chức giáo hội thống nhất, Phật giáo
Việt Nam
mới có cơ duyên thực hiện được việc thống nhất tổ chức và lãnh đạo,
thống
nhất tư tưởng và hành động. Chính sự thành lập này đã đem lại trước
hết cho
Phật giáo Việt Nam một vận hội mới về sự đoàn kết, hoà hợp trong bản
thân
Phật giáo, tạo sức mạnh nội lực để Giáo hội Phật giáo Việt Nam thực
hiện
tiếp tục nhiều hoạt động Phật sự.
Trên
cơ sở sự hình thành một tổ chức thống nhất, mọi hoạt động có liên
quan hữu
cơ thúc đẩy quá trình phát triển Phật giáo Việt Nam mới có cơ hội
thực
hiện. Từ việc thiết lập tổ chức Giáo hội Phật giáo Việt Nam, mối
tương quan
mật thiết giữa ba hệ phái được củng cố, trên cơ sở giữ vững nét đặc
thù
riêng có của từng hệ phái nhưng cũng làm phong phú, đa dạng hơn văn
hoá
truyền thống Phật giáo Việt Nam.
Trước
vận hội mới của một tổ chức Phật giáo duy nhất, Phật giáo Việt Nam
có cơ
duyên bảo tồn và phát huy được những nét tinh tuý trong văn hoá
truyền
thống Phật giáo vào thời đại mới. Nét tinh tuý đó chính là tư tưởng
nhập
thế của Phật giáo Việt Nam, là nét son tô đậm trong quá trình phát
triển
của Phật giáo Việt Nam. Xuất phát từ hệ tư tưởng của đạo Phật quan
niệm về
con người, về vũ trụ trong đó con người sinh sống, đạo Phật đề cao
lối sống
thực nghiệm, đưa nội dung giaó lý siêu việt ấy đi vào cuộc sống đời
thường,
dùng nó như một phương thuốc chữa lành vết thương cho những con
người đang
gặp nhiều nỗi đau thương mất mát, đang có quá nhiều sự sợ hãi và đau
khổ…
Tinh thần nhập thế của Phật giáo Việt Nam trải suốt hơn 2.000 năm
qua tuy
có lúc được thể hiện rõ nét, có lúc chưa được làm sáng tỏ, nhưng
điều quan
trọng là nó vẫn liên tục phát triển từng nơi từng lúc và trở thành
sợi chỉ
xuyên suốt quá trình hoạt động của Phật giáo Việt Nam. Tinh thần ấy
càng
được củng cố trong suốt thời kỳ chống ngoại xâm, đem lại nét đặc thù
riêng
có của Phật giáo Việt Nam.
Ngày
nay, trước xu thế mới của lịch sử dân tộc, tinh thần nhập thế này
lại được
các thiền sư làm sống lại, khơi gợi lên và nhân rộng ra để tinh thần
ấy có
thể đến với từng người mến mộ đạo Phật, sử dụng nó như một phương
tiện làm
phát khởi trí huệ, mang lại an lạc cho mình và cho người.
Thành
tựu của tinh thần này được biểu hiện nhiều vẻ, dưới nhiều góc độ
khác nhau.
Có thể thấy điều này trên thành quả của hàng trăm phòng phát thuốc,
hàng
chục Tuệ Tĩnh đường, các lớp học Tình Thương, trường nuôi dạy trẻ em
khuyết
tật, trung tâm tư vấn, giúp đỡ người bị HIV/AIDS; nhà ở cho người có
công
với nước, Quỹ Khuyến học cho những trẻ em nghèo hiếu học, chăm lo
cho người
già neo đơn, những trẻ mồ côi không người nuôi dưỡng…
Song
song với những thuận lợi có tính nội tại của Phật giáo Việt Nam, đạo
Phật
lại được sự hỗ trợ, hưởng ứng của chính quyền. Những người lãnh đạo ý
thức
rõ rằng Phật giáo gắn với dân tộc, đạo Phật đã góp phần cùng chính
quyền
mang lại niềm an lạc cho người dân, với phương châm vì Đạo Pháp và
vì Dân
tộc.
