Nhận định của 100 danh nhân, trí thức trên thế giới về Đức Phật và Đạo Phật (Phần 5)
28/06/2010 00:12 (GMT+7)

41. Linh mục Thomas Merton (1915-1968), American Catholic Priest, Author and Social Crtics

Phật Giáo là một trạng thái của tâm hơn là một định chế chính thống có tổ chức. Phật Giáo không đặt mục đích trên một sự cứu rỗi mang tính thần học mà là sự làm sáng tỏ hoàn toàn tâm thức. Phật Giáo là một cách sống hơn là con đường thờ phụng.

[Buddhism is much less a matter of organized and institutional orthodoxy than a state of mind. Buddhism does not aim directly at theological salvation but a total clarification of consciousness. It is not so much a way of worshipping as a way of being.]


42. Egerton C. Baptist (1915-1983), Học giả, tác giả cuốn "Supreme Science of the Buddha"

Phật Giáo bắt đầu ở chỗ khoa học chấm dứt. Khoa học không cho chúng ta sự bảo đảm gì ở nơi đây. Nhưng Phật Giáo có thể đáp ứng sự thách thức của thuyết nguyên tử, vì kiến thức ở trên mức bình thường của Phật Giáo bắt đầu ở nơi mà khoa học chấm dứt. Và điều này khá rõ ràng cho bất cứ ai đã nghiên cứu về Phật Giáo. Bởi vì, qua thiền định, những cấu tử cỡ nguyên tử tạo thành vật chất đã được thấy và cảm nhận, và những sự khổ, với sự sinh và diệt của chúng, đã tự tạo ra trong cái mà chúng ta gọi là linh hồn hay ngã - ảo tưởng của chấp ngã, như giáo lý của Đức Phật dạy.

[Buddhism begins where science ends. Science can give no assurance herein. But Buddhism can meet the Atomic Challenge, because the supramundane knowledge of Buddhism begins where science leaves off. And this is clear enough to anyone who has made a study of Buddhism. For, through Buddhist Meditation, the atomic constituents making up matter have been seen and felt, and the sorrow, or unsatisfactoriness (or Dukkha), of their 'arising and passing away' (dependent on causes) has made itself with what we call a 'soul' or 'atma' - the illusion of Sakkayaditthi, as it is called in the Buddha's teaching.” ]

43. John H. Garabedian & Orde Coombs, tác giả, trong cuốn Eastern Religions In The Electric Age”:

Chúa Ki-Tô đã chết – Phật còn sống. [Christ is dead – Buddha Lives]

44. L. Adam Beck, Tác giả Mỹ, An American Traveler and author

Những giáo lý của vị Hoàng tử Ấn Độ thực sự không có gì phải e ngại khoa học. Phật Giáo là, trong mọi trường hợp, một chân lý đã không chỉ ảnh hưởng đến những tư tưởng gia xuất sắc của Hi Lạp và Rô-ma, mà còn đến những giáo lý Ki Tô thuở ban đầu – sinh sau Phật Giáo khoảng năm, sáu trăm năm. Phật Giáo dạy từ ái đối với mọi niềm tin, không bạo hành và chống đối niềm tin nào khác với Phật Giáo, và đó là những điều có thể thấy dễ dàng trong giáo lý của Phật Giáo.

[The teachings of the Indian Prince has indeed nothing to dread from science. Buddhism is, at all events, a truth which influenced not only the mightiest thinkers of Greece and Rome, but also the beginnings of Christian teachings - which it antedated by five or six hundred years. It may well claim kindred with all the great faiths, persecuting and opposing none which differ with it, and this for reasons which are easily seen in the teachings themselves.]

45. Tiến sĩ Amadou-Mahtar, M 'Bow, Director - General, UNESCO

Thông điệp của Đức Thế Tôn về chân lý, hòa bình, từ bi và lòng khoan nhượng nay vẫn thích hợp như đã từng thích hợp trong nhiều thế kỷ trước. Thời gian qua đã làm cho ánh hồng của Phật Giáo ngày càng sáng chói hơn. Chủ nghĩa vật chất lan tràn và sự theo đuổi sự thành công cá nhân với mọi giá đã làm xói mòn tình huynh đệ và cộng đồng. Trong những trường hợp như vậy, cần phải nhớ và truyền bá thông điệp về từ bi của Đức Phật sao cho sự thù hận có thể được thay thế bởi lòng thương yêu, thay thế tranh đấu bằng hòa bình, và đối đầu bằng sự hợp tác.

[Lord Buddha's message of truth, peace, compassion and tolerance is as relevant as it was many centuries ago. The passage of time has made its flame shine with greater luminosity. Rampant materialism and the pursuit of individual success at all costs have eroded the ties of brotherhood and community. In these circumstances, it is necessary to remember and propagate the message of compassion of Lord Buddha so that hatred can be replaced by love, strife by peace and confrontation by co-operation.]

46. Javier Perez De Cuellar, Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc, Secretary General of United Nation

Thông điệp của Đức Phật về từ bi và hiến thân phục vụ nhân loại thì nay thích ứng hơn bao giờ hết trong lịch sử. Hòa bình, được hiểu như là viễn tượng vượt lên trên ranh giới quốc gia là vấn đề cấp bách cho thời đại nguyên tử bất an của chúng ta.

