Thời nay, văn minh vật chất của nhân
loại phát
triển cao độ và cuộc sống vật chất xa hoa của con người thật xưa nay
chưa từng
có. Song, nếu nhìn xem cảnh tượng của thế gian, chỉ thấy khổ nạn của
chúng
sanh càng thêm tăng trưởng. Nơi nơi đều xảy ra nạn chiến tranh, đói
khát, hạn
hán, cùng bao thiên tai họa hoạn. Các quốc gia trên thế giới phung phí
biết
bao nhiêu tài nguyên thiên nhiên cùng sáng tạo những phương thức mới
mẻ hầu
mong đối đầu với những vấn đề phức tạp trong xã hội, nhưng thật chỉ
giải quyết
tạm thời, mà không có cách gì để giải trừ cội gốc khổ đau của nhân
loại. Hòa
Thượng từng nói:
"Có thể bảo rằng hiện nay thế giới đang bị băng hoại, mà chỉ Phật giáo
mới có
khả năng cứu độ thế gian. Nếu mọi người đều hiểu rõ Phật Pháp thì mới
mong vãn
hồi được ác kiếp cho thế giới, bằng ngược lại thì e rằng thế gian sắp
đến thời
kỳ diệt vong. Ðạo Cơ Ðốc nói: "Ngày Tận Thế (Ngày Phán Xét) gần kề!".
Nếu
chúng ta phiên dịch kinh điển Phật giáo ra Anh-ngữ để giúp cho mọi
người hiểu
rõ Phật Pháp, cùng chẳng nên làm biếng giải đãi, và tiến bước phát tâm
tu đạo,
thì Ngày Tận Thế rất xa xăm, mà không biết trong tương lai đến bao
nhiêu đại
kiếp. Thật thế, chẳng có ngày nào được gọi là Ngày Tận Thế cả! Vì sao?
Một khi
Ðại Pháp Luân (bánh xe pháp lớn) của Phật Pháp chuyển động, thì ngay
cả vầng
thái dương cũng bị cuốn hút theo và không thể tự xoay chuyển nổi, nên
nào có
'Ngày Tận Thế !' "
Các quốc gia trên thế giới đều tranh
nhau bắt
chước theo nền khoa học kỹ thuật của Tây Phương. Song, vào những năm
gần đây,
nhiều nhân sĩ người Tây Phương thường tầm cầu Phật Pháp vì muốn điều
phục tâm
tánh. Tuy vậy, không những bị khó khăn về việc tìm cầu chư thiện tri
thức tu
hành đúng theo truyền thống chánh pháp mà họ còn bị trở ngại về ngôn
ngữ và
văn hóa. Quán sát cơ duyên đã thành thục, Ngài mang chánh pháp sang
Tây Phương
và bắt tay vào việc cứu vãn thế giới. Ngài nói:
"Chẳng vì chính
mình, tôi
đến đây để cứu độ người Mỹ. Hiện tại, Phật giáo ở Mỹ đang trên đà phát
triển
thịnh vượng. Trong thời kỳ Xuân Thu Chiến Quốc, Khổng Tử chu du khắp
các tiểu
quốc nên nước Tàu mới dần dần được sáng sủa, và nhân dân mới được sống
trong
cảnh thanh bình an lạc. Ngày nay, xã hội nước Mỹ đang rối loạn. Giả
như người
Mỹ không tin Phật giáo và không dựa vào Phật Pháp để cải tạo thế gian
thì xã
hội này sẽ bị băng hoại."
Thời niên thiếu, Ngài đã từng nghiên
cứu làm thế
nào để đưa giáo nghĩa Phật Pháp phổ cập khắp nơi trên thế giới, hầu
mong cứu
vãn thế nhân. Ngài nói:
"Lúc xuất gia, tôi
muốn tìm
ra lý do tại sao nghĩa lý viên mãn của Phật giáo chỉ được một số ít
người trên
thế gian tu học, còn giáo lý của đạo Tin Lành cùng Thiên Chúa được phổ
cập
toàn cầu. Nghiền ngẫm nghiên cứu mãi, tôi phát giác ra rằng vì các đệ
tử của
Phật Ðà chưa phiên dịch kinh điển Phật giáo ra ngôn ngữ văn tự của các
nước
trên thế giới. Ngược lại, đạo Thiên Chúa và Tin Lành đã phiên dịch
'Thánh
Kinh' của họ ra ngôn ngữ của mọi quốc gia, khiến ai ai đọc qua liền
hiểu ngay.
Nếu kinh điển Phật giáo được phiên dịch ra mọi ngôn ngữ thì Phật giáo
sẽ tự
được phổ cập khắp nơi mà không cần cầu mong. Do đó, vừa xuất gia, tuy
không
biết một ngoại ngữ nào, tôi vẫn phát nguyện rằng nếu còn sống ngày nào
thì tôi
sẽ giúp kinh điển Phật giáo được phiên dịch ra mọi ngôn ngữ văn tự.
Ðây là chí
nguyện của tôi, và tôi sẽ tận dụng mọi khả năng để thúc đẩy thực hiện
công tác
này."
Phật giáo được truyền từ Ấn Ðộ sang
Trung Quốc
là nhờ vào các đại cao tăng cùng chư tổ sư không quản ngại gian khổ để
thỉnh
cầu kinh điển và phiên dịch kinh tạng. Nhờ công đức của các ngài mà
chúng sanh
ở đông độ có cơ duyên hiểu rõ diệu nghĩa thâm sâu khó nghĩ bàn của
Phập Pháp.
Như lời ngài nói :
"Ngày nay, hiểu rõ
kinh
điển, chúng ta phải tri ân cảm tạ chư vị phiên dịch. Nếu không có vị
phiên
dịch, thì e rằng chúng ta sẽ không thấy một bộ kinh nào và ngay cả
chẳng được
nghe đến danh hiệu của bộ kinh đó. Nếu như thế thì làm sao chúng ta
biết y
chiếu vào đâu để tu hành? Và thật khó mà tìm ra con đường tu đạo! Thế
nên,
chúng ta phải biết ơn chư vị phiên dịch kinh điển. Từ khi kinh điển
được phiên
dịch cho đến nay, trải qua bao thời đại, người người đều thọ nhận sự
giáo hóa
từ bi của chư vị phiên dịch. Vì vậy, công đức phiên dịch kinh điển
thật không
thể nghĩ bàn, và rất phi thường vĩ đại. Bây giờ, công việc phiên dịch
qua ngôn
ngữ Tây Phương đều do quý vi. Công đức này thật vô lượng, vì không
những một
đời được lợi lạc mà hết đời này sang đời khác người Tây Phương luôn
mãi tri
ân. Công tác phiên dịch ai ai cũng có thể tham gia. Vì vậy, tôi hy
vọng sẽ
không ai chần chờ, mà hãy mau học tiếng Trung Hoa để phiên dịch kinh
điển ra
Anh văn. Mọi người hãy tận lực cố gắng cống hiến công sức của mình cho
người
Tây Phương."
