Điều thúc đẩy chúng ta gặp
gỡ nhau để trao đổi ý kiến, chính là mỗi người tìm kiếm đem lại cho cuộc đời
mình một ý nghĩa sâu xa.
Điều
đó không phải chỉ nâng đời sống của mỗi người lên đến một mức độ cao về tiện
nghi vật chất. Mức độ đời sống bên trong phải theo cùng một nhịp. Nó rất quan
trọng, và cần thiết nữa. Chắc chắn các bạn đã nhận thấy rằng, trong cảnh khốn
khổ, những người nào có được một sức mạnh bên trong đều được vũ trang tốt hơn
nhiều những người khác. Một cách cá nhân, tôi nhận thấy điều đó khi chúng ta
giáp mặt với Tây Tạng. Rõ ràng, đó chỉ là kinh nghiệm của tôi, nhưng dầu nó có
hạn hẹp, kinh nghiệm ấy cũng cho phép tôi kiểm chứng được. Trong những hoàn cảnh
như thế, trong một tình thế khá phức tạp và nặng nề trách nhiệm, một người khác
ở vào địa vị tôi có lẽ sẽ có một gương mặt u sầu. Có lẽ đối với tôi, sắc diện
tôi không phản chiếu điều ấy! Trong mọi trường hợp, điều ấy không làm phương hại
đến tinh thần của tôi.
Rõ
ràng, chúng tôi ý thức tầm rộng lớn của vấn đề; mức độ bi thảm của nó không chừa
chúng tôi. Nhưng khi sự kiện ở đó, phải chấp nhận nó và làm hết sức mình. Không
chối cãi được sức mạnh bên trong giữ vai trò chính trong thái độ của chúng tôi
trước những thử thách. Với chúng tôi, nó là một nguồn trợ giúp lớn lao.
Về
mặt này, tất cả chúng tôi nhiều hay ít đều không có vũ khí, và sự thực hành tâm
linh đem lại cho cuộc đời chúng tôi một chiều kích sâu xa và ơn phước không chỉ
về lâu về dài trong viễn ảnh một sự tái sinh tốt đẹp mà ngay trong đời này, vì
một thái độ chính đáng với những người đồng loại mang lại tức thời nhiều mãn
nguyện.
Thái
độ này đặt niềm tin trên hai nguyên lý: những ý định trong sạch và lòng
từ bi. Những bình giảng chi tiết về lòng đại bi chủ yếu nằm trong những luận
giải về Bồ tát, trong các văn bản Đại thừa. Nhưng thật ra, tất cả tư tưởng Phật
giáo được đặt nền tảng trên chủ đề này.
Giáo
lý của Phật có thể tóm lại trong hai câu:
-
Giúp đỡ người khác: gồm tất cả những gì được dạy trong Đại thừa (Mahayana).
-
Không giúp đỡ họ thì đừng hại họ: câu này tóm tắt toàn bộ những lời dạy của Tiểu
thừa (Hinayana hay Theravadayana), và biểu lộ tất cả đạo đức, bởi vì đó là
không làm điều gì sai trái đối với người khác. [*]
Cả
hai thừa đều bắt rễ từ mảnh đất của Từ và Bi.
Bổn
phận của một người Phật tử là làm tất cả để cứu giúp những người khác. Nếu
không thể giúp đỡ họ, thì ít ra phải tỉnh giác để chớ có thể làm bất cứ thứ gì
có hại cho họ.
Sự
thực hành tiên khởi chủ yếu đặt trọng tâm vào sự tu hành tự kiểm soát mình, để
thôi không làm hại một ai trong mức độ có thể. Đó là một thái độ phòng thủ. Rồi
khi chúng ta khá hơn, mục tiêu trở nên tích cực hơn: giúp đỡ cho người khác.
Trong giai đoạn đầu, người ta có thể có nhu cầu tự cô lập, để phát triển những
phẩm chất bên trong. Nhưng khi người ta chắc chắn về mình hơn, người ta vững
chãi. Lúc ấy tốt hơn là tìm sự liên lạc lại với thế giới, tương thông, làm lợi
ích cho xã hội trong một lĩnh vực nào đó của nó: sức khỏe, giáo dục, chính trị...
Một
số người tự cho là có mức độ tâm linh cao cả và thích thú biểu lộ nó bằng cách
ăn mặc đặc biệt, tuân thủ một cách sống đặc thù và cắt lìa với xã hội. Đó không
phải là một thái độ đúng đắn. Trong những bản văn về sự tịnh hóa tâm thức (tu
hành tinh thần), có một bản văn nói: "Hãy chuyển hóa quan điểm bên
trong của con, nhưng hãy để hình dáng bên ngoài của con bình thường như trước".
