Phật giáo là một trào lưu triết học tôn giáo xuất hiện vào
khoảng cuối thế kỷ VI trước công nguyên, ở miền Bắc Ấn Độ, phía Nam dãy
Himalaya, vùng biên giới giữa Ấn Độ và Nêpan bây giờ. Phật giáo được
ra đời trong làn sóng phản đối sự ngự trị của đạo Bàlamôn và chế độ
phân biệt đẳng cấp xã hội khắc nghiệt, có thể nói rằng, ngay từ lúc mới
ra đời, đạo Phật với triết lý đạo đức nhân sinh sâu sắc đã trở thành
một trong những ngọn cờ trong phong trào đòi tự do tư tưởng và bình
đẳng xã hội Ấn Độ đương thời.
Quá trình du nhập Phật giáo vào Việt Nam được chia làm 3 thời kỳ
chính: Thời kỳ từ đầu công nguyên; Thời kỳ độc lập tự chủ (938) qua các
triều đại Đinh, Lê, Lý, Trần đến triều nguyễn; Thời kỳ Pháp thuộc và
sau 1954.
Ở thời kỳ đầu công nguyên: Phật giáo được xác định là du nhập vào
nước ta thế kỷ II-SCN bằng đường biển và đường bộ từ Ấn Độ và Trung
Quốc tại Giao Chỉ và Chăm Pa; Trước nhà Đường xuất hiện dòng thiền đầu
tiên là Tì-Ni-Đa-Lưu-Chi (do ngài Tì-Ni-Đa-Lưu-Chi người Ấn Độ sáng
lập) ở nhà nước Vạn Xuân của Lý Nam Đế, với tư tưởng thiền là “Tức tâm
tức phật”; Thời nhà Đường xuất hiện dòng thiền thứ hai là Vô Ngôn Thông
(do ngài Vô Ngôn Thông người Trung Quốc sáng lập), Với tư tưởng “Tức
tâm tức phật” và có bổ sung phần y báo đức Phật trong tâm. Điểm nổi bật
của dòng thiền này là sự xuất hiện hình thức Cư sĩ-Thiền sư.
Ở thời kỳ độc lập tự chủ, trải qua các triều đại Đinh, Lê, Lý, Trần
đến triều Nguyễn: Nhà Đinh và Tiền Lê đã đưa Phật giáo lên thành quốc
giáo với chức tăng thống và thiền sư có vai trò cố vấn cho các nhà vua;
Thời nhà Lý, Phật giáo phát triển cực thịnh, là quốc đạo và xuất hiện
dòng thiền thứ ba là Thảo Đường (do ngài Thảo Đường người Trung Quốc
sáng lập). Điểm nổi bật của dòng thiền này là vai trò của giới cư sĩ
được khẳng định một cách chính thức. Giai đoạn này có sự hiện diện của
cả 3 dòng thiền và Phật giáo có xu hướng nhập thế mạnh mẽ; Nhà Trần là
triều đại của Phật giáo với vai trò nổi bật của Trần Nhân Tông-Người
sáng lập ra dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử. Tư tưởng của dòng thiền này là
phát triển đỉnh cao quan niêm “Tức tâm tức phật”; Thời Hậu Lê Phật giáo
chính thức bước vào thời kỳ suy thoái với nhiều nguyên nhân, trong đó
nổi bật là do Hồ Quý Ly ra sức phát triển Nho giáo vào cuối thế kỷ XIV
và nhà Minh xâm lược Đại Việt vào đầu thế kỷ XV; Sau khi Mạc Đăng Dung
cướp ngôi nhà Lê thì nước ta chia cắt thành xứ đàng trong (vua Lê-chúa
Trịnh) và đàng ngoài (chúa Nguyễn). Xứ đàng trong Phật giáo phát triển
mạnh trên cơ sở một nền học lý mới nhờ vai trò của chúa Nguyễn Phúc Chu
(được ví là Trần Nhân Tông thứ hai trong lịch sử Phật giáo), nền học
lý mới đó là dòng Tào Động, dòng Lâm Tế. Xứ đàng ngoài ảnh hưởng mạnh
mẽ dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử. Khi Gia Long lên ngôi vào đầu thế kỷ
XVIII, xã hội Việt Nam lâm vào cuộc khủng hoảng tư tưởng trầm trọng,
đất nước rơi vào họa ngoại xâm, phật tử và nhân dân tự đứng dậy khởi
nghĩa.
Ở thời kỳ Pháp thuộc và sau năm 1954: Thời Pháp thuộc, Thiên Chúa
giáo được hậu thuẫn và Phật giáo bị khủng bố, đàn áp gắt gao vì thế
Phật giáo giai đoạn này có xu hướng nhập thế và chấn hưng mạnh mẽ; Sau
1954, trên cả hai miền Nam Bắc, Phật giáo đều chưa có cơ hội để phát
triển, nhưng sau 1975 nhờ chính sách tự do tôn giáo của Đảng và nhà
nước, Phật giáo có điều kiện phát triển mạnh mẽ và dần lấy lại vị thế
của mình.
Có thể nói rằng, trong hơn 20 thế kỷ qua, Phật giáo đã có một vai
trò, vị trí quan trọng nhất định trong lịch sử dân tộc, nhất là Phật
giáo Lý – Trần đã thể hiện trí tuệ và từ bi sâu sắc bằng sự nhập thế
sinh động và đa dạng qua tư tưởng, lời nói, hành động gắn bó với cuộc
sống an vui hạnh phúc của dân tộc. Cả hai triều đại Lý–Trần, Phật giáo
đã trở thành quốc giáo. Thâm nhập giáo lý nhà Phật qua chính sách an
dân trị nước nên các vua Lý – Trần đã chinh phục trái tim, khối óc con
người bằng đức trị thay pháp trị. Đạo đức vô ngã đã tạo cho con người
một cuộc sống hòa hợp, giản dị nhưng tạo lực tác động mạnh mẽ vô cùng.
Vì thế cả hai triều đại Lý – Trần đều tồn tại khá lâu. Triều Lý hơn 200
năm (1010 – 1225) và Triều Trần gần 200 năm (1226 – 1400). Có thể nói
đây là thời đại cực thịnh của Phật giáo Việt Nam mà cũng là thời đại
đất nước hùng mạnh nhất trong trang sử nước nhà. Các vua thời đại Lý –
Trần được thừa hưởng những thành qủa tốt đẹp của thế hệ trước, đồng
thời biết phát huy những tinh hoa gạn lọc được từ bên ngoài biến thể
sao cho phù hợp với quốc dân thủy thổ mà không đánh mất bản sắc dân
tộc.
Nhà Lý mở đầu là Lý Công Uẩn vào năm 1010 và kéo dài cho đến năm
1225, kết thúc ở đời thứ chín là Lý Chiêu Hoàng. Triều đại nhà Lý tồn
tại khoảng 215 năm, với khoảng thời gian ấy đã tạo ra được bề dày lịch
sử của một quốc gia phong kiến độc lập có chủ quyền và toàn vẹn lãnh
thổ. Các triều đại Ngô, Đinh, tiền Lê do phải tiến hành những công việc
như: bảo vệ đất nước, củng cố quốc gia sau thời gian Bắc thuộc hàng
ngàn năm nên chưa có điều kiện để quan tâm phát triển văn hóa, tư
tưởng… Đến nhà Lý đã từng bước chủ động, tích cực xây dựng và phát
triển diện mạo văn hóa, tư tưởng với một quốc gia phong kiến độc lập.
Nếu như Nho giáo là công cụ của đội quân xâm lược nên không nhận
được cảm tình của dân tộc ta thì Phật giáo lại khác hơn, Phật giáo được
dân tộc ta tiếp nhận một cách hòa bình, tự giác trên tinh thần thân
thiện, cởi mở, vì vậy Phật giáo sớm ảnh hưởng sâu rộng trong đời sống
xã hội và cả lĩnh vực chính trị từ thời Ngô, Đinh, tiền Lê, Lý, Trần…
Những vấn đề về quản lý xã hội, những phạm trù đạo đức của xã hội, của
cá nhân nhằm duy trì trật tự xã hội của Nho giáo đã đáp ứng nhu cầu ổn
định xã hội của triều đình phong kiến. Tuy nhiên, trong đời sống xã
hội, nhu cầu về sự kiến giải vấn đề sống-chết, may-rủi, họa-phúc, vấn
đề tâm linh của con người… thì Nho giáo không thể đáp ứng được. Cho nên
với nội dung tư tưởng của mình Phật giáo đã đáp ứng được nhu cầu đó.
Trước khi Nho giáo chưa được nhà Lý chủ động sử dụng thì Phật giáo đã
có ưu thế trong xã hội. Nhà chùa với nước phong kiến có quan hệ khá mật
thiết, nhà chùa cung cấp cho nhà vua những trí thức Phật giáo để phục
vụ chính trị, đặc biệt là trong công việc bang giao với nước khác. Các
nhà sư đều được nhà vua trọng dụng, hỏi ý kiến trong việc kiến thiết,
xây dựng, củng cố, phát triển đất nước, thậm chí kể cả công việc đánh
giặc để bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ quốc gia dân tộc.
Từ thế kỷ XI cho đến khoảng hết thời nhà Lý, Phật giáo ảnh hưởng khá
sâu sắc trong đời sống xã hội nước ta, trước hết là người lập nên nhà
Lý là vua Lý Công Uẩn có lý lịch xuất thân từ nhà chùa và các nhà sư là
những người hậu thuẫn cho sự lên ngôi của Hoàng đế Lý Công Uẩn. Sau đó
là hàng loạt các nhà vua đi tu như Lý Thánh Tông là đời thứ nhất của
phái Thảo Đường, Lý Anh Tông là đời thứ ba của phái Thảo Đường, Lý Cao
Tông là đời thứ năm của phái Thảo Đường, Lý Huệ Tông. Nhìn chung, tư
tưởng Phật giáo thời kỳ này ảnh hưởng rất lớn không chỉ trong đời sống
tinh thần của xã hội mà đến cả tình hình chính trị của dân tộc. Tư
tưởng Phật giáo thời kỳ này chủ yếu là các dòng Thiền tông như dòng Tỳ
Ni Đa Lưu Chi, dòng Vô Ngôn Thông, dòng Thảo Điền. Nhìn chung tư tưởng
Phật giáo vào Việt Nam mang xu hướng nhập thế, các nhà vua đi tu nhưng
vẫn luôn hướng về những vấn đề hưng vong, thịnh suy của dân tộc. Các
nhà vua đi tu, một mặt tìm sự giải thoát tinh thần, mặt khác lại quan
tâm đến nhân tình thế thái, mong sự giải thoát cho nhân dân khỏi sự khổ
ở đời.
Tư tưởng Phật giáo thời Lý mặc dù vẫn tôn trọng những tư tưởng Phật
giáo nguyên thủy của Ấn Độ, nhưng không tách biệt đời với đạo như Phật
giáo Ấn Độ, mà ngược lại gắn đạo với đời. Trong tư tưởng Phật giáo ở
giai đoạn này, quan niệm sự khổ không nặng nề, bi quan, yếm thế như
Phật giáo nguyên thủy. Người ta có thể tìm thấy chuyện trai gái lên
chùa mượn chiếu, mượn ấm trà để tình tự với nhau như lẽ sống thường
tình. Cũng trong thời kỳ này, cùng với nền giáo dục Nho học, nhà chùa
cũng trở thành nhà trường, nhà sư cũng chính là nhà giáo dục, trong môi
trường ấy đã tạo ra những trí thức Phật giáo và chính họ là những nhà
truyền bá tư tưởng đạo Phật trong nhân dân, cung cấp những hiểu biết về
đời sống tâm linh, tinh thần ở các khía cạnh Nho giáo chưa đề cập đến.
Có thể nói rằng, Phật giáo Việt Nam giai đoạn thời Lý đã đóng một vai
trò khá quan trọng trong nền giáo dục thời Lý và góp phần đào tạo ra
những nhà lãnh đạo song toàn, điều này chứng tỏ nền giáo dục Việt Nam
và Phật giáo Việt Nam giai đoạn thời Lý đã thể hiện chức năng đào tạo
hiệu quả, sản sinh ra những nhà trí thức có khả năng gánh vác không chỉ
việc đạo mà còn cả việc nước, việc dân như: Lý Thánh Tông, Lý Nhân
Tông, Lý Thái Tổ… và xét trên bình diện xã hội, Phật giáo còn giáo dục
con người trước sau như một, trung thành với nước, với dân. Đến thời
Lý, nền văn hóa nước ta đã có bề dày hơn 3000 năm, trong đó, sự xuất
hiện của Phật giáo là khoảng 100 năm. Nền văn hóa thời Lý tuy vẫn chịu
ảnh hưởng của ngàn năm Bắc thuộc nhưng cũng đã dần khẳng định tính tự
tôn của nước Đại Việt mà sự đóng góp của Phật giáo là rất rõ nét, thể
hiện qua những giá trị vật thể và phi vật thể, chính điều đó đã làm
phong phú thêm cho nền văn hóa dân tộc.
