I. THÂN THẾ
Hoà thượng thế danh là
Phan Thanh
Bình, sau đổi tên là Phan Chín, sinh năm Mậu Dần 1938 tại Làng Vĩnh
Lộc, xã
Bình Hoà, huyện Bình Khê (nay là huyện Tây Sơn), tỉnh Bình Định.
Thân phụ là cụ ông Phan
Liễn.
Thân mẫu là cụ bà Hà Thị Bộ. Hoà thượng có tất cả 10 người anh chị em,
trong
đó hai người mất sớm.
Được sự hướng dẫn của song
thân,
gia đình của Hoà thượng đều quy y Tam Bảo tại chùa Vĩnh Lộc với Tổ Huệ
Chiếu, nhờ đó cả gia đình đều trở thành các Phật tử thuần thành, hết
lòng
kính tin Tam Bảo. Riêng Hoà thượng khi được Tổ Huệ Chiếu thí giới khai
tâm,
có pháp danh là Nguyên Ngôn, như ngầm thọ ký rằng trong tương lai thiện
nam
tử này sẽ trở thành một bậc sứ giả Như Lai với tâm nguyện truyền thừa
nguyên
ngữ chánh pháp của đức Phật.
II. THỜI KỲ XUẤT GIA TU
HỌC
Nhờ căn lành xuất thế đã
gieo
trồng trong nhiều kiếp, lại có khuynh hướng ưa chuộng đời sống đạm bạc
của
nhà thiền, tham cầu học đạo, Hoà thượng đã không nối nghiệp cha anh
theo
đường chính trị, mà chọn con đường thoát tục.
Năm 1952, khi vừa tròn 15
tuổi,
được sự cho phép của Mẹ, Hoà thượng đã được thế phát xuất gia với Hoà
thượng
Như Nguyện, hiệu Tâm Đạo, tại tổ đình Nhạn Sơn - một trong các di tích
lịch
sử của thôn Nhạn Tháp, xã Nhơn Hậu, huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định. Hoà
thượng đã được Bổn sư đặt pháp danh là Thị Lộc, tự Thành Văn.
Từ thập niên 1950, chốn Tổ
này
cũng chính là Trường Sơ Cấp Phật Học của Tỉnh nhà. Dưới sự hướng dẫn
của
thầy Bổn sư, Hoà thượng đã được theo học với các bậc danh tăng thạc đức
thời
bấy giờ từ những năm 1955 đến 1957.
Năm 1955, khi tròn 18
tuổi, căn
lành tăng trưởng, giới hạnh tinh chuyên, Hoà thượng đã được Bổn sư cho
lãnh
thọ giới pháp Sa-di. Hai năm sau đó, tức năm 1957, Hoà thượng tiếp tục
theo
học lớp Trung Đẳng Phật Học tại Tổ đình Thập Tháp, tỉnh Bình Định. Cũng
tại
nơi này, Hoà thượng đã lãnh hội được yếu chỉ của Phật pháp, phát tâm
dũng
mãnh tu hành, trở thành một trong những Học tăng ưu tú của Trường. Nhờ
thành
tích đặc biệt này, sau khi học xong học kỳ một của năm thứ nhất, Hoà
thượng
là một trong bốn Tăng sinh xuất sắc được chư tôn đức Ban Đốc Gíao tuyển
chọn, gởi vào Phật Học Đường Nam Việt, tức chùa Ứng Quang, nay là Tổ
đình Ấn
Quang. Tại Phật học đường này, Hoà thượng đã được tham học với các danh
tăng
nổi tiếng nhất của thế kỷ 20 như quý Hoà thượng Thiện Hoa, Thiện Hoà,
Trí
Tịnh, Trí Quang, Nhất Hạnh và Hoàn Quan. Vài năm sau đó, Hoà thượng
theo học
Phật học viện Phước Hoà, thuộc tỉnh Trà Vinh, dưới sự chủ giảng của HT.
Thích Thanh Từ.
Năm 1960, sau khi tốt
nghiệp lớp
Phật Học tại Phật học viện Phước Hoà, Hoà thượng lại trở về Tổ đình Ấn
Quang, tiếp tục theo học chương trình Trung Đẳng Phật Học, niên khoá
1960-
1964.
Từ năm 1966- 1969, để đào
sâu nội
điển song song với ngoại điển như một nhu cầu không thể thiếu đối với
các sứ
giả hoằng pháp lúc bấy giờ, Hoà thượng đã theo học chương trình Cử nhân
Phật
khoa tại Đại học Vạn Hạnh. Cũng cùng thời điểm này, Hoà thượng vừa học
thêm
Cử nhân Hán Việt, và được mời làm giáo thọ tại các trường Trung học
Bồ-đề
Sài Gòn - Chợ Lớn.