[Buddha's message of compassion and devotion to the service of humanity is more relevant today than at any other time in history. Peace, understanding and a vision that transcends purely national boundaries are imperatives of our insecure nuclear age. ]

47. Andrew Harvey, tác giả người Anh, British author, poet and Fellow of All Souls College, Oxford

Tôi thấy triết lý Phật Giáo là luồng tư tưởng làm cho tôi mê bởi sự phân tích bình tĩnh và căn bản về lòng ham muốn, sự từ bỏ của Phật Giáo về mọi cường độ tự làm cho mình bi thảm mà tôi đã sống theo đó, và sự hứa hẹn của Phât giáo về khả năng đạt được một sự thành thật mạnh mẽ vô tư.

[I found Buddhist philosophy is a way of thought that enthralled me by its calm and radical analysis of desire, its rejection of all the self-dramatisiting intensities by which I lived, and its promise of a possible strong and unsentimental sincerity.]

48. Robert J. Hawke, Thủ Tướng Úc, Rhodes Scholar, Trade Union Leader from 1983 and Prime Minister of Australia

Quan niệm của Phật Giáo về chúng ta tiến tới trạng thái không thể mô tả được qua một số kiếp thì về phương diện trí thức thỏa mãn đầu óc của tôi hơn là niềm tin trong Ki Tô Giáo, rằng chúng ta chỉ sinh ra có một lần và được ném vào những trường hợp có thể rất giàu có hay vinh quang, nhưng chúng ta hoặc đến với Thiên Chúa hoặc không là đặt căn bản trên một đời sống đó. Tôi chưa đến độ theo Phật Giáo nhưng tôi thấy rằng, và vẫn thấy như vậy, Phật Giáo thì vô cùng hợp ý hơn là triết lý của Do Thái – Ki Tô.

[Buddhist concept that you progress towards the Ineffable through a number of existences seemed to me much more intellectually satisfying than the Christian belief that you come just once and are cast into circumstances maybe of great wealth or of great moment, but that you come to God or don't come to God on the basis of that one life. I was never on the point of embracing Buddhism but I found, and still find, it infinitely more satisfying than the Judeo-Christian philosophy.]

49. Gnanatiloka, học giả người Đức:

Một số người cho rằng Phật Giáo là một tôn giáo tối tăm buồn tẻ. Không phải vậy, tôn giáo này sẽ làm cho các tín đồ sáng dạ và vui tươi. Khi chúng ta đọc những chuyện sinh ra đời của Bồ Tát, vị Phật tương lai, chúng ta biết được rằng các Ngài đã tu tập hạnh kiên nhẫn và chịu đựng đế hoàn thiện như thế nào, điều này sẽ giúp chúng ta vui vẻ ngay cả trong lúc chúng ta gặp những khó khăn và hoan hỉ trong sự an sinh của tha nhân.

[Some people thinhk that Buddhism is a dark and melancholy religion.. It is not so; it will make its followers bright and cheerful. When we read the birth stories of Boddhisatva, the future Buddha, we learn hos He cultivated the perfection of patience and forbearance, it will help us to be cheerful even in the midst of grea troubles and to take delight in other’s welfare>]

50. Prof. Walter Kaufmann, Triết gia Mỹ, American philosopher and author .

Phao-Lồ ghép tình yêu thương với đức tin và hi vọng, và nhận thức của ông ta về tình yêu thương dính líu tới đức tin và hi vọng. Ông ta nói, “tình yêu thương” là “tin vào mọi thứ, hi vọng vào mọi thứ”. Tình yêu thương tôi muốn nói đến không tin vào mọi thứ, hi vọng mọi thứ. Tình yêu thương không phải là thứ tình yêu thương mất đi khi không có hi vọng hay đức tin. Khi nào mà tình yêu thương còn cần đến sự ủng hộ của đức tin và hi vọng, thì nó chẳng hơn gì tình yêu rỗng tuếch của con trẻ. Đức Phật biết rằng tình yêu thương mang đến “sự đau lòng và khổ sở, đau khổ, nuối tiếc và thất vọng; và Người đã khuyên chúng ta đừng bị ràng buộc vào nó. Tình yêu thương mà tôi coi như là một đức tính không phải là tình yêu thương mù quáng của những tình nhân hay lòng tin cậy, tình yêu thương với hi vọng của Phao-Lồ, mà là tình yêu thương mà Đức Phật biết và vẫn yêu, với đôi mắt mở to..

[Paul couples love with faith and hope, and his conception of love involves faith and hope: "Love," he says, "believes all things, hopes all things." The love I mean does not believe all things and hope all things. It survives disillusionment and persists in despair. Love is not love that ceases without hope or faith. As long as faith and hope support it, it is hardly more than puppy love. The Buddha knew that love brings "hurt and misery, suffering, grief and despair"; and he advised detachment. The love I consider a virtue is not a blind love of the lovers or the trusting, hopeful love of Paul, but the love that knows what the Buddha knew and still loves, with open eyes. ]

Theo Trần Chung Ngọc (sưu tầm & dịch - SH)

Các tin đã đăng: