Trên
thế giới về cách tán, tụng có ba trường phái :
Bắc tông, hay Ðại thừa gồm có Aán Ðộ, Trung Quốc,
Triều Tiên, Nhật Bản và Việt Nam. Kinh văn bằng tiếng Phạn (Sanskrit) để
nguyên tiếng Phạn, phiên âm ra bằng tiếng Trung Quốc, đọc theo cách
phát âm của người Trung Quốc, thì gần giống âm tiếng Phạn, nhưng khi đọc
chữ phiên âm theo cách đọc của mỗi nước Triều Tiên, Nhật Bản hay Việt
Nam thì rất xa âm tiếng Phạn, như bài chú Vãng sanh (Nam mô A di đà bà
dạ v.v….) Có khi tiếng Phạn dịch ra tiếng Trung Quốc viết lại bằng chữ
Hán như A Di Ðà kinh, Tâm kinh Bát Nhã v.v…
Nam tông hay Tiểu thừa gồm các nước Sri Lanka (Tích
Lan), Thái Lan, Cao Miên (Campuchia), Lào. Kinh chép bằng chữ Pàli đọc
theo âm Pàli, không dịch ra tiếng bổn xứ.
Mật tông (Tây Tạng, Mông Cổ) kinh gồm những mật ngôn
đọc theo một giọng thật trầm.
Sau khi nghe qua ba cách tụng kinh, chúng ta thấy
rằng cách tán, tụng trong truyền thống Việt Nam đứng trong truyền thống
Bắc tông.
(Phần minh hoạ bằng các đoạn trích các phong cách
tụng của các nước Trung Quốc (danh hiệu Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni), Nhật
Bản (kinh A Di Ðà), Campuchia, Tây Tạng và miền Nam Việt Nam – NBT).
Sau khi nghe qua cách niệm "Nam mô A Di Ðà Phật"
trong các nước Ðông Á, nghe qua vài bài tụng như chú Lăng Nghiêm, kệ
Khai kinh v.v… chúng tôi có những nhận xét sơ bộ sau đây :
1. Không có một thể nhạc Phật giáo chung cho các nước
Ðông Á, như cách hát "chant grégorien" chung cho các nước Tây Aâu,
Pháp, Ý, Tây Ban Nha v.v…. Lời kinh giống nhau nhưng nét nhạc của các
tụng, tán tùy mỗi nước, mỗi vùng mà thay đổi.
2. Mặc dù đạo Phật thành lập từ Aán Ðộ, mặc dù một số
kinh chuyển từ Trung Quốc sang các nước Ðông Á, nét nhạc trong các bài
tụng, bài tán trong truyền thống Việt Nam không chịu ảnh hưởng của Aán
Ðộ hay Trung Quốc.
3. Trong nước Việt Nam, nét nhạc của các bài tụng,
tán thay đổi tùy theo miền, theo vùng. Mà thang âm, điệu thức dùng trong
những bài tán, tụng rất gần thang âm điệu thức của tiếng hát ru, những
điệu dân ca đặc biệt của mỗi vùng.
4. Có hai điệu thức chính được dùng : điệu Thiền (như
hơi nhạc, hơi hạ trong nhạc tài tử miền Nam) và điệu Ai. Ðiệu thay đổi
tùy theo nội dung của bài tán.
Như bài tán "Dương chi tịnh thủy" ca ngợi Ðức Quan Âm
không có chi buồn.
"Dương chi tịnh thủy
Biến sái tam thiên
Tánh không bát đức lợi nhân thiên
Diệt tội tiêu khiên
Hỏa diệm hóa hồng liên"
Khi nước cam lộ được nhành dương liễu (từ Bồ tát) rải
xuống trần, một giọt biến thành ba ngàn giọt rửa sạch tội lỗi oan
khiên. Núi lửa hóa thành bông sen hồng. Bài tán đó được tán theo điệu
Thiền.
Nhưng khi tán bài tán "Nhất điện" có những câu :
"Thân hình bào ảnh tợ ngân sương
Mạng tợ ngân sương…"
Thân hình chúng ta như hạt sương trắng buổi sáng.
Mạng chúng ta cũng mong manh như hạt sương buổi sáng. Nhớ tới cái mong
manh của cuộc đời nên bài tán được tán theo điệu Ai.
Ðiệu thức cũng tùy theo hoàn cảnh mà thay đổi.