Phật giáo thời Lý đã để lại những công trình văn hóa tín ngưỡng có
giá trị cho dân tộc, điển hình là bốn công trình lớn là “An Nam tứ đại
khí” (bốn nguyên khí trấn giữ nền độc lập của nước Nam). Trong đó: Một là:
Tháp Báo Thiên, “bảo tháp Đại thắng Tự Thiên cao vài chục trượng” [1,
272] được xây dựng vào năm 1057 ở chùa Sùng Khánh. Tháp này cao mười hai
tầng, mỗi viên gạch đều khắc niên hiệu Long Thụy Thái Bình. Nhưng đến
thời Hồ, ngọn tháp này đã đổ. Đến năm 1427, Lê Lợi làm cái đồn canh gác
trên tháp để quan sát giặc. Đến thời “quân xâm lược Pháp chiếm đóng Hà
Nội đã bị cha cố đạo Puginier làm đơn cưỡng chiếm, lấy đất làm ngôi
nhà thờ lớn Hà Nội tồn tại cho đến ngày nay. Dù thế, chùa tháp Báo
Thiên từng một thời là biểu tượng của sức mạnh Đại Việt” [3, 36]. Hai là: Tượng Quỳnh Lâm được đúc bằng đồng ở chùa Quỳnh Lâm, Ba là: Chùa Phổ Minh ở Nam Định, Bốn là:
Chuông Quy Điền (nghĩa là chuông không kêu, nên đặt xuống ruộng), đúc
năm 1080 ở chùa Diên Hựu (chùa Một Cột) [1, 280]. Ngoài bốn công trình
trên, nhà Lý còn để lại những di tích mà hiện nay vẫn còn như Quán Trấn
Vũ (1102) [1, 284], đền Hai Bà… và nhiều cung điện ở Thăng Long, những
nơi này không những là địa điểm sinh hoạt văn hóa, giáo dục của mọi
tầng lớp nhân dân mà còn thể hiện giá trị về mặt kiến trúc, mang triết
lý sâu sắc mà bình dị thể hiện được tính dân tộc của Phật giáo. Bản sắc
văn hóa là nguồn gốc, là sức mạnh tinh thần vô hình tác động rất mạnh
cho mọi sự phát triển, đó cũng là nét đặc thù của dân tộc.
Văn hóa Phật giáo là một bộ phận quan trọng cấu thành nền văn hóa
dân tộc, chính vì vậy, việc củng cố và phát huy vài trò của Phật giáo
có một ý nghĩa lớn đối với cuộc vận động “toàn dân xây dựng đời sống
văn hóa” hiện nay. Vì rằng, đối với tất cả người dân Việt Nam, dù có
theo Phật giáo hay không đều ít nhiều hiểu tư tưởng của như triết lý
nhà Phật, bởi vì đó là một phần truyền thống của cha ông, sẽ là bất khả
nếu muốn nghiên cứu văn hóa Việt Nam mà không nói đến Phật giáo và
ngược lại.
Hiện nay Phật giáo vẫn còn là một tác nhân tác động mạnh trong xã
hội. Chúng ta dễ nhận thấy Phật giáo đã mang đến cho người Việt những
ngôi chùa cổ kính, những pho tượng bề thế rải khắp xóm làng làm tăng
lòng từ bi và hướng thiện của người bình dân. Phật giáo đã đưa đến một
trung tâm văn hoá làng một thời sôi động. Phật giáo cũng đã mang đến
trong tâm hồn người Việt một đời sống tâm linh sâu đậm từ khi du nhập
cho đến nay. Trong lịch sử, Phật giáo cũng luôn gắn liền với vận mệnh
của dân tộc, giai đoạn thời Lý, ông cha ta đã nhận thức được tầm quan
trọng của một nền văn hóa độc lập tự chủ, vì văn hóa là linh hồn của
dân tộc. Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đến sự phát triển về văn hóa
truyền thống và có nhiều chính sách nhằm bảo vệ và phát huy những giá
trị đó, tầm quan trọng của văn hóa cũng được Đảng và Nhà nước ta nhìn
nhận: “Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là
động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế-xã hội” [2, 110] và đề ra chủ
trương “xây dựng một nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”.
Đây là một chủ trương kịp thời và đúng đắn, và Phật giáo với những giá
trị của mình sẽ góp phần thực hiện nhiệm vụ này, sẽ là quá muộn nếu
chúng ta không có những nhận thức đúng đắn và đầy đủ về mối quan hệ
giữa truyền thống và hiện đại, giữa quá khứ và hiện tại, cũng như không
nắm vững qui luật phát triển văn hóa – xã hội ở từng thời kỳ, chính vì
vậy, việc phát huy bản sắc dân tộc phải được xem là nhiệm vụ của mỗi
cá nhân, gia đình và của toàn xã hội.
Năm 2010, nước ta sẽ tổ chức đại lễ kỷ niệm 1000 năm Thăng Long – Hà
Nội. Đây là hoạt động vừa hướng về nguồn cội thiêng liêng của dân tộc,
nhưng đồng thời cũng là sự kiện lớn, có ý nghĩa quan trọng liên quan
đến nỗ lực bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc đối với việc xây
dựng và phát triển đất nước trong giai đoạn mới.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đại Việt sử ký toàn thư, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1993, t.1,2.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996.
3. Lê Mạnh Thát: Lịch sử Phật giáo Việt Nam từ Lý Thánh Tông
(1054) đến Trần Thánh Tông (1278), Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 2002,
t.3.
Ths. Trần Mai Ước
Trường Đại học Ngân hàng Tp. Hồ Chí Minh