III. SỰ NGHIỆP GIÁO DỤC VÀ
HOẰNG
PHÁP
Với chí nguyện hoằng pháp
lợi
sanh, báo Phật ân đức của bậc sứ giả Như Lai, khi còn ngồi ghế học
đường, từ
những năm từ 1966 đến 1973, Hoà thượng đã dấn thân giảng dạy cho rất
nhiều
tăng ni và Phật tử tại các tự viện, đạo tràng ở Sài Gòn và Lục Tỉnh.
Năm 1974, với nhiều thành
tích
trong lãnh vực hoằng pháp, Hoà thượng đã được chư tôn đức Viện Hoá Đạo
bổ
nhiệm chức vụ Tổng thư ký Tổng Vụ Hoằng Pháp Gíao Hội Phật Gíao Việt
Nam
Thống Nhất, đồng thời cũng là trợ lý đặc biệt cho Hoà thượng Tổng Vụ
Trưởng
Tổng Vụ Hoằng Pháp Thích Huyền Vi.
Với khả năng kiêm ưu trong
lãnh
vực trước tác và biên tập, Hoà thượng đã được mời làm Thư ký Đặc san
Hoằng Pháp của Tổng vụ Hoằng Pháp. Đặc san này mang hương vị pháp
âm,
gắn liền với tinh thần nhập thế, đáp ứng nhu cầu học Phật đa dạng của
quảng
đại quần chúng thời bấy giờ.
Năm 1978, với tài đức kiêm
ưu,
Hoà thượng được Viện Hoá Đạo bổ nhiệm làm Chánh Đại Diện Phật Giáo quận
10.
Từ năm 1980 đến 1984, Hoà
thượng
làm giáo thọ sư Phật Học Viện Sơ đẳng Thiện Hoà tại chùa Giác Ngộ và
Trung
Đẳng Phật Học tại chùa Ấn Quang, Q.10.
Từ năm 1984, khi các Phật
học
viện trong Sài Gòn ngưng hoạt động, Hoà thượng vẫn tiếp tục giảng dạy
gia
giáo tại các tự viện trong Thành phố như chùa Ấn Quang, chùa Giác Sanh,
chùa
Giác Ngộ, chùa Từ Nghiêm, chùa Hưng Phước, chùa Bồ-đề Lan-nhã .v.v…,
theo
phương châm: “nơi nào cần chánh pháp, xin phát nguyện dấn thân.” Có
những
đêm mưa tầm tã, Hoà thượng vẫn không ngại lao nhọc, cửi chiếc xe đạp
cọc
cạch, đến giảng dạy tại các giảng đường. Đôi lúc vì hoàn cảnh khách
quan, số
lượng học viên chỉ còn vài ba người, Hoà thượng vẫn không sờn chí nản
lòng,
tha thiết với những lời pháp âm trầm bổng, hùng hồn.
Khi Trường Trung Cấp Phật
Học
TP.HCM được thành lập tại chùa Vĩnh Nghiêm, từ năm 1989, Hoà thượng
tiếp tục
tham gia giảng dạy. Kể từ khi có Lớp Cao Đẳng Phật Học, Hoà thượng trở
thành
một trong các giáo thọ sư để lại nhiều ấn tượng về kinh nghiệm tu học
sâu
sắc nhất, trong khi truyền thụ cho nhiều thế hệ tăng ni sinh các chất
liệu
chánh pháp, vừa mang tính triết lý nhưng lại không kém phần ứng dụng
thực
tế.
Nói chung, về giáo dục và
hoằng
pháp, Hoà thượng là người tinh chuyên, chịu khó và kiên trì giảng dạy
liên
tục từ những thập niên 1960 cho đến những năm tháng cuối đời. Hoà
thượng
không bao giờ từ nan giảng dạy Phật pháp cho bất kỳ các trường Phật
Học, các
trường hạ, các khoá bỗi dưỡng trụ trù, các khoá đào tạo và bồi dưỡng
giảng
sư, cho đến các đạo tràng ở các tự viện, bất luận lớn nhỏ.
Hoà thượng chẳng quản ngại
đường
xa, chẳng hề than khó. Miễn sao thính chúng chí thành và cầu học, Hoà
thượng
đều phát tâm giảng dạy với tất cả bầu tâm huyết của một bậc tiền bối vì
tương lai và vận mệnh của Phật pháp. Cuộc đời dấn thân và hoằng hoá của
Hoà
thượng đã thực hiện trọn vẹn tôn chỉ hoằng pháp của cố Hoà thượng Viện
Trưởng Thích Thiện Hoa: “Nơi nào Phật pháp cần, con đến; nơi nào chúng
sanh
cần, con đi; chẳng ngại gian lao, chẳng từ khó nhọc” Với gương hạnh cao
cả
và đặc biệt đó, Hoà thượng thật xứng đáng là vị đại sứ giả của Như Lai.