Như kệ Khai kinh hay tụng kinh A Di Ðà, trong chùa
tụng khác, mà trong một đám tang tụng khác.
Từ thực tế trên, có thể kết luận : Cách tán, tụng
trong truyền thống Phật giáo Việt Nam rất gần với cách tán, tụng các
nước trong phái Bắc tông.
Nhạc Phật giáo Việt Nam bắt nguồn từ nhạc dân tộc
Việt Nam, mang hơi điệu nhạc dân gian, nhạc thính phòng, nhạc dân khấu
và nhạc lễ trong cung đình Việt Nam.
VÀI ÐẶC TÍNH CỦA ÂM NHẠC PHẬT GIÁO VIỆT NAM
1. Âm nhạc Phật giáo Việt Nam là một loại lễ nhạc
Nhạc đi đôi với lễ, chỉ được tấu trong khi hành lễ,
chớ không phải chỉ để nghe cho vui tai. Mỗi nét nhạc, mỗi bản nhạc đều
có liên quan đến một bài kinh, hay một buổi lễ, mục đích để tạo một bầu
không khí trang nghiêm, dẫn con người đi sâu vào cuộc sống tâm linh, để
hiểu thấu nghĩa sâu xa của những câu kinh và thấm nhuần giáo lý.
Trong đời sống thường nhật tại các chùa, mỗi ngày
thường có ba thời kinh : sáng từ 4 giờ đến 5 giờ, trưa cúng ngọ 12 giờ,
và tối 6,7 giờ.
Mỗi lần đều có chuông báo chúng gọi Tăng Ni.
Mỗi thời đều có những bài tụng hay tán riêng.
Như trong thời sáng thì có kệ dâng hương, chú Lăng
Nghiêm, Thập chú, Bát Nhã Tâm kinh, niệm danh hiệu Phật Thích Ca 108
lần, rồi phát nguyện, hồi hướng.
Trong thời tối, thiên về Tịnh độ, nên sau khi dâng
hương, tụng chú Vãng sinh, kinh Hồng danh sám hối, kinh A Di Ðà, chú
Biến thực biến thủy, Phát nguyện, Tam tự quy v.v…
Trong thời cúng Khai kinh, có bài tán Dương chi tịnh
thủy, tán Khể thủ, tụng bài tựa Lăng Nghiêm, trì chú Phổ Am, chú Ðại Bi.
Ngoài các thời cúng trong chùa, còn có những lễ khác
như Phật Ðản (ngày sanh của Ðức Phật), Thành đạo (ngày Ðức Phật tìm được
chân lý dưới gốc cây bồ đề), Vu Lan (muà báo hiếu), chẩn tế cô hồn
v.v….
Trong dân gian còn có những lễ táng, thỉnh linh, tiến
linh, đề phan, đề vị.
2. Nhạc Phật giáo là một loại thanh nhạc. Khí nhạc
chỉ để phụ họa cho lời tán, tụng
Người Nhật có danh từ Shômyo, người Trung Quốc đọc ra
Sheng minh, người Việt Nam đọc "Thanh minh". Thanh là tiếng, minh là
sáng, sự trong sáng của tiếng nói. Tiếng Phạn là Saddhavidya.
Trong các nước Ðông Á đều có tụng và tán. Người Việt
ngoài hai lối tụng, tán cơ bản, còn có niệm, đọc, hô, bạch, tụng, xướng,
thỉnh, tán, niệm Phật, niệm hương, đọc sớ, hô kệ, tụng kinh, xướng danh
hiệu Phật, thỉnh linh, tán những bài ca ngợi công đức của chư Phật, Bồ
tát…
Trong những lễ lớn, khi nhạc mới được dùng đến.
Mở đầu bằng chuông trống Bát nhã. Thường thường,
người dự lễ tưởng rằng chuông trống đánh từng hồi. Chính chuông trống
đánh theo số chữ trong bài kệ.
Bát nhã hội (3 lần, 3 tiếng trống, 1 tiếng chuông)
Thỉnh Phật thượng đường (4 tiếng trống, 1 tiếng
chuông).
Ðại chúng đồng văn (4 tiếng trống, 1 tiếng chuông)
Bát nhã âm (3 tiếng trống, 1 tiếng chuông).
Phổ nguyện pháp giới (4 tiếng trống, 1 tiếng chuông).
Ðẳng hữu tình (3 tiếng trống, 1 tiếng chuông)
Nhập Bát Nhã (3 tiếng trống, 1 tiếng chuông)
Ba la mật môn (4 tiếng trống, 1 tiếng chuông)
Hồi chuông và trống luôn đến dứt.