Đó là một điểm quan trọng, vì chính mục đích của sự thực hành Đại thừa là phụng
sự cho những người khác. Không phải là trốn tránh, mà hoạt động chính giữa lòng
xã hội.
Một
đặc điểm thứ hai cũng chính yếu trong Phật giáo là vận dụng và làm phát triển
trí óc cũng như trái tim. Nếu đạo đức đòi hỏi những phẩm chất nhạy cảm, chăm
sóc nồng ấm, thì trí thông minh bao gồm việc phát triển những khả năng lý giải,
luận lý: sự thực hành Phật giáo thường kêu gọi điều đó. Tâm trí và tấm lòng phải
đi song song. Sự hiểu biết và sử dụng hoàn toàn hiệu quả trí thông minh là những
điều cần thiết. Không có chúng, hy vọng thâm nhập những mặt tinh tế của giáo lý
Phật giáo là điều vô vọng. Sự bừng nở trọn vẹn của trí tuệ chân thật thì đặc biệt
khó thực hiện. Có thể có những trường hợp đặc biệt, nhưng thông thường, điều ấy
khó khăn. Để tiến về mục tiêu ấy, cần kết hợp sự nghe (giáo lý truyền miệng), sự
tư duy và thiền định. Ddrom-don (Brom-ston, 1004-1064), vị thầy của phái
Kadampa (trong Phật giáo Tây Tạng) nói rằng: "Khi tôi nghe, tôi cũng đi
vào tư duy và thiền định. Khi tôi tư duy, tôi đào sâu sự nghe và tôi thiền định.
Khi tôi thiền định, tôi không bỏ sự nghe lẫn sự tư duy", và ngài nói thêm:
"Tôi là một Kadampa quân bình".
Sự
nghe phải cho phép tâm thức thu hóa toàn bộ điều mà nó nhận. Người ta không
nghiên cứu một con đường tâm linh như khi học lịch sử. Dòng tâm thức phải đồng
hóa những lời dạy miệng đến khi được thấm đẫm và thành một với chúng. Một bộ
kinh ví sự thực hành với một tấm gương trong đó người ta có thể thấy đường nét
phản chiếu của hành động, những cử động của thể xác, lời nói và những tư tưởng
của chúng ta. Do đó chúng ta có thể đánh dấu những lỗi lầm và dần dần sửa chữa
chúng. Lời dạy truyền miệng còn nói: "Nếu giữa con và sự thực hành chỉ còn
một bước mà người khác có thể vượt qua được, thì đó là con không làm trọn".
Đó là dấu hiệu chỉ ra rằng sự thực hành đối với bạn chỉ là một trò tiêu khiển.
Nếu như vậy, nó cũng có thể trở thành chủ đề cho một sự tranh cãi, rồi dần dần
dẫn bạn đến khẩu chiến, điều hoàn toàn không phải là mục đích cho một tiến bộ
tâm linh. Suốt con đường tập sự, quan trọng là biến lý thuyết thạnh một chiếc cầu
hướng dẫn đến thực hành.
Về
vấn đề này, người ta kể lại tiểu sử gương mẫu của một thiền giả bác học của
phái Kadampa khi đọc đến một đoạn trong Luật nói rằng không được ngồi trên một
tấm da thú vật để thiền định. Vì chỗ ngồi của ngài làm bằng một tấm da gấu,
ngài rút nó ra tức thì. Rồi tiếp tục đọc Luật, ngài biết rằng cho phép dùng da
thú trong trường hợp rất lạnh hay bị phong thấp. Ngài lại cẩn thận đặt tấm da gấu
lên chỗ ngồi. Đó là sự thực hành chân chính, sự áp dụng ngay điều học được.
Nếu
người ta có những nghiên cứu có tính đại học trong lĩnh vực tôn giáo và đặc biệt
trong Phật giáo, sự tiếp cận không phải như nhau, vì động cơ chỉ là thu thập kiến
thức về một chủ đề giữa bao nhiêu cái khác. Nhưng với người nào trong chúng ta
tự nhận là Phật tử theo con đường Phật giáo, sự áp dụng thực tiễn phải đi cùng
với nghiên cứu. Chỉ có lúc ấy nghiên cứu mới có giá trị.
