Những diễn biến của lịch sử Phật giáo Việt Nam thời
cận hiện đại từ phong trào chấn hưng Phật giáo (1928-1945) đến phong trào tranh
đấu bất bạo động của Phật giáo miền Nam (1963) đều có tính chất tất yếu. Và vì
chúng đã chuyển biến trên nền tảng là dòng chảy của lịch sử dân tộc, nên tính
chất tất yếu ấy cũng là tất yếu theo lịch sử dân tộc, của lịch sử dân tộc. Bài
viết này là những cố gắng nhằm ghi nhận, biện giải, quảng diễn về tính chất tất
yếu đó.
Từ phong trào chấn hưng Phật giáo (1928 - 1945)
Diễn biến của phong trào chấn hưng
Phật giáo Việt Nam dấy khởi khắp ba miền Nam-Trung-Bắc (1928-1945) là con đường
đi tới tất yếu của Phật giáo Việt Nam thời cận hiện đại để tự tồn tại và phát triển, cũng là phù hợp với
tiến trình phát triển tất yếu của lịch sử dân tộc. Sau đây là những biện giải.
1- Tất yếu vì tính cách quốc tế
Phong trào chấn hưng Phật giáo Việt
Nam
là sự liên hệ từ phong trào chấn hưng Phật giáo đã và đang diễn ra tại nhiều
nước ở châu Á: Ấn Độ, Trung Hoa, Nhật Bản, Tích Lan, Miến Điện. Sách Việt
Nam Phật giáo sử luận III của Nguyễn Lang đã viết: “Phong trào chấn hưng
Phật học hồi đó có tính cách quốc tế và được khởi xướng ở Ấn Độ do cư sĩ David
Hewavitarane (1864-1933) người Tích Lan, sau này xuất gia thành Đại đức
Dharmapala. Công việc đầu tiên của ông là vận động trùng tu lại những Phật tích
quan trọng ở Ấn Độ, và tiếp theo là thành lập Hội Maha Bodhi Society, xuất bản tạp
chí Phật học, thành lập trung tâm Phật học và tu viện Phật giáo. Nhờ có sự
khuyến khích của thi sĩ Edwin Arnold (1832-1904) người Anh, tác giả sách The
light of Asia (Ánh sáng Á châu) và Đại tá
Henry Steel Olcott, người Hoa Kỳ, Dharmapala đã đạt được những thành công lớn…
Chính Dharmapala đã viết thư liên lạc với cư sĩ Dương Nhân Sơn (1837 - 1911) ở
Trung Hoa vào năm 1908 để mời cộng tác. Dương Nhân Sơn đã đứng lên thiết lập
tinh xá Kỳ Hoàn và triệu tập thanh niên Tăng Ni cùng cư sĩ Hữu Tâm về để nghiên
cứu Phật học qua Hán văn, Anh văn và Pali. Cộng tác với Dương Nhân Sơn có Âu
Dương Tiệm (1871-1943), Mai Quang Hy (cuối thế kỷ XIX - nửa đầu thế kỷ XX),
Thích Nhân Sơn (1887 - 1951). Những vị sau này đều trở thành rường cột của nền
phục hưng Phật giáo Trung Hoa. Từ tinh xá Kỳ Hoàn đã xuất hiện nhiều tài năng.
Từ năm 1914 trở đi, các cơ sở hoằng pháp được thành lập tại nhiều nơi trong
nước. Thiền Sư Thái Hư (1889-1947) lập Phật học viện Vũ Xương năm 1912, tiếp
theo đó nhiều Phật học viện được tuần tự thiết lập trong nước, xuất bản tạp chí
Phật Học. Các Hiệp hội Tăng Giáo Dục, Phật giáo Hợp Tiến, Phật giáo Tổng Hội,
Phật giáo Liên Hiệp, Phật giáo Cư Sĩ Lâm v.v.. thi nhau ra đời. Tạp chí Giác Xã
ra đời năm 1918 do Thái Hư chủ trương, ít lâu sau biến thành Nguyệt san Hải
Triều Âm, là một trong những cơ quan ngôn luận Phật giáo có ảnh hưởng tới nền
Phật giáo phục hưng tại đất Việt.
Trong lúc ấy, tại các nước Miến
Điện, Tích Lan, Nhật Bản, một ngọn gió mới cũng thổi vào nền Phật học cố hữu.