Sau trống chuông Bát nhã, dàn đaị nhạc tấu bài Ðăng
đàn.
Tiểu nhạc tấu bài Long ngâm, hoặc Ngũ đối thượng.
Chuông gia trì, mõ gia trì và tang mở đầu cho bài tán
Dương chi tịnh thủy (trong lễ Khai kinh).
Trong lúc tán, nét nhạc theo câu kinh, nhạc công phải
thuộc bài tán. Có khi nhạc tấu bài Lưu thủy thầy, tức là bản Lưu thuỷ
đờn theo phong cách nhạc lễ.
NHỮNG ÐẶC TÍNH CỦA HAI CÁCH TỤNG, TÁN TRONG TRUYỀN
THỐNG VIỆT NAM
1. "Tụng" là đọc lớn, lớn hơn "đọc" và "niệm".
"Tán" là ca ngợi, khen tặng. Tiếng "tán" có thể to
hơn tiếng "tụng".
2. Thanh giọng được hệ thống hóa trong khuôn khổ của
một quãng tám, trong bài "tụng" cũng như bài "tán".
3. Thang âm của bài tụng, có thể 3,4 hoặc 5 (tam, tứ
hoặc ngũ cung). Thang âm trong các bài tán đều là ngũ cung.
4. Ðiệu thức Thiền và Ai đều được dùng trong tụng
hoặc tán và tùy nội dung bài kinh, theo địa phương, theo bối cảnh.
5. Nét nhạc trong các bài "tụng" tùy theo thanh giọng
của những chữ trong câu kinh và cũng tùy theo người tụng.
Nét nhạc trong bài tán thường cố định theo từng bài.
Người tán không thể thay đổi nét nhạc.
6. Mỗi chữ trong câu kinh chỉ được thể hiện theo một
âm trong bài tụng (Style syllabique).
Trong bài tán, một chữ có thể tán với nhiều âm (Style
mélismatique).
7. Âm vực thâu hẹp trong bài tụng, và mở rộng trong
bài tán.
8. Trong bài tụng nhịp đều trường canh, mỗi chữ trùng
với một tiếng mõ…
Trong bài tán, nhịp phức tạp hơn. Chữ quan trọng
trong câu kinh, kệ thường được xướng theo nhịp ngoại. Tang, mõ đánh theo
chu kỳ (rythme cyclique). Trống đánh theo đối điểm (contrepoint).
Có ba loại : tán rơi, tán xắp, tán trạo. Nhịp theo
chu kỳ khác nhau.
Ngoài ra những cách "luyến láy" được qui định rất cẩn
thận.
Vì thời gian có hạn, nên chưa đề cập vấn đề nhạc cụ
dùng trong các lễ. Bài bản của các dàn nhạc phụ họa cũng chưa kể hết.
Kết luận
Âm nhạc Phật giáo Việt Nam là một phần của âm nhạc
truyền thống Việt Nam, mang tính chất đặc thù của âm nhạc dân gian, âm
nhạc thính phòng và âm nhạc lễ Việt Nam.
Nét nhạc, điệu thức, tiết tấu trong âm nhạc Phật giáo
Việt Nam rất phong phú và tế nhị.
Nhạc mang tính chất thanh thản, nghiêm trang, đôi khi
buồn man mác, mà không bi lụy.
Nhạc gợi một bầu không khí trang nghiêm trầm lặng,
giúp cho người tụng kinh và người nghe kinh có thể tập trung tư tưởng
vào nghĩa của lời kinh.
Cách tụng, tán trong Phật giáo Việt Nam, ngày nay có
xu hướng đi đến chỗ giản dị hóa. Trong khi tại các nước Ðông Á khác, như
ở Nhật Bản, Triều Tiên, nhạc Phật giáo được truyền tụng trong các chùa,
nghiên cứu để viết thành sách đã được trình bày rành mạch trong các
cuộc hội thảo khoa học, trong nước Việt Nam chưa có một công trình
nghiên cứu rành mạch về nhạc Phật giáo. Tôi rất mong sẽ có những nhà
nhạc học để tâm đến nhạc Phật giáo Việt Nam để cho những cách tán, tụng
rất độc đáo của Việt Nam được truyền lại cho thế hệ mai sau, mà không bị
lớp bụi thời gian che lấp và chôn vùi.