Với tầm nhìn xa về tương lai, Ngài thấy
rõ chìa
khóa cứu vãn thế giới nên mới lập nguyện lớn phiên dịch kinh điển.
Song, công
việc này thật rất khó khăn. Xưa kia tại Trung Quốc, nhờ quốc vương,
đại thần
dùng lực lượng của quốc gia để thực hiện công tác phiên dịch. Hiện
tại, ở Tây
Phương, hiếm có nhân viên chánh phủ nào ủng hộ Phật giáo. Ngài nói:
"Tôi không dám
bàn luận
về việc này với ai cả, vì vừa nói đến là mọi người đều sợ hãi cảm thấy
công
tác này quá to tát mà xưa nay chưa ai dám thực hiện. Công tác này
không phải
đơn giản vì cần rất nhiều nhân lực, tài lực, cùng bao điều kiện thuận
tiện,
nên không ai dám đứng ra nhận trọng trách. Ngay cả các đệ tử đã quy y
với tôi,
không ai thật sự nhận ra tầm vóc quan trọng của công tác này."
Thế nên, với tinh thần đại vô úy, Ngài
tự mình
đứng ra lãnh trọng trách khó khăn này. Ngài nói:"Phiên
dịch kinh điển là công nghiệp của chư thánh hiền vì mãi mãi được lưu
truyền
thiên thu vạn thế. Phàm phu chúng ta làm công việc của chư thánh hiền.
Ðây là
nghĩa vụ đầy ý nghĩa vì không những lợi sanh mà còn lập công đức. Xưa
kia, chư
quốc vương, hoàng đế dùng quyền hạn của họ và lực lượng của quốc gia
để thực
hiện công tác phiên dịch. Ngày nay, chúng ta chỉ dùng lực lượng quần
chúng mà
làm. Nếu có đạt được đôi chút thành tựu gì thì tôi hy vọng rằng trong
tương
lai, những vị nguyên thủ của các quốc gia dần dần sẽ tham gia vào công
tác
này. Bây giờ, đầu tiên chúng ta phải đặt nền móng cho vững chắc. Trước
hết,
chúng ta hãy dùng lực lượng quần chúng."
Ngay cả như thế, Ngài không tự nghĩ
rằng chính
mình phát khởi công nghiệp vĩ đại này. Ngược lại, Ngài khiêm nhường
nói :
"Tôi chỉ
là công
nhân, giúp mọi người quét dọn và san bằng đường xá. Trong tương lai sẽ
có
người khác đổ đá, tráng nhựa. Ngày nay chúng ta làm công việc mà không
ai dám
và thích làm. Từng bước, chúng ta sẽ khai mở đạo lộ cho Phật Pháp."
Ngài cũng từng bảo chư đệ tử:
"Ðối với công tác
này, chúng
ta không thể lơ là xao lãng. Chúng ta phải cố gắng hết sức mình để
thực hiện
trọng trách này. Song, có sức lực đến đâu thì chúng ta làm đến đó. Hãy
tiến
bước mà hành sự. Chúng ta phải tự gánh vác trọng trách hoằng dương
Phật Pháp
trong cuộc đời này."
Tinh thần 'Xả Thân Vì Phật Sự' là tông
chỉ suốt
đời của Ngài. Mọi việc làm trong cuộc đời ngài đều biểu lộ chân thật
việc thực
hành viên mãn tinh thần này. Tất cả đều phát xuất từ tấm lòng bi mẫn,
vì lợi
ích chúng sanh. Ngài nói:
"Hiện tại, chúng ta
dùng trí
huệ của mọi người để phiên dịch kinh điển. Dầu cho có kéo dài cả bao
thập
niên, chúng ta cũng phải làm những gì lợi ích cho hậu thế, hầu mong họ
có thể
nghiên cứu Phật Pháp, tụng đọc kinh điển, chứ không phải như bây giờ,
kinh
điển bằng tiếng Anh rất ít ỏi, nên khiến cho những người muốn nghiên
cứu Phật
Pháp không biết bắt đầu từ đâu. Hãy cùng nhau phiên dịch kinh điển để
giúp
người Tây Phương được khai mở nguồn trí huệ, hầu mong sau này người
Ðông
Phương lẫn Tây Phương đều thông hiểu Phật Pháp. Mọi người phải lấy đó
làm mục
tiêu của mình. Chúng ta không nên nghĩ rằng làm việc này cho chính
mình, mà
phải nghĩ đến việc giúp đỡ nhừng người trăm ngàn năm sau sau hiểu rõ
và tu học
Phật Pháp được dễ dàng. Ðây là mục đích của chúng ta. Ðó là lý do tại
sao
chúng ta phải khổ cực cáng đáng và chịu muôn vàn khó khăn nơi đây."
Phiên dịch kinh điển có ý nghĩa trọng
đại như
thế, nhưng nếu không biết tiếng Anh hoặc không hiểu những ngôn ngữ
ngoại quốc
khác thì làm sao dịch kinh được? Ngài nói:
"Dẫu không biết một
ngôn ngữ
ngoại quốc nào, tôi cũng lập nguyện là phải thực hiện và dám làm công
tác này.
Chỉ cần khởi tư tưởng này thì Chư Phật đã hoan hỷ rồi. Ngay cả người
không
biết ngôn ngữ ngoại quốc như tôi mà dám làm, còn nói chi đến những
người biết
nhiều ngôn ngữ lại chân thật tận lực thực hiện công tác này !"