Bên
cạnh những thuận lợi cơ bản, có tính nội tại ấy, Phật giáo Việt Nam
cũng
đang đứng trước những làn sóng vũ bảo của nhiều chuyển biến tích cực
trên
thế giới.
-
Những nhân tố ngoại sinh
Nhiều
năm trước, một số người tu hành theo đạo là những chư sơn thiền đức,
ở trên
non cao, xa cách cuộc đời. Dường như mọi đổi thay trên thế giới,
trong khu
vực, không can hệ gì đến cuộc sống tu vốn thâm trầm, tĩnh lặng của
họ. Mối
quan hệ xã hội, mạng lưới xã hội của các Tu sĩ xưa kia vì vậy trở
nên khá
hạn hẹp. Không kể đến một số Tu sĩ đặc biệt như ngài Minh Tịnh, một
mình đi
sang Tây Tạng, không kể đến một vài thiền sư vượt ra khỏi phạm vi
đất nước,
sang nước ngoài học hỏi, thu thập thêm kiến thức mới như Hoà thượng
TS.
Thích Minh Châu, như Hoà thượng TS. Thích Trí Quảng, như GS.TS Thích
Thiện
Siêu… và một số Tu sĩ được đào tạo đại học Phật giáo trong nước, thì
còn
không ít Tu sĩ chưa quan tâm nhiều đến những thay đổi bên ngoài, chỉ
lo tu
Tịnh. Điều này có đối lập với tinh thần nhập thế của Phật giáo Việt
Nam hay
không? Hay khi nước nhà suy vong, người tu đứng lên ra trận, còn
thời thanh
bình thì trở lại chốn thiền môn?
Trong
thời đại ngày nay, những phát minh về khoa học, công nghệ thông tin,
những
phát hiện mới về khảo cổ học, về những văn bản gốc có liên quan đến
Phật
giáo như tấm bia đá do vua Asoka xây dựng tại Tây Nam Nepal được
phát hiện
gần đây; như cuốn kinh Mật tông (Bardothodol) đã được chuyển dịch
sang
nhiều ngôn ngữ trên thế giới… đã mở ra chân trời mới, giúp tiếp cận
với
Phật giáo một cách sâu sắc, chính xác và phong phú hơn. Nhiều mạng
thông
tin (website) của Phật giáo đã mở ra nhận thức mới, cung cấp tầm
nhìn rộng
và sâu về Phật giáo thế giới. Và như vậy, theo một lý giải lô gích,
chỉ có
thể hiểu rõ được Phật giáo Việt Nam trên cơ sở hiểu rõ Phật giáo thế
giới.
Càng hiểu rõ, có mối dây liên hệ mật thiết với thế giới, thì việc
thúc đẩy
Phật giáo Việt Nam phát triển mới được thuận lợi và có tính khả thi.
Chủ
trương hội nhập khu vực và quốc tế của đất nước được thúc đẩy tốt
nếu như
việc hiểu biết để hội nhập của Phật giáo Việt Nam với các nước cận
kề trong
khu vực sau đó với thế giới được thực hiện.
Như
vậy, cùng với xu thế chung của thời đại, vận hội mới đã và đang mở
ra cho
Phật giáo Việt Nam một thuận lợi lớn: hội nhập Phật giáo khu vực và
thế
giới trên cơ sở của xu thế hội nhập và toàn cầu hoá. Xu thế ấy càng
được
nhanh chóng phát triển nếu xét trên bản chất của đạo Phật, vốn là
một Tôn
giáo mang tính hoà hợp, dễ thích nghi theo dân tộc, theo từng quốc
gia. Từ
lâu tại khu vực Đông Nam Á đạo Phật đã chẳng từng là chất keo đoàn
kết các
quốc gia trong khu vực vì một nền hoà bình thịnh vượng đó sao? Riêng
đối
với Phật giáo Việt Nam, xu thế này càng được thuận lợi vì Việt Nam
có cả 3
hệ phái Phật giáo. Những tương đồng trong văn hoá, trong nghi lễ… đã
nối
kết các quốc gia theo đạo với nhau, cùng nhau ngồi lại trong những
Hội nghị
Thượng đỉnh, bàn về vai trò, vị trí và tầm quan trọng của Phật giáo
đối với
nhiều vấn đề, từ môi trường đến đạo đức, từ tâm lý đến giáo dục… Đại
hội
Hội Liên Hữu Phật giáo Thế giới (WFB) lần thứ 23, Hội Liên Hữu Thanh
niên
Phật giáo Thế giới (WFBY) lần thứ 14 và Hội đồng Phật giáo thế giới
(WBU)
lần thứ 6 đã khai mạc gần đây tại Đài Loan cho thấy có sự xích lại
gần nhau
của những người theo đạo vì một nền hoà bình và thịnh vượng cho
người dân
trên hành tinh. Đó cũng là một điều gợi cho Phật giáo Việt Nam một
hướng
hợp tác mới.
2. Những
thách thức đặt ra cho Phật giáo Việt Nam
Song
song với những thuận lợi vừa kể, Phật giáo Việt Nam trong thời hiện
đại
không phải là không gặp khó khăn. Những hạn chế và thách thức này
đặt ra
cho chính Giáo hội Phật giáo Việt Nam. Đó là những vấn đề có tính
thời đại.
Sự phát triển vũ bảo của khoa học-kỹ thuật làm chuyển đổi cuộc sống,
sinh
hoạt đời thường, trong đó có sinh hoạt của những Tu sĩ. Biến đổi
nhanh làm
cho việc đào tạo con người thích ứng theo những chuyển đổi ấy còn
khá chậm.
Xét
về nguồn nhân lực, Phật giáo Việt Nam tuy hiện nay đã có hàng trăm
Tu sĩ đi
sang các nước tiếp thu kiến thức mới, phù hợp với đà phát triển
trong thời
đại mới, đã lần lượt trở về và hàng trăm Tu sĩ trẻ tốt nghiệp Học
viện Phật
giáo trong nước mỗi năm, nhưng số lượng ấy chưa thể gọi là nhiều, và
chưa
đủ để có thể trở thành hạt nhân nòng cốt cho tất cả các mạng lưới
hoạt động
Phật sự của từng địa phương thời gian tới. Mặt khác, sự chuyển đổi
nếp sinh
hoạt, số thời khoá thực hiện nghi lễ, cũng như việc tăng cường một
số hoạt
động có tính mở rộng mạng lưới sinh hoạt cộng đồng, tăng cường mối
quan hệ
giữa những người Tu sĩ vơi thanh thiếu niên có đạo cũng như chưa vào
đạo,
cũng có làm cho một số Tu sĩ chưa thật sự đồng tình với nếp sinh
hoạt mới.
Điều đó đặt ra trong bản thân giáo hội Phật giáo Việt Nam một thách
thức
mới cả về việc nâng cao năng lực bồi dưỡng, hoằng pháp lẫn về mặt tổ
chức.
Một
vấn đề đặt ra trong giai đoạn có sự chuyển đổi trên nhiều lĩnh vực,
đối với
tất cả các Tôn giáo, đó chính là xu hướng thế tục hoá. Khá nhiều bài
nghiên
cứu trong và ngoài nước đã đề cập đến hiện tượng này (1), coi đó như
là một
trong những vấn đề có tính thời đại, diễn ra trong các Tôn giáo khác
nhau.
Đối với Phật giáo, khá nhiều công trình cũng đề cập đến vấn đề Phật
giáo
nhập thế (Engaged Buddhism) và Phật giáo thế tục hoá (Secularization
of
Buddhism) hay phong trào Phật giáo mới (the new Buddhism) (2)…
Đứng
trước những hiện tượng này, Phật giáo Việt Nam cũng cần vận dụng
những đặc
thù trong truyền thống để làm sáng tỏ khái niệm Phật giáo nhập thế,
vốn
mang tính tích cực, để phân biệt với xu hương thế tục hoá, vốn mang
tính
tiêu cực và thể hiện bản chất không tốt đẹp.
Thách
thức lớn do thời đại đặt ra đối với Tu sĩ Phật giáo Việt Nam còn là
những
hạn chế về thông tin, hoạt động của Phật giáo thế giới. Điều này
cũng làm
hạn chế tầm nhìn, nếp nghĩ, trong việc đặt quan hệ đối tác, hợp tác
tổ chức
những hội thảo về Phật giáo nhằm góp phần thúc đẩy nhanh chóng quá
trình
hội nhập với Phật giáo thế giới. Khá nhiều mạng thông tin điện tử
(website)
Phật giáo như Đạo Phật ngày nay, Thư viện Hoa sen, Trang nhà Quảng
Đức…
cung cấp nhiều nguồn tin tức mới về Phật giáo trên thế giới, nhưng
số người
đọc nó chưa phải là nhiều, đặc biệt là đối với những Tu sĩ có tuổi.
Không
kể một số Tu sĩ trẻ có trình độ ngoại ngữ và vi tính thông thạo, một
số
khác chưa quan tâm nhiều đến việc cập nhật thông tin qua mạng và
chưa cảm
thấy cần thiết phải có trình độ ngoại ngữ để đọc thêm sách báo nước
ngoài.
Vài
năm gần đây, số lượng Tu sĩ được đào tạo bậc đại học, sau đại học
Phật giáo
đã có nhiều đóng góp đáng kể vào hoạt động Phật sự của Phật giáo
Việt Nam.
Nhiều công trình sách được xuất bản mang dấu ấn của việc trở về với
nét đặc
thù riêng có của Phật giáo Việt Nam mà các tác giả là những Tu sĩ
trẻ, có hoài
bảo và năng lực, như các tác phẩm: Phật Việt Nam, Dân tộc Việt Nam
(3); Tâm
lý học Phật giáo (4)… Tuy nhiên, cũng chính từ những thành quả ấy mà
thách
thức đặt ra cho thế hệ Tu sĩ trẻ càng cao, đòi hỏi sức phấn đấu vươn
lên
trong hoằng pháp cũng như trong việc nâng cao nhận thức, để làm thế
nào
xứng đáng với vai trò là những người thầy, là cầu nối của đức Phật
với
những người Phật tử. Thách thức đó đặt ra không phải một sớm một
chiều có
thể đáp ứng được. Bởi vì ngoài áp lực của việc phải nhanh chóng nâng
cao
tầm nhìn, còn là những trở ngại khó vượt qua của muôn vàn điều kiện
cần và
đủ khác, như yêu cầu về trình độ ngoại ngữ và vi tính để có thể tiếp
cận
thông tin và xử lý thông tin, truyền đạt thông tin qua nhận thức
từng cá
nhân, kết hợp với một tấm lòng yêu thương sâu sắc đất nước, đạo pháp
và dân
tộc. Mặt khác, khó khăn lớn nhất đặt ra cho những người Tu sĩ, nhân
tố quan
trọng nhất của việc tiếp cận với vận hội mới và thách thức mới,
không chỉ
những thiếu sót vừa nêu, mà chính là nhận thức về các vấn đề này.
Một số
người có thể vẫn mang tư tưởng cho rằng có cần thiết hay không để
dành thời
gian cho những điều như vậy? Những điều này thực sự có ý nghĩa và
giúp cho
người Tu sĩ tiến tới giải thoát hay không? Chính những trăn trở ấy,
những
băn khoăn ấy là thách thức lớn đặt ra trong giai đoạn hiện nay cho
Giáo hội
Phật giáo Việt Nam.
3. Một số
giải pháp
Trước
hết, để có thể có lời đáp thoả đáng cho nhiều vấn đề mang tính thời
đại của
Phật giáo, cần thiết có nhiều buổi toạ đàm, hội thảo quốc gia và
quốc tế, những
sê-mi-nar bàn về các vấn đề trên. Chỉ có trong những hội thảo ấy,
nhiều
thách thức mới được nêu ra, được bàn bạc, trao đổi và đi đến cùng
nhau giải
quyết.
Cũng
cần nhận rõ hơn trong những yếu tố nội lực tạo tiền đề cho nhiều cơ
hội mới
và những thách thức mới thì yếu tố con người là quan trọng nhất.
Việc gấp
rút nâng cao nhận thức, tầm nhìn, đào tạo năng lực cho một thế hệ Tu
sĩ
trẻ, đủ sức gánh vác nhiệm vụ mà thời đại đặt ra cho Giáo hội Phật
giáo
Việt Nam là việc làm có tính cấp thiết.
Trong
đào tạo nguồn nhân lực, cũng đòi hỏi việc chuẩn bị lại giáo trình,
nội dung
các môn học, phương pháp tiếp cận … sao cho nền giáo dục Phật giáo
thực sự
mang ý nghĩa vì một đạo Phật Việt Nam, lấy sự tu chứng và quá trình
thực
nghiệm làm căn bản.
Song
song với việc chuẩn bị tốt giáo trình giảng dạy, cũng cần nắm bắt
được
những cốt lõi, những đặc điểm của Phật giáo Việt Nam, để trên con
đường các
Tu sĩ trẻ được đào tạo từ nhiều nguồn khác nhau, từ nhiều nước khác
nhau,
vẫn luôn tâm niệm rằng chính là để phục vụ cho đạo Phật Việt Nam,
cho giáo
hội Phật giáo Việt Nam và con người Việt Nam. Ý thức điều này, người
được
đào tạo sẽ vững tin đi trên con đường mà phương châm Giáo hội Phật
giáo
Việt Nam đã đề ra. Đó là những người Tu sĩ hành sử nhiệm vụ của mình
vì đạo
pháp và cho dân tộc.
Tóm
lại, trước sự vận hành mới của cuộc sống, đứng trước những vận hội
mới và
những thách thức mới đặt ra cho Giáo hội Phật giáo Việt Nam, những
người Tu
sĩ cần dấn thân, trang bị tinh thần nhập thế, vì cuộc sống an lạc
cho người
dân và vì một đất nước Việt Nam hùng cường, thái bình, vì một đạo
Phật Việt
Nam có bề dầy lịch sử hơn 2.000 năm mà tiến bước. Ý thức và hành
động như
vậy chính là đã góp phần hữu hiệu vào quá trình đưa Việt Nam hội
nhập khu
vực và thế giới, trong xu thế toàn cầu hóa.
Chú thích
(1).
Nguyễn Xuân Nghĩa, Tôn giáo trong thời hiện đại: Thế tục hoá hay phi
thế
tục hoá?
(2).
Ken Jonh, The social face of Buddhism: An approach to political and
Social
Activsm; David W. Chappell. Engaged Buddhism in a global Society:
Who is
Being Liberated? Socially Engaged Buddhism for the New Millannnium:
Essay
in honor of the Ven. Phra Dhammapitaka on his 60 th Birthday
anniversary.
Sathirakose nagapradipa Foundation and Foundatin for Children, 1999;
Cung
Tuấn. (GS. Đại học Trung Sơn) Thích ứng và phản kháng, thảo luận từ
hai dẫn
chứng về mối quan hệ giữa Phật giáo truyền thống với chính trị Đông Á
thời
kỳ cận đại. (Bản thảo) 2005.
(3).
Giác Dũng, 2003. Phật Việt Nam, Dân tộc Việt Nam. Nxb Tôn giáo, Hà
Nội;
(4).
Thích Tâm Thiện, 1998. Tâm lý học Phật giáo. Nxb Thành phố Hồ Chí
Minh.
Tài
liệu tham khảo
-
Cung Tuấn 2005, Thích ứng và phản kháng. Thảo luận từ hai dẫn chứng
về mối
quan hệ giữa Phật giáo truyền thống với chính trị Đông Á thời kỳ cận
đại.
Bản thảo tham luận hội thảo. Trần Anh Đào dịch.
-
Giáo hội Phật giáo Việt Nam, Bản tin, Hội nghị kỳ 4-khoá V. Giáo hội
Phật
giáo Việt Nam. 3-4/1/2006.
-
Nguyễn Xuân Nghĩa, Tôn giáo trong thời hiện đại: Thế tục hoá hay phi
thế
tục hoá? T/c Nghiên cứu Tôn giáo số 2-2003.
-
Trần Văn Trình, Chính sách tự do tín ngưỡng, Tôn giáo của Đảng, Nhà
nước và
sự phát triển của Phật giáo Việt Nam trong thời kỳ đổi mới. T/c
Nghiên cứu
Tôn giáo số 4-2003.