IV. TRỤ NHƯ LAI XỨ, TRÌ
NHƯ LAI
SỰ
Trên đường hoằng pháp lợi
sanh,
lúc đầu Hoà thượng chủ yếu tập trung vào hai Phật sự quan trọng là giáo
dục
và hoằng pháp. Nhưng kể từ khi được Hoà thượng Thích Hoàn Quan, một bậc
đại
giáo thọ sư của các Phật học viện, nhiều lần mời gọi làm Trụ trì, Hoà
thượng
đã về trú tại chùa Khánh Vân, chăm lo ngôi Tam Bảo, tiếp tăng độ chúng.
Ngày
12-11-1996 Hoà thượng chính thức được Hoà thượng Trưởng Ban Trị Sự THPG
TP.HCM lúc bấy giờ ký bổ nhiệm.
Từ ngày làm Trụ trì chùa
Khánh
Vân, Hoà thượng đã xây dựng nhà thờ Tiêu Diện và Hộ Pháp, tu sửa bàn
thờ Tổ,
trang hoàng lại nơi tôn thờ các Tổ sư hữu công với Phật giáo, kiến dựng
bảo
tháp (sinh phần) cho Hoà thượng Nghiệp sư, xây dựng nhà thờ linh cốt,
trùng
tu Chánh điện và kiến dựng mới dãy nhà Tăng rất khang trang, rộng rãi,
lòng
những mong làm nơi cư trú tu học cho chư tăng hữu duyên, có phương tiện
tốt
trong sinh hoạt tu học.
V. TRƯỚC TÁC VÀ BIÊN DỊCH
Mặc dù bận rất nhiều Phật
sự, đặc
biệt là công việc giảng dạy, Hoà thượng vẫn không quên việc biên soạn
và
dịch thuật một số tác phẩm Phật học trọng yếu.
Trong số các tác phẩm dịch
và chú
giải của Hoà thượng, có thể kể: Kinh Thủ Lăng Nghiêm,
Kinh Viên Giác, Bát-nhã Tâm Kinh, Kinh Pháp Bảo Đàn,
Kinh Bát Đại Nhơn Giác, Đại Thừa Khởi Tín Luận,
Phát Bồ Đề Tâm Luận, v.v... Ngoài ra, Hoà thượng còn biên soạn
một
số giáo trình cho các lớp Trung đẳng và Cao đẳng Phật học như Duy
Thức
Học Cương Yếu, Bát Thức Quy Củ, Bách Pháp
Minh
Môn Luận, Sáu Pháp Hoà Kính, Tam Vô Lậu Học và
hầu hết
các bài khoá trong bộ Phật Học Phổ Thông, với một giáo
trình
độc lập và chi tiết. Hầu hết các tác phẩm, dịch phẩm và giáo trình này
đều
còn dưới dạng cảo bản, chỉ phổ biến nội bộ cho các tăng ni sinh nghiên
cứu
học tập, chưa ấn hành chính thức.
VI. THUẬN THẾ VÔ THƯỜNG
Vì
tấm lòng
tha thiết với sứ mạng giáo dục và hoằng pháp, vì nghĩ đến tương lai của
thế
hệ tăng ni trẻ, dù mang bệnh tim và thể lực kém, Hoà thượng vẫn tham
gia
giảng dạy thường xuyên, không hề gián đoạn và ngơi nghỉ. Dù biết tuổi
hạc đã
cao, Hoà thượng vẫn không bận tâm về sức khoẻ, luôn miệt mài với năm
tháng
gió sương. Vì lẽ ấy, sức khoẻ của Hoà thượng ngày càng sa sút.
Sáng ngày 18-5-2005 nhằm
ngày 11
tháng 4 Ất Dậu, cơn đau tim bắt đầu tái phát. Như biết trước huyễn thân
sắp
rời khỏi trần thế, Hoà thượng đã thản nhiên không vào bệnh viện theo đề
nghị
của bác sĩ chuyên khoa, để chuẩn bị xả bỏ báo thân. Hoà Thượng đã trút
hơi
thở cuối cùng vào lúc 18 giờ 45 phút ngày 19/5/2005 nhằm ngày 12 tháng
Tư
năm Ất Dậu. Nhập đạo 54 năm, Hạ lạp 46 mùa an cư kiết hạ, Trụ thế 68
năm.
Những tưởng, duyên hoá độ
còn lâu
hơn nữa,
Nào ngờ đâu, sớm cỡi hạc
quy Tây.
Trong vô thường, vẫn điềm
nhiên
tự tại,
Sống chết dường gió thoảng
mây
bay.
Nguyện giác linh sớm hồi
nhập
Ta-bà
Cùng pháp lữ diễn xương
chánh
pháp.
Nam-mô Từ Lâm Tế Chánh
Tông, Tứ
thập nhị thế, Nhạn Sơn Đường thượng, Khánh Vân Tự trụ trì, huý thượng
THỊ hạ LỘC, tự THÀNH VĂN, hiệu NGUYÊN NGÔN Hoà thượng Giác
Linh,
thuỳ từ chứng giám.