Tại nhiều quốc gia Tây Phương, Phật
Pháp rất ít
được biết đến. Hầu hết dân chúng đều chưa từng nghe qua Phật Pháp. Từ
Hồng
Kông sang Hoa Kỳ vào năm 1962, nhiệm vụ đầu tiên của Ngài là giảng
kinh thuyết
pháp. Ngài giảng về kinh Kim Cang, Tâm Kinh, Pháp Bảo Ðàn, Ðịa
Tạng,
Lăng Nghiêm, Pháp Hoa, Hoa Nghiêm, cùng những bộ kinh ngắn
như
Bát Ðại Nhân Giác, Phật Di Giáo, Tứ Thập Nhị Chương,
v.v..
Hầu như ngày nào Ngài cũng đều thuyết Pháp. Ngài nói:
"Chí nguyện của tôi
là ngày
nào còn một hơi thở nào thì tôi vẫn thuyết Pháp. Khi không còn một hơi
thở nào
nữa, tôi mới ngưng thuyết Pháp."
Nhìn vào lịch sử, chúng ta biết rằng
lúc còn tại
thế, Phật Thích Ca thường đề xướng việc dùng ngôn ngữ bình dân để
hoằng dương
giáo lý của Phật Ðà. Ðức Phật không thích giáo lý Phật Pháp được tồn
trữ trong
ngôn từ hoa mỹ mà các tôn giáo khác thường dùng vào đương thời. Ðức
Phật hy
vọng rằng thường dân với trình độ trung bình có thể hiểu rõ giáo pháp.
Thể
theo tinh thần này, khi giảng kinh thuyết pháp, Hòa Thượng Tuyên Hóa
cẩn thận
dùng những ngôn từ rất đơn giản và dễ hiểu.
Những lời chú giải của Ngài trong các
kinh điển
đều được gọi là 'Thiển Thích', tức những lời giải đơn giản, vì Ngài hy
vọng
rằng người thường hầu hết có thể hiểu được lời giảng giải của Ngài.
Ngoài ra,
vì người phiên dịch hồi đó cũng chưa hiểu rành tiếng Trung Hoa nên khó
mà hiểu
được những ngôn từ cao siêu phức tạp. Vì những người đệ tử Tây Phương
chỉ biết
chút ít về Phật Pháp, họ cần phải có sự giúp đỡ đặc biệt trong việc
hiểu rõ
các danh từ Phật học cùng ngôn ngữ Trung Hoa. Ngài dùng lời văn đơn
giản để
thuyết Pháp hầu mong phổ độ chúng sanh, giáo hóa rộng khắp, cùng chỉ
dẫn dịch
giả phiên dịch chính xác. Nhờ những lời chú giải này mà họ có kiến
thức căn
bản về Phật Pháp, rồi y chiếu theo đó để hành trì, đặt nền móng vững
chắc
trong việc tu hành.
Phàm phu không thể dùng tri kiến và trí
tuệ để
suy lường lời nói của chư thánh nhân. Ngài thường nói :
"Tôi không biết tiếng ngoại quốc nào
cả!"
Song, có nhiều lần, dịch giả cố nặn óc tìm tòi dịch sao
cho phù
hợp hoặc không biết phải dịch như thế nào, thì một cách tự nhiên, Ngài
tự nói
ra những câu hay những chữ bằng tiếng Anh thích hợp. Trong lúc phải
phiên dịch
nhanh những bài giảng của Ngài, nếu dịch giả dịch có chỗ không đúng,
Ngài nhận
ra liền và lập tức bảo : "Không
phải."
Khi mới giảng Kinh Lăng Nghiêm, trong chúng hội chỉ có bốn, năm người
là hiểu
tiếng Trung Hoa, còn những người khác thì phải dựa theo lời phiên dịch
bằng
tiếng Anh. Người Mỹ vốn rất khó giáo hóa, nên đang giảng giữa chừng
thì các
người dịch lại đình công. Chẳng còn cách nào khác, Ngài tự mình phiên
dịch
lấy. Ngài nói:
"Thật ra, tôi không hiểu tiếng Anh. Nghe họ nói năng, tôi chỉ hiểu
được vài
câu và tự dịch những câu đó. Nếu không thể nhớ được, tôi bảo họ hãy tự
nghiên
cứu tìm tòi lấy. Tuy rất ngu si, nhưng tôi có phương pháp giảng dạy
riêng!"
Kể từ ngày thấy Ngài tự diễn giảng và
tự phiên
dịch, bốn, năm người đệ tử dịch giả không còn dám đình công nữa vì
thấy rằng
làm như vậy không ích lợi gì.
Ðối với những lời giảng giải đơn giản
của Ngài,
một số người trí thức cảm thấy quá đơn sơ và thô thiển vì ngôn từ
không hoa mỹ
trau chuốt, lại cũng không uyên bác. Ngài thường bảo: "Tôi chỉ được
đến trường
học trong hai năm rưỡi thôi!" Tuy nhiên, nếu muốn sửa đổi nhuận sắc
câu văn
của Ngài, thì quí vị sẽ thấy là tuy câu văn giản dị nhưng luôn luôn
chân thật
diễn đạt nghĩa lý thâm sâu. Kết cấu của những câu văn đó thật rất thâm
mật,
thứ tự. Nếu muốn nhuận sắc thì sẽ làm mất đi kết cấu của nguyên văn.
Sự uyên
bác của Ngài về cổ văn Trung Hoa cùng kiến thức về y học, bói toán,
chiêm tinh
học, nhân tướng học v.v... vượt qua những giáo sư đại học. Thuyết
giảng nghĩa
lý kinh điển, Ngài thường dùng ngôn từ linh động thâm sâu. Một người
thất học
không thể làm được như vậy. Ngoài ra, văn phạm và cấu trúc của tiếng
Anh rất
tinh tường cẩn mật hơn tiếng Trung Hoa. Song, khi dịch lại những lời
giảng
giải của Ngài, nhiều người đều nhận thấy rằng kết cấu văn phạm rất cẩn
mật và
dễ dàng phiên dịch. Ðôi khi Ngài lại dùng kết cấu văn phạm tiếng Anh
để dùng
cho tiếng Trung Hoa, nên khiến dễ dàng cho những đệ tử không thông
thạo tiếng
Trung Hoa học được và dịch được.
Lúc Ngài bắt đầu giảng kinh, chỉ có ba
người Mỹ
đến tham dự. Trong ba người, người thứ nhất ngồi xuống nghe giảng;
người thứ
hai dựa mình trên cầu thang mà ngủ; người thứ ba nằm xuống đất, gác
hai chân
lên bàn. Ðây là cách nghe kinh của ho. Song, Ngài kiên nhẫn, không la
mắng họ,
chỉ kiên tâm giảng giải kinh điển. Ngài đã từng bảo :
"Nếu có một
người nào
muốn nghe thuyết pháp, thì tôi sẽ thuyết. Thậm chí không có người nào
thích
nghe, tôi cũng giảng thuyết cho quỷ, thần, và tất cả hàm linh."