Tôi
thích nhấn mạnh một điểm thứ ba: chớ quá nôn nóng trong khi chờ đợi những kết
quả. Chúng ta đang sống trong thời đại tin học, khi tất cả trở thành tự động
hóa. Nhưng nếu bạn tin rằng sự thành tựu tâm linh cũng tự động, rằng chỉ cần nhấn
một nút để tất cả sáng lên, thì bạn đã lầm. Đây không phải như vậy. Sự giác ngộ
bên trong không phải dễ dàng, đó là một tiến trình dài. Nhưng cả những chinh phục
của thế giới hiện đại, sự thành công của những chuyến bay không gian mới đây...
không phải thạnh tựu trong một ngày! Để đến mức đó, phải hàng thế kỷ. Đó là kết
quả của những thế hệ và của nhiều thế hệ các nhà tìm kiếm phát minh, mỗi thế hệ
dựa vào thế hệ trước để đi xa hơn một chút. Trong lĩnh vực tiến bộ bên trong,
còn khó khăn hơn nữa, bởi vì cái gì thành tựu ở bên trong không thể truyền từ
thế hệ này sang thế hệ khác.
Điều
các bạn đã thâu đạt được trong đời trước của bạn ảnh hưởng nhiều đến đời bạn hiện
tại, và kinh nghiệm mạ bạn thu thập hiện giờ thiết lập nền tảng cho sự phát triển
của đời sau. Nhưng không ai có thể lấy lại sự tiến bộ đã được hoàn thành của một
người khác. Vậy tất cả chỉ tùy thuộc vào chính bạn, và điều ấy cũng cần có thời
gian.
Tôi
đã biết những người phương Tây đầy nhiệt tình lúc ban đầu tập sự, và họ quên hết
sạch trong vòng vài năm đến nổi không còn dấu vết gì của điều họ đã có được. Đấy
là vì họ trông đợi quá nhiều lúc mới khởi hành.
Trong
cuốn Đi vào hành động Bồ tát (Nhập Bồ Tát hạnh), Shantideva đã đặc biệt
nhấn mạnh vào sự tu hành pháp nhẫn nhục, nó không chỉ gồm sự khoan dung đối với
một số người thù nghịch, mà còn là sự tận tụy, trau giồi ý chí đối với lười biếng
và ngã lòng. Cần thiết phải cương quyết thu thập những phẩm tính này.
Để
tôi kể cho các bạn ví dụ cá nhân của tôi. Tôi sinh trong một gia đình và xứ sở
vốn là Phật giáo. Hãy nhớ rằng ở Tây Tạng, người ta cũng tìm thấy những người
Thiên Chúa giáo, Hồi giáo và tín đồ đạo Bon, một tôn giáo có trước Phật giáo.
Tôi được dạy Phật pháp bằng tiếng mẹ đẻ, và ngay khi còn rất trẻ, tôi đã được
thọ giới làm Tăng, điều này khiến tôi có nhiều thuận lợi hơn các bạn trong việc
thực hành. Tuy nhiên, chỉ vào khoảng mười lăm mười sáu tuổi tôi mới cảm thấy một
nhiệt tình thực sự. Và từ đó, tôi thực hành. Nếu tôi tự hỏi về nhịp điệu tiến bộ
trong suốt những năm ấy, tôi nhận xét rằng những kết quả xuất hiện sau hai hay
ba năm. Trong vài tuần, tôi chỉ thấy rất ít. Vậy thì phải cương quyết không
buông lỏng những cố gắng của mình.
Sự
tiến triển tâm linh thực hiện từng bước. Có lẽ các bạn nghĩ: "Vào lúc này,
tôi không mấy tiến bộ về định tâm". Hãy nhìn về quá khứ và tự hỏi:
"Tình trạng tinh thần của tôi cách đây năm năm, hay mười năm, mười lăm năm
như thế nào? Tôi đã bình an đến mức độ nào? Và bây giờ như thế nào?". Khi
so sánh, bạn nhận ra bạn có vài tiến bộ. Một bản tổng kê chỉ có giá trị nếu người
ta căn cứ trên một khoảng thời gian, mà không phải so tính giữa hôm qua và hôm
nay. Ngay một năm cũng chưa đủ, phải kiểm xem năm năm đã qua. Người ta tiến lên
bằng những cố gắng thường trực khi thực hành hàng ngày.