Động cơ của sự phục hưng này không phải chỉ do phong trào Phật học ở Ấn Độ và
Trung Hoa, mà còn do sự hâm mộ của Tây phương về Phật giáo nữa. Những học giả
Tây phương nghiên cứu Phật học một cách nghiêm túc vào khoảng đầu thế kỷ đã
khám phá ra được nội dung thâm sâu vĩ đại của tư tưởng Phật giáo và đã trung
thực nói lên những cảm nghĩ của họ. Điều này khiến cho Tây phương bắt đầu chú ý
tới đạo Phật và dần dần từ bỏ ý niệm khinh miệt có sẵn từ trước về Đạo học ở
Đông phương. Sự khâm phục của các học giả phương Tây đã làm cho niềm tự tin của
các dân tộc Phật giáo sống dậy: Người Phật tử bắt đầu nghiên cứu trở lại giáo
lý của tôn giáo họ với tất cả nhiệt tình.Đó là một trong những động cơ lớn thúc
đẩy phong trào chấn hưng Phật giáo ở các nước Á châu”(1).
Phật giáo Việt Nam từ lâu vốn
chịu ảnh hưởng từ Phật giáo Trung Hoa. Lần này thì cũng vậy, phong trào chấn
hưng Phật giáo Trung Hoa đã có những tác động đáng kể đối với giới Phật tử Việt
Nam đương thời (cả tu sĩ, cư sĩ) khiến họ dấy khởi niềm tự tin như đã nói cùng
hăng hái thực hiện công việc chấn hưng, thể hiện rõ điều mà Phan Chu Trinh
(1872-1926) đã từng gọi là “tinh thần tôn giáo”: “Không có tinh thần tôn giáo,
chúng ta không biết cương cường xả thân vì nghĩa… Nay bà con thử xét, đời Trần
vì sao dân tộc ta hùng dũng như vậy: quân Nguyên thắng cả Á cả Âu, nuốt trọn
Trung Hoa, mà qua đến nước ta thì bại tẩu… Như thế chẳng phải là nhờ đạo Phật ở
ta thời đó rất thịnh ư? Nhờ cái tinh thần tôn giáo của ta ư?(2).
2- Tất yếu vì tính chất tự tồn,
tính chất sống còn
Nói cách khác, Phật giáo Việt Nam thời kỳ
tiền chấn hưng không còn con đường nào khác: Hoặc là phải chấn hưng để tự tồn
và phát triển hoặc là bị suy diệt. Tính chất sống còn, tính chất tự tồn này có
thể ghi nhận qua mấy chi tiết: (1) Tự tồn để phát huy nội lực: Giáo sư Trần Văn
Giàu (1911-2010) trong bộ sách Sự phát triển của tư tưởng Việt Nam từ thế kỷ
XIX đến Cách mạng tháng Tám, phần Điểm qua phong trào chấn hưng Phật giáo,
đã tóm kết về hiện trạng của Phật giáo Việt Nam thời bấy giờ: “Phật tử phê phán
Phật giáo suy đồi ở trên 2 điểm chính đó là: Dốt và Hư”(2A). Vậy nếu
không chấn hưng thì Phật giáo Việt Nam tất bị suy diệt, vì Phật giáo
Việt nam không thể tự tồn tại khi không còn nội lực tức không có trí tuệ (Dốt)
và không có đạo đức (Hư). (2) Tự tồn để hiện rõ ánh sáng và sự thật: Nếu không
chấn hưng thì ánh sáng cùng sự thật nơi Phật giáo và Phật giáo Việt Nam mãi mãi
bị chìm lấp, chìm lấp trong sự suy diệt, lại bị phê phán đả kích từ nhiều phía.