Cứ như thế cho đến mùa hè năm 1968, khi
một nhóm
hơn ba mươi sinh viên cùng với các cao học, tiến sĩ, thạc sĩ người Mỹ
từ vùng
Seattle đến Cựu Kim Sơn để cầu thỉnh Ngài giảng kinh Lăng Nghiêm. Sau
chín
mươi sáu ngày lắng nghe Ngài giảng kinh Lăng Nghiêm, năm sinh viên
trong nhóm
đó phát tâm theo Ngài xuất gia, đánh dấu kỷ nguyên sơ khởi thành lập
Tăng Ðoàn
tại châu Mỹ.
Từ đó, nhiều vị trí thức lần lượt đến
quy y hoặc
xả tục xuất gia. Mặc dầu một số là những nhà chuyên môn trong lãnh vực
chuyên
môn của họ và có bằng cao học hay tiến sĩ, nhưng họ rất vụng về khi
dịch kinh
điển. Lại có một số hiểu đôi chút hoặc hoàn toàn không biết gì về
tiếng Trung
Hoa. Do đó, trong hai năm 1968-69, vào mỗi buổi tối tại Giảng Ðường
Phật Giáo,
Ngài mở lớp Hoa ngữ. Mỗi ngày, trước buổi công phu và giảng kinh tối,
Ngài
viết lên bảng một đoạn văn kinh Lăng Nghiêm khoảng hai mươi bốn chữ
Hoa theo
từng nét, trong khi các đệ tử vây xung quanh nhìn xem. Bằng cách này,
không
đầy một năm, những ai tham dự lớp đó đều có thể viết Hoa ngữ đúng theo
thứ tự
của từng nét. Ðồng thời, Ngài cũng khuyến khích các đệ tử mỗi ngày học
thuộc
lòng hai mươi bốn chữ Hoa đó trong kinh Lăng Nghiêm. Sau khi dời qua
chùa Kim
Sơn (góc đường Mười Lăm ở thành phố Cựu Kim Sơn), Ngài mở lớp học ngôn
ngữ vào
mỗi ngày. Trong năm đó, các đệ tử học tiếng Phạn, tiếng Trung Hoa,
tiếng Pháp,
tiếng Ðức, tiếng Tây Ban Nha, tiếng Nhật, và tiếng Anh. Ngài luôn dùng
phương
tiện thiện xảo để khích lệ các giáo sư và học sinh chuyên tâm giảng
dạy cùng
học tập các ngôn ngữ trên.
Ðể phát triển trí huệ sẳn có của mọi
người, Ngài
mở một lớp học đặc biệt. Mỗi lần đến lớp, bài học viết bằng tiếng Hoa
(sau này
có thêm tiếng Anh) lên trên bảng trước. Kế đến, người phụ giảng sẽ đọc
qua một
lần, rồi hướng dẫn cả lớp đọc bài học theo từng câu. Ðọc xong ba lần,
học sinh
tự nguyện hay được chọn để giải thích bài học bằng song ngữ. Thông
thường có
trên mười người lên giảng giải, nên khi đến lượt Ngài thuyết giảng thì
mọi đã
nghe nhiều sự giải thích khác nhau. Nghe qua những lời giải thích của
đệ tử,
chắc chắn Ngài nhận ra những điểm thiếu sót hay sai lầm, nên đã đính
chính và
giảng giải rộng thêm những điểm đó. Những buổi lên lớp như thế kéo dài
khoảng
năm sáu giờ liên tục. Sau này, phương thức giảng giải được thay đổi vì
có thêm
lời phê bình của học sinh vào gần cuối giờ học. Danh xưng của lớp học
là 'Chủ
Quán Trí Năng Thôi Ðộng Lực' (Phát Triển Trí Tuệ Sẵn Có). Phương thức
này giúp
học sinh có cơ hội học Hoa ngữ và tiếng Anh, cùng huấn luyện tánh kiên
nhẫn.
Quan trọng hơn hết là xuyên qua sự thực hành và lắng nghe người khác
giảng
giải, trí năng sẵn có của mỗi người khai mở và phát triển theo chiều
hướng
mới.
Ngài thường răn nhắc các đệ tử là phải
dùng trí
huệ chân chánh để phiên dịch kinh điển. Ngài cũng bảo rằng nếu thấy có
phần
nào dịch không đúng nghĩa thì hãy đưa ra để mọi người cùng nghiên cứu
thảo
luận. Nhờ sự nghiên cứu thảo luận công khai mà các bản dịch lại càng
thêm
chính xác. Bằng cách này, cách thức phiên dịch thuở xưa được truyền
sang Tây
Phương. Ngài nói:
"Trước khi chính
thức phê
chuẩn, hiến pháp được đọc ba lần để xem có ai còn phản đối. Chúng ta
phải áp
dụng phương pháp này để phiên dịch kinh điển. Phiên dịch xong, mọi
người lại
cùng nhau nghiên cứu một lần nữa để xem coi còn có vấn đề gì chăng.
Cần dùng
trí huệ của mọi người để phiên dịch Kinh Ðiển. Nếu ai có ý kiến gì đều
được
mang ra bàn thảo. Khi hỏi thăm ý kiến, chúng ta phải theo phương pháp
Yết Ma
(phiên họp chính thức của Tăng chúng). Nghĩa là, sau khi đọc qua một
lần, thì
hỏi xem có ai cho ý kiến để sửa chữa. Lần thứ hai đọc lại và hỏi, rồi
lần cuối
cùng cũng như thế. Bản dịch phải được đọc ba lần và phải hỏi ý kiến
mọi người
ba lần. Nên đọc chậm rãi để được nghe rõ ràng. Khi đọc xong ba lần
theo pháp
Yết Ma, những người có ý kiến nên nêu lên. Nếu không ai còn ý kiến
thêm, tức
là mọi người đều đồng ý. Trong tương lai, không ai có thể bàn cãi hay
phản đối
: "Phần phiên dịch này không hay. Hồi đó đã dịch sai.". Không ai trong
chúng
ta có thể phản đối. Thế nên, mọi người đều phải chịu trách nhiệm. Chỉ
khi nào
mọi người đều đồng ý thì bản dịch mới được thông qua. Phương thức
phiên dịch
của chúng ta ngày nay sẽ làm gương cho người sau để họ y cứ theo đó mà
làm.