Đôi
khi người ta hỏi tôi, Phật giáo là một truyền thống cổ xưa đến từ phương Đông,
có thể thích hợp với những người phương Tây chăng? Theo cái nhìn của tôi, mọi
tôn giáo đều có một trục chung, là làm nhẹ bớt sự thống khổ của mọi người. Dù đến
từ phương Tây hay phương Đông, dù da đen, trắng hay đỏ, không ai thoát khỏi những
khổ đau của sinh, bệnh, lão và tử. Về mặt này, tất cả chúng ta là đồng hội đồng
thuyền. Thế nên, trước bản tổng kết này, vấn đề giáo lý như thế có thể hợp hay
không có chỗ đứng, khi mà nó cúi xuống trên thân phận bi thương của thế giới.
Trái
lại, chính mỗi người nên tự hỏi tùy theo khuynh hướng của mình. Về thức ăn,
không có tiêu chuẩn cho khẩu vị, mỗi người hướng đến những món ăn mình thích một
cách tự nhiên. Cũng thế, một tôn giáo có thể đem lại nhiều lợi lạc cho những
người này và tôn giáo kia lợi lạc hơn cho những người khác. Thật là một điều tốt
đẹp lớn lao cho nhân loại khi có thể sử dụng một số những giáo lý và không nghi
ngờ gì một số người phương Tây tìm thấy trong Phật giáo một đáp ứng cho những
yêu cầu của họ.
Về
cốt lõi, không nên tự hỏi giáo lý thích hợp hay không, cũng không nên sửa đổi
lòng tin đã sẵn có. Ngược lại, ở mức độ bên ngoài, người ta có thể chờ đợi một
sự thay đổi. Mới đây, tôi đã gặp ở châu Âu một nhà sư Myanmar theo truyền thống
Theravada gây cho tôi nhiều kính trọng. Vị ấy nêu sự phân biệt giữa di sản văn
hóa và chính tôn giáo. Trong ngôn ngữ của tôi, tôi nói rằng cần phân biệt giữa
nền tảng và hình thức, cái này liên quan với mức độ bên ngoài của lễ nghi tôn
giáo. Dù ở Ấn Độ, Tây Tạng, Trung Hoa, Nhật Bản hay chỗ nào khác, nền tảng tôn
giáo là đồng thể, trong khi di sản văn hóa thì khác nhau theo từng xứ. Ở Ấn Độ,
Phật giáo hòa nhập vào văn hóa Ấn, ở Tây Tạng vào văn hóa Tây Tạng... Cùng cách
ấy, Phật giáo có thể hòa vào văn hóa phương Tây.
Trong
sự truyền đạt thông điệp, cái phổ quát vẫn tồn tại. Hình thức thì chuyển hóa
theo môi trường chung quanh. Khi những lễ nghi không thích ứng với nơi chốn mới,
chúng tự thay đổi. Chúng sẽ trở thành cái gì trong một xứ sở tiếp nhận chúng,
không ai biết được. Chúng tiến hóa với thời gian. Khi Phật giáo được đưa vào
Tây Tạng, không có tiếng nói nào tuyên bố: "Phật giáo là cái mới trong xứ
này, bây giờ chúng ta sắp thực hành nó theo cách thế này thế kia". Đó
không là kết quả của một quyết định, mà là của một tiến hóa chậm chạp, đến một
thời gian nào đó đã cho ra đời một truyền thống thống nhất.
Điều
ấy cũng có thể biểu hiện như thế trong trường hợp phương Tây, và người ta sẽ thấy
dần dần nảy sinh một Phật giáo của văn hóa phương Tây. Dù gì đi nữa, những người
trong thế hệ mới đưa tư tưởng mới này vào trong xứ sở họ mang một trách nhiệm nặng
nề. Họ sẽ phải rút ra tinh túy của nó và áp dụng thích ứng vào nơi chốn của họ,
điều đòi hỏi rất cẩn trọng với hoàn cảnh và tỏ ra thông tuệ. Cần không rơi vào
những cực đoan: quá bảo thủ thì không tốt, quá cấp tiến cũng không nên. Tất cả
giống như trong triết lý Trung đạo, nên đứng trong khoảng giữa. Vả lại, đó là một
sự tiến triển đặc thù trong mọi lĩnh vực. Sự điều hòa cần thiết ngay trong cách
dinh dưỡng hàng ngày của chúng ta: bao tử cho chúng ta biết thích hợp với thứ
gì, nhiều thức ăn quá làm nó bệnh, ít quá cũng làm hại nó. Trong mọi thứ liên
quan đến đời sống hàng ngày, chúng ta nên giữ mức độ ấy. Những cái quá độ cần
phải được cân nhắc trong cả hai chiều hướng. Người ta cần có một cái nhìn tổng
thể về tình thế, tính đến nơi chốn và di sản văn hóa, và biết đánh giá trọn vẹn
cái gì là cốt lõi cho đời sống mỗi ngày. Một số yếu tố có thể góp phần vào di sản
văn hóa tuy nhiên không cần thiết cho cái hàng ngày.