Không thể nào chỉ có một bản dịch cá nhân. Chúng ta chung sức để thực
hiện
việc này."
Bên cạnh tài năng và ngôn ngữ vượt
ngoài sức
tưởng tượng của mọi người, Ngài cũng hiểu tinh tường về nguyên tắc và
phương
pháp phiên dịch. Trong ba nguyên tắc 'Tín, Nhã, Ðạt' thì Tín (trung
thật) là
quan trọng bậc nhất. Ngài nói:
"Việc quan trọng
nhất của sự
phiên dịch là phải chính xác, chứ không thể tương phản với nguyên văn.
Khi
dịch bản văn của người khác thì phải trung thực y chiếu theo lời của
người đó,
mà không thể bỏ xen ý kiến của mình vào được. Nếu văn phạm có chỗ nào
không
thông suốt thì có thể trau dồi lại, nhưng không thể thêm lời chú giải
hay ý
kiến của mình vào đó."
Tiếc thay, vài người cho rằng phương
thức giảng
giải của Ngài là thiếu uyên bác, hoặc muốn cho mình nổi bật lên, nên
tự thêm ý
kiến mình hay ý kiến của người khác vào những bản văn chú giải kinh
điển đã
được xuất bản và bỏ phần giải thích nguyên thuỷ của Ngài. Ngài thuyết
giảng
những lời "giản dị đơn sơ" với dụng ý giúp những kẻ sơ cơ cùng các
dịch giả
theo đó mà học tập để có kiến thức căn bản về Phật Pháp, rồi y cứ theo
đó mà
tu hành. Ngài không chấp trước vào lời giảng giải của mình, chỉ khiêm
tốn bảo:
"Nếu
muốn, quí vị
có thể dùng lời giải thích sơ đẳng của tôi. Hiện tại, vì mới bắt đầu,
chúng ta
nên đặt nền móng cho vững chắc, rồi sau đó khai triển cùng phiên dịch
những
kinh điển khác."
Phiên dịch Kinh Ðiển là công nghiệp cả
trăm ngàn
năm. Lập trường của Ngài là:
"Hiện tại, việc
phiên dịch
chỉ cần văn nghĩa rõ ràng và dễ hiểu là đủ rồi. Chúng ta không cần
phải tô
điểm lòe loẹt như tấm vải thêu. Chỉ cần đạt được, là đủ. Tương lai,
nếu có ai
nhận thấy rằng những bản dịch đại khái của chúng ta không hay cho lắm
thì họ
có thể trau chuốt sửa chữa lại."
Phiên dịch kinh điển để mọi người đồng
hiểu rõ.
Vì thế Ngài nhấn mạnh:
"Phải phiên dịch
kinh điển
đơn giản và rõ ràng. Không nhất định phải dùng tiếng Phạn. Nếu tiếng
Anh không
có chữ tương đương thì bất đắc dĩ mới dùng tiếng Phạn. Nếu tiếng Anh
có, thì
nên dùng những chữ mà người ở nước này có thể hiểu được dễ dàng. Nếu
chúng ta
dùng toàn chữ Phạn, thì không cần dịch Kinh Ðiển ra Hoa ngữ, rồi tiếng
Anh.
Thế thì chỉ cần bản tiếng Phạn thôi! Mục đích của việc phiên dịch là
giúp cho
kinh điển được phổ thông để mọi người khi đọc qua liền hiểu ngay. Nếu
làm được
như vậy là đã đủ rồi. Lời dịch nên đơn giản. Nếu quí vị cố ý dịch bằng
những
lời lẽ văn hoa cao siêu thi khi đọc qua, người khác sẽ bị rắc rối, ngờ
vực.
Chúng ta nên dùng trí huệ để xem coi lời văn có hợp lý hay không, rồi
mới
dùng. Như vậy là đủ. Ngôn ngữ tiến hóa từng bước theo dòng thời gian.
Bây giờ
có thể họ chưa hiểu, nhưng trong tương lai, khi đọc lại vài lần thì họ
sẽ
hiểu. Chỉ cần lời lẽ và ý nghĩa đầy đủ là tốt rồi."
Lúc theo nguyên tắc văn nghĩa thông đạt
và trung
thực, phải lưu tâm đến sự "dung hợp hoàn toàn tất cả sự khác biệt" vì
Phật
Pháp là viên dung vô ngại. Về vấn đề này Ngài nói:
"Trong khi phiên
dịch phần
chánh văn của Kinh, không thể chỉ dịch dựa theo phần chú giải. Văn
kinh như
biển cả, lời chú giải chỉ như sông ngòi từ khắp nơi tùy theo dòng mà
đổ vào
biển cả. Không thể xem sông ngòi như biển rộng. Kinh điển rất sống
động chứ
không chết cứng, và luôn viên dung vô ngại mà không chỉ đơn thuần
trong một
nghĩa. Bất cứ bản dịch nào, miễn có có đầy đủ ý nghĩa và hợp lý thì
đều có thể
chấp nhận được. Ðừng chấp cứ là phải dịch theo cách này hay cách nọ,
mà chỉ
cần chuyên chở được ý nghĩa của lời kinh là được. Chớ bỏ quá nhiều
thời giờ
vào điểm này. Càng bỏ thời giờ vào việc lòng vòng trong lời lẽ thì
càng xa ý
kinh, và bản dịch mãi không được hay cho lắm. Cần phải phiên dịch kinh
điển
một cách sống động và uyển chuyển. Không thể bướng bỉnh chấp theo ý
mình. Chỉ
miễn sao ý nghĩa của kinh văn được thông suốt là đủ rồi."
Phiên dịch kinh điển không chỉ dùng sự
khéo léo,
mà còn rèn luyện và giúp phát triển trí huệ chân chánh. Ngài nói :
"Dẫu là người
nào, nếu
tự dùng trí huệ chân chánh để phiên dịch Kinh Ðiển thì trí huệ ngày
một khai
mở, ngày một tăng trưởng. Nếu ngày ngày chuyên tâm chú ý học hành thì
trí huệ
sẽ được triển khai."
Ðể bảo đảm việc phiên dịch được chính
xácvà chân
chánh phù hợp với ý Ðức Phật, Ngài thường răn nhắc các đệ tử:
"Phiên dịch kinh
điển phải
có chánh tri chánh kiến, và nhất định phải chánh trực. Không nên thiên
vị hoặc
dùng lời hoa mỹ thuận theo nhân tình. Phải quyết định mau mắn và dùng
lời xác
quyết, cùng có tinh thần phán xét như phán quan (quan tòa). Phải khởi
tâm
thành khẩn và dùng tri kiến chân thật thâm sâu, cùng có tánh quả
quyết. Phải
khách quan mà phiên dịch và đừng để bị kẹt trong văn tự chữ nghĩa.
Phải dùng
trí huệ chứ chẳng dùng mảy may tình cảm mà phiên dịch. Dẫu là lời của
ai, nếu
nghĩ rằng không chính xác thì phải cứng rắn xét đoán vô tư. Phải vô
tình và
lạnh lùng để phiên dịch kinh điển. Nếu dùng tình cảm thì sai lạc rồi.
Khi
phiên dịch, phải hình dung tâm trạng của Phật Thích Ca vào đương thời.
Phải tự
hỏi: "Tại sao Ðức Phật thuyết Kinh này ? Ngài lúc đó đang nghĩ gì?
Ngài có
dụng ý gì lúc đó?" Phải vận dụng tư tưởng để nắm rõ đạo lý mà Ðức Phật
xiển
dương trong bài kinh đó. Làm được như thế thì quí vị sẽ thông đạt diệu
nghĩa
thâm sâu của lời kinh."
"Kẻ có chí
hướng cao xa,
đầu tiên phải tu đức, rồi sau đó mới áp dụng vào văn chương và nghệ
thuật."
Theo tiêu chuẩn của Ngài,
dịch giả
dẫu có khả năng khéo léo về ngôn ngữ, và đủ thông minh liễu giải lời
diễn
giảng của Ngài, thì cũng chưa được xem là dịch giả hoàn hảo. Ngài lập
ra Tám
Quy Luật Phiên Dịch Kinh Ðiển. Nếu các dịch giả chân chánh tuân theo
tám quy
tắc căn bản này thì công tác phiên dịch mới hàm dưỡng đạo đức cao
thượng.
Những ai tham gia vào công tác phiên dịch kinh điển phải tuân thủ
những quy
tắc sau đây:
Tám Quy Luật Phiên Dịch Kinh Ðiển là:
·
1. Dịch giả phải thoát mình ra
ngoài động cơ tự truy cầu danh lợi.
·
2. Dịch giả phải tu thân dưỡng
tánh, dứt bỏ đi thói cao ngạo.
·
3. Dịch giả phải tự chế, không
được tự khen mình nhưng lại chê bai kẻ khác.
·
4. Dịch giả không được tự cho
mình là tiêu chuẩn, là thước đo rồi hạ thấp kẻ khác bằng cách tìm lỗi
lầm nơi
tác phẩm của họ.
·
5. Dịch giả phải lấy tâm Phật
làm tâm mình.
·
6. Dịch giả phải dùng
Trạch-pháp-nhãn để phán xét đâu là chân lý.
·
7. Dịch giả phải cung kính cầu
thỉnh Cao Tăng, Ðại Ðức ở mười phương chứng minh cho bản dịch.
·
8. Dịch giả phải nỗ lực truyền
bá giáo nghĩa nhà Phật bằng cách in Kinh, Luật, Luận, cùng các Kinh
sách khác
sau khi các bản dịch được chứng minh là đúng.
Qua Tám Quy Luật Phiên Dịch Kinh Ðiển
này, chúng
ta thấy rõ mỗi dịch giả tham gia vào công tác phiên dịch phải có tâm
lượng
quảng đại cùng phẩm cách cao thượng thì mới gánh vác được trọng trách
về công
tác thần thánh này. Ngài khuyến khích các người tham gia công việc
phiên dịch
bằng những lời sau:
"Tâm lượng của
chúng ta phải
bao trùm hư không, tràn đầy khắp các thế giới nhiều như số cát, bao
quát cùng
dung chứa tất cả. Còn nghi ngờ điều gì thì phải đưa ra. Thấy điểm nào
đúng thì
phải giải thích cặn kẽ. Mọi người cùng đồng thảo luận và nghiên cứu,
chứ không
cần tranh luận cãi vã. Không có trường hợp kẻ này thắng, còn kẻ khác
thì thua.
Trong chúng ta, không ai thắng cũng không ai thua. Luôn luôn, mọi
người bình
đẳng. Ðoàn kết và bình đẳng, chúng ta cùng nhau tiến bước."
Công tác phiên dịch trong thời đại này
có ý
nghĩa rất trọng đại, nhưng đặc biệt khó khăn muôn vàn. Ngài nói:
"Chúng ta hiện nay
không có
nhiều người hiểu Hoa ngữ, và một số trong chúng ta cũng không biết
nhiều về
tiếng Anh. Do đó chúng ta đang phiên dịch Kinh Ðiển trong hoàn cảnh
khó khăn
gian nan. Dẫu rằng như thế, chúng ta vẫn dự bị truyền bá huệ mạng của
Ðức
Phật, truyền tiếp ngọn đuốc Phật pháp. Công việc chúng ta đang làm sẽ
có ảnh
hưởng lớn lao đến nhân loại trong tương lai. Do đó, chúng ta muốn làm
công tác
thần thánh này với nỗ lực không ngừng. Không thể cẩu thả, mà phải đặc
biệt
trịnh trọng thực hành công tác này với tất cả sự nghiêm túc. Phải tự
nghĩ :
"Là một phần tử của Phật Giáo, nếu tôi không hoàn thành trọng trách
này thì
đợi ai làm ?" Mỗi người trong chúng ta phải nghĩ: " Tôi không làm thì
ai làm
đây ? Tất cả trọng trách hoằng dương Phật Pháp đều do tôi gánh vác."
Xưa kia, khi Kinh điển đang được phiên
dịch tại
Trung Hoa, bút, mực giấy và những vật dụng khác để dùng vào việc phiên
dịch
kinh điển rất khó tìm. Thời hiện đại tiến bộ hơn lúc xưa nhiều, và cơ
duyên
tham gia vào công tác này trong trăm ngàn vạn kiếp thật rất khó tìm
cầu. Ngài
nói :
"Lúc phiên dịch
kinh
điển, phải phát khởi tâm pháp hỷ sung mãn (niềm vui pháp tràn đầy) chứ
đừng có
tâm tranh đấu ganh đua. Phải dùng trí huệ quyết đoán, mà chẳng nên
dùng ngu si
lưỡng lự. Phải nghĩ rằng công tác này thật khó gặp : "Tôi được tham
gia Pháp
Hội Phiên Dịch Kinh Ðiển. Thật là một việc may mắn khó gặp được trong
vạn
kiếp. Thật khó nói lên hết nỗi vui mừng!" Trong những lần bắt đầu
phiên dịch
kinh điển, chúng ta đầu tiên phải thầm niệm: "Nam mô thường trụ thập
phương
Phật. Nam mô thường trụ thập phương Pháp. Nam mô thường trụ thập
phương Tăng."
Không phải niệm ra tiếng. Trong tâm cũng phải suy tưởng : "Con quy y
vô lượng
vô biên tận hư không biến Pháp Giới thường trụ Tam Bảo mười phương.
Ngưỡng
mong Tam Bảo gia hộ, khiến chúng con có được chánh tri chánh kiến,
khai mở trí
huệ rộng lớn để phiên dịch kinh điển." Mỗi khi làm công tác phiên dịch
kinh
điển, đầu tiên mỗi người phải tự cầu chư Phật gia hộ. Không thể dùng
tâm phàm
phu mà phiên dịch kinh điển. Phải dùng chân ý của Ðức Phật. Khi phiên
dịch,
phải tự hỏi: "Nghĩa lý này có tương hợp với ý của Ðức Phật hay không ?
Có
tương phản với lời Ðức Phật dạy hay không ? Ðức Phật thuyết kinh này
với dụng
ý gì ?" Ðó là điều cần lưu ý. Tuy có thể bảo đây là vọng tưởng, nhưng
nếu tâm
chánh thì những gì làm sẽ chân thật. Quán tưởng nếu chân thật thì sẽ
hiệp với
Tam Bảo thành một thể."
Trí huệ và tầm nhìn của Ngài tuy vượt
xa người
thường, nhưng dẫu ở nơi nào, Ngài cũng đều đi sau, nhường cho các đệ
tử đi
trước, vì suốt đời luôn muốn bồi dưỡng nhân tài cho Phật Giáo, hầu
mong đặt
nền tảng vững chắc cho Phật Pháp tại Tây Phương. Ngài nói :
"Tôi có thể tự
cáng đáng
lấy dẫu là việc gì, nhưng lại không muốn làm. Một mình tôi làm thì
không có
nhiều ý nghĩa. Phật Pháp là của chung cho mọi người. Phải rèn luyện
nhiều nhân
tài cho Phật Giáo. Mục đích của tôi là bồi dưỡng nhân tài chứ không
phải tự
bồi dưỡng chính mình."
Do đó, Ngài "đổ tâm huyết không ngừng
nghỉ." Bất
cứ lúc nào, trong những trường hợp khác nhau, Ngài luôn dùng nhiều
phương pháp
khác nhau để rèn luyện đệ tử. Từng chút, từng bước một, qua nhiều ngày
tháng,
ngài đã huấn luyện nhiều nhân tài ưu tú phiên dịch kinh điển cho Phật
Giáo.
Công tác phiên kinh điển của Tổng Hội
Phật Giáo
Pháp Giới được phát khởi vào năm 1968. Ðương thời giảng đường cũng là
nơi
phiên dịch. Ngài giảng kinh vừa xong thì các đệ tử liền phiên dịch
thành Anh
văn trong cùng ngày. Vào năm 1973, Ngài chính thức thành lập 'Viện
Phiên Dịch
Kinh Ðiển' tại đường Washington ở vùng Cựu Kim Sơn. Ðến năm 1977, viện
lại
được sát nhập vào trường Ðại Học Phật Giáo Pháp Giới, với danh xưng
'Học Viện
Phiên Dịch Kinh Ðiển Quốc Tế'. Vào năm 1990, Ngài lại nới rộng và dời
Viện về
thành phố Burlingame ở phía nam vùng Cựu Kim Sơn. Ðịa chỉ là 1777
Murchison
Drive, Burlingame, CA 94010. Tel : (415)692-5912.
Công tác phiên kinh điển của Tổng Hội
Phật Giáo
Pháp Giới được phát khởi vào năm 1968. Ðương thời giảng đường cũng là
nơi
phiên dịch. Ngài giảng kinh vừa xong thì các đệ tử liền phiên dịch
thành Anh
văn trong cùng ngày. Vào năm 1973, Ngài chính thức thành lập 'Viện
Phiên Dịch
Kinh Ðiển' tại đường Washington ở vùng Cựu Kim Sơn. Ðến năm 1977, viện
lại
được sát nhập vào trường Ðại Học Phật Giáo Pháp Giới, với danh xưng
'Học Viện
Phiên Dịch Kinh Ðiển Quốc Tế'. Vào năm 1990, Ngài lại nới rộng và dời
Viện về
thành phố Burlingame ở phía nam vùng Cựu Kim Sơn. Ðịa chỉ là 1777
Murchison
Drive, Burlingame, CA 94010. Tel : (415)692-5912.
Khi Hội Phiên Dịch Kinh Sách được thành
lập,
Ngài lập ra Bốn Ban để điều hành việc phiên dịch: (1) Ban Phiên Dịch,
(2) Ban
Duyệt Thảo, (3) Ban Nhuận Sắc, và (4) Ban Chứng Minh. Bốn ban này cung
ứng
phương thức tuyệt hảo cho việc huấn luyện những người mới tham gia
trong tiến
trình phiên dịch. Quan trọng hơn nữa là khi người người đều tập lấy
tâm Phật
làm tâm mình đang khi phiên dịch và thể nhập vào những lời pháp ngữ
của Ngài,
tâm trí họ được mở rộng và trưởng thành giúp tiến bước vững chắc trên
đường
tiến đến đạo Bồ Ðề vô thượng.
Mục đích của việc phiên dịch kinh điển
là giúp
chúng sanh có cơ hội nghe Phật Pháp và theo đó mà tu hành. Mục đích
của Hội
Phiên Dịch Kinh Sách Phật Giáo, dưới sự lãnh đạo của Ngài, là muốn
mang nghĩa
lý chân thật của Phật Pháp truyền vào xã hội Tây Phương, để người Tây
Phương
có thể y chiếu vào giáo pháp của Ðức Phật để tu hành. Ðiểm đặc sắc của
Hội
Phiên Dịch Kinh Sách Phật Giáo là những người liên hệ trong công việc
phiên
dịch đều huân tập truyền thống Phật Giáo chánh thống, cùng chân thật
cống
hiến đời mình để hành trì Phật Pháp, chứ chẳng phải chỉ đơn thuần
nghiên cứu
văn tự. Vì lý do đó, những kinh sách do hội xuất bản đều nhấn mạnh sự
chân
thật hành trì đạo lý Phật Pháp hơn là sự kiến giải.
Vào tháng 1 năm 1993, qua sự hướng dẫn
của Ngài,
hội được cải tổ lại. Tiến trình phiên dịch và xuất bản được chính thức
xác
định. Ngài dạy rằng những kinh sách do Tổng Hội Phật Giáo Pháp Giới
xuất bản
trong tương lai phải được in bằng song ngữ.
Hiện nay, tiến trình phiên dịch kinh
điển của
hội theo từng bước như sau (ví dụ dịch sang tiếng Anh):
·
1. Chuyển (những lời
thuyết
pháp của Ngài) từ băng cuộn lớn sang băng cassette
·
2. Sao chép lại (lời
giảng
thuyết của Ngài)
·
3. Ðánh bằng Hoa ngữ
vào máy
điện toán
·
4. Kiểm tra bản sao
chép Hoa
ngữ
·
5. Ðọc và sửa lỗi đánh
máy bản
Hoa ngữ (nhiều lần)
·
6. Nhuận văn bản Hoa
ngữ (nhiều
lần)
·
7. Chứng minh bản Hoa
ngữ.
·
8. Dịch sang tiếng Anh
·
9. Ðối chiếu bản Hoa
ngữ và
tiếng Anh
·
10. Nhuận văn tiếng Anh
(nhiều
lần)
·
11. Chứng minh bản dịch
tiếng
Anh
·
12. Ðối chiếu song ngữ
(nhiều
lần)
·
13. Chứng minh song ngữ
·
14. Ðánh và sắp đặt vào
máy
điện toán
·
15. Ðọc và sửa lỗi đánh
máy bản
tiếng Anh (nhiều lần)
·
16. Sửa chữa trên máy
điện toán
·
17. Sắp đặt bản tiếng
Anh vào
máy điện toán lần thứ hai
·
18. Ðọc và sửa lỗi đánh
máy
(nhiều lần)
·
19. Sửa lại trên máy
điện toán
·
20. In mẫu (in bằng
bạc)
·
21. Trình bày
·
22. Ấn hành
Mỗi bước ở trên đều dùng rất nhiều thời
giờ và
nhân lực. Mỗi giây phút, mỗi sự nỗ lực đều có giá trị vì nhằm vào sự
chính xác
tối đa trong công việc phiên dịch. Những hội viên của Hội gồm có quý
vị xuất
gia và cư sĩ, là những người tình nguyện phát tâm cống hiến công sức
cho công
việc này. Ngài nói: "Công tác của chúng ta chẳng phải là công việc
bình thường
của thế nhân. Ðừng hỏi :"Tôi sẽ được tưởng thưởng gì khi làm công tác
này ?
Trong tương lai tôi sẽ được gì ?" Công tác phiên dịch, không có phần
thưởng
thế gian nào cả; chúng ta làm việc cho Phật Giáo hoàn toàn trên căn
bản tự
nguyện. Hoàn toàn cống hiến cuộc đời mình để làm việc Phật sự. Do đó
chúng ta
không muốn tiền cũng không muốn danh. Chúng ta không tham tiền tài,
cũng không
tham danh vọng, sắc đẹp, ăn uống, ngủ nghi. Công tác này phải phù hợp
với sáu
đại tông chỉ là sáu con đường to lớn sáng sủa: không tranh, không
tham, không
cầu, không ích kỷ, không tư lợi, không nói láo. Làm công việc này,
chúng ta
không cầu xin phần thưởng hay bất cứ vật gì, mà chỉ đơn thuần muốn
phiên dịch
kinh điển Phật Giáo, và như thế là đủ lắm rồi!"
Hội Phiên Dịch Kinh Sách đã xuất bản
kinh sách
bằng tiếng Anh từ năm 1972. Ðến nay, Hội đã xuất bản hơn hai trăm bản
dịch chú
giải của Ngài đã được phiên dịch từ Hoa ngữ sang tiếng Anh, Pháp, Tây
Ban Nha,
Việt và Nhật. Hiện tại, năm quyển kinh có chú giải và pháp ngữ đã được
xuất
bản bằng song ngữ (Hoa-Anh).
Tổng Hội Phật Giáo Pháp Giới cũng liên
tục phát
hành nguyệt san Kim Cang Bồ Ðề Hải từ năm 1970 với mục đích truyền bá,
tuyên
dương chánh pháp. Nguyệt san đã được hai mươi tám năm tròn kể từ năm
1970. Ðể
phù hợp với nguyên tắc ấn bản song ngữ của tổng hội, nguyệt san phải
vượt qua
nhiều khó khăn về kỹ thuật và đã trình bày song song mọi bài văn bằng
song ngữ
kể từ năm 1992. Giữa nhiều tập san Phật Giáo hiện nay, phương thức
trình bày
song ngữ đối chiếu của nguyệt san Kim Cang Bồ Ðề Hải thật là độc đáo.
Ngài
nói: "Tự
tu tự
hành là điều rất quan trọng. Nếu có thể tu chứng quả thành đạo dĩ
nhiên sẽ trợ
giúp lớn lao cho Phật Giáo, nhưng chỉ là sự cống hiến tạm thời. Nếu
chúng ta
có thể phiên dịch kinh điển Phật Giáo qua ngôn ngữ của mọi quốc gia và
mang
Phật Pháp thẳng vào tâm của mọi người thì đó là công nghiêp vĩnh hằng.
Hoằng
Dương Chánh Pháp là công việc rất quan trọng, nhưng trong việc hoằng
truyền
Phật Giáo, việc phiên dịch kinh điển quan trọng hơn. Những ai chí đồng
đạo
hợp, hãy cùng đứng lại với nhau, dùng trí huệ của mọi người, chung sức
nỗ lực
phiên dịch Kinh Ðiển Phật Giáo!"