Ví
dụ trong trường hợp văn hóa Tây Tạng, những y phục xưa cổ có thể tỏ ra vô ích
trong tương lai. Khi bối cảnh thay đổi, hệ thống xã hội, dư luận quần chúng, tất
cả đều nằm trong sự thay đổi, và một vài khía cạnh văn hóa không còn lý do để tồn
tại. Cũng thế, nếu một vài yếu tố của văn hóa phương Tây không được dùng nữa
trong đời sống hiện đại, tốt hơn là thay đổi chúng và bảo tồn những cái giữ được
một ý nghĩa và một chức năng. Các bạn phải làm thế nào để cho văn hóa của các bạn
và Phật giáo hòa hợp với nhau.
Nếu
các bạn thực sự chú tâm đến minh triết này, các bạn hãy cố công dịch nó ra
trong nhân cách của các bạn. Chớ lạm dụng kiến thức của mình. Chớ biến kiến thức
ấy thành một vũ khí để hủy diệt những lý thuyết hay ý thức hệ của người khác. Mục
tiêu của sự thực hành tâm linh là trở nên tự làm chủ được chính mình và không
chỉ trích những người khác. Tốt hơn hãy học cách ném một cái nhìn phê phán lên
chính bạn. Ta đã làm gì để chữa trị sự giận dữ của ta? Sự chấp đắm của ta? Sự
thù hận của ta? Sự kiêu căng của ta? Sự ghen ghét đố kỵ của ta? Đó là những thứ
đáng được đem qua cái sàng lọc hàng ngày của trí tuệ, dưới ánh sáng của những lời
dạy của Phật.
Với
tư cách là những người Phật tử, chúng ta nên áp dụng điều mà niềm tin của chúng
ta đã chỉ dạy, bắt đầu bằng sự kính trọng lớn lao nhất đối với những tín ngưỡng
khác, Thiên Chúa giáo, Do Thái giáo... Chúng ta phải nhận ra và tán thán sự
đóng góp của họ cho thế giới suốt bao thế kỷ nay, và bây giờ, nối kết những cố
gắng của chúng ta với những công sức của họ để giúp đỡ nhân loại. Những người
nào mới đến với Phật giáo phải đặc biệt chú ý giữ một thái độ đúng đắn đối với
những niềm tin tôn giáo khác nhau. Ngay trong lòng Phật giáo, cũng có những
phái tư tưởng khác nhau dạy những hệ thống thực hành khác nhau, và chúng ta phải
không nuôi dưỡng tình cảm cho rằng một lời dạy này thì tốt hơn hoặc kém hơn một
lời dạy khác. Tính bộ phái, khuynh hướng phê bình những giáo lý hay học phái
khác đối với chúng ta thì đặc biệt tai hại. Đó là những thuốc độc nên tránh.
Hãy
đặt tất cả nỗ lực của bạn vào sự thực hành hàng ngày: chính trong một thử thách
liên tục trường kỳ giáo lý mà dần dần nó đưa lại ý nghĩa sâu xa của nó. Nó
không chỉ đem đến một hiểu biết đơn giản, nó có tiềm năng mở toang tâm trí của
chuỏng ta. Một sự bừng nở như thế đòi hỏi những chăm sóc chú ý hàng ngày. Nếu bạn
bỏ lại sự sinh hoạt tâm linh của bạn ở phòng thay áo quần khi đi ra khỏi phòng
thiền định, bạn sẽ không rút ra được từ đó cái gì rất đáng giá.
Tôi
hy vọng các bạn bắt tay vào công trình với tất cả tấm lòng và động lực của các
bạn sẽ cho phép các bạn góp phần vào sự khả quan hơn của xã hội phương Tây. Đó
là sự cầu nguyện và mong ước của tôi.
[*]
Đây là một định kiến sai lầm về truyền thống Phật giáo Nguyên thủy Theravada và
đồng hoá truyền thống đó với cái gọi là Tiểu thừa (Hinayana) - vốn đã biến diệt
từ lâu trong lịch sử Phật giáo (Bình Anson, 05-2003).