Trước thời kỳ chấn hưng và song hành với thời kỳ chấn hưng, có 4 tác phẩm viết
về Phật giáo và Phật giáo Việt Nam trong ý hướng phê phán, đả kích, dựa theo
những quan điểm khác nhau. Đó là những trang viết về Phật giáo và Phật giáo
Việt Nam của Phan Kế Bính (1875 - 1921) trong sách Việt Nam phong tục,
xuất bản năm 1915; thiên khảo cứu khá dài: Phật giáo lược khảo của Phạm
Quỳnh (1892 - 1945) đăng trên Tạp chí Nam Phong số 40 tháng 10/1920 (sau
in lại trong Thượng chi văn tập, tập 4, NXB A.De Rhodes, Hà Nội, không
ghi số năm, trang 7 - 148); sách Vì sao tôi cảm ơn đạo Phật của sư Thiện
Chiếu (1898-1974) xuất bản năm 1936; và tác phẩm Phê bình Phật giáo của
Nguyễn An Ninh (1900-1943) xuất bản năm 1937. Phan Kế Bính (1875-1921) là tiêu
biểu cho hạng Nho sĩ cựu học mang nặng tư tưởng độc tôn lỗi thời về Nho giáo,
cho chỉ mỗi Nho giáo là đạo chính thống còn các học thuyết khác, kể cả Phật
giáo, đều là ngoại lai, ngoại nhập. Trong sách Việt Nam phong tục (xuất
bản năm 1915), Phan Kế Bính đã dùng 5 trang sách để viết về Phật giáo và Phật
giáo Việt Nam (Việt Nam phong tục, bản in 1999, tr.168-173), gồm: Ghi
nhận tổng quát về Phật giáo (trang 168-171). Dựa theo sách Việt sử yếu lược của
Quận Hoàng(?) để dịch, nêu tóm tắt về đạo Phật từ Ấn Độ truyền sang Tàu, sang
Việt Nam.
Xét ở cựu sử để bàn về thời kỳ đạo Phật du nhập vào Việt Nam (trang
171-172). Ghi nhận và phê phán về hiện trạng suy kém của Phật giáo Việt Nam thời bấy
giờ (nửa trang 173). Không rõ Phan Kế Bính đã dựa theo những tài liệu nào để
viết, mà viết quá sai, hoàn toàn sai về đạo Phật. Chẳng hạn, tác giả viết về Tam
tạng kinh điển của Phật giáo như sau: “Ngài (chỉ Đức Phật) mất rồi, các học
trò soạn nhặt các lời di ngôn, tập hợp thành sách, cả thảy 42 chương, chia làm
3 quyển gọi là Kinh Tam tạng”. (Việt Nam phong tục, sđd, tr.169).
Hoặc: “Tục truyền ông ấy (chỉ Đức Phật) về sau ăn mỡ lợn, phát trướng mà chết ở
nơi Câu Thi. Lúc gần mất, ông ấy nói rằng: Nay ta đã lên cõi Niết-bàn, nghĩa là
lên đến chỗ Cực lạc thế giới” (Sđd, tr.169). Đây không chỉ là viết sai mà còn
là viết bậy nhằm xuyên tạc. Hoặc cho: Mục đích của đạo Phật chỉ có 2 chữ Hư vô
là kiêm hết”(3). Năm năm sau ngày Việt Nam phong tục của Phan
Kế Bính xuất bản, trên Tạp chí Nam Phong số 40 tháng 10-1920, Phạm
Quỳnh(1892-1945) đã cho đăng thiên khảo cứu Phật giáo lược khảo của
mình. (Xem: Thượng chi văn tập, tập 4, NXB A. DeRhodes, Hà Nội, trang
7-148). Đây là tác phẩm viết bằng chữ Quốc ngữ đầu tiên, nghiên cứu về Phật
giáo một cách tương đối đầy đủ và nghiêm túc, do một trí thức Việt Nam viết, ra đời trước phong trào chấn hưng Phật
giáo Việt Nam
(1928 - 1945). Phạm Quỳnh đã không hề nhắc đến những trang viết về Phật giáo
của Phan Kế Bính trong Việt Nam
phong tục. Cũng không như Phan Kế Bính chỉ dựa theo những thứ tài liệu vớ
vẩn nào đấy để viết bậy bạ về đạo Phật, Phạm Quỳnh đã có những tham khảo đúng
đắn về các tài liệu chữ Hán, chữ Pháp liên hệ để khảo xét về Phật giáo, dẫn lời
của một nhà làm sách ở Nhật Bản đã từng khẳng định: “Phật giáo là một trong hai
cái nguồn lớn của văn hóa Đông Á” (Thượng chi văn tập, tập 4, sđd,
tr.7). Những luận điểm của Phạm Quỳnh khi ghi nhận, phê phán các vấn đề thuộc
loại cơ bản của Phật học như vấn đề diệt khổ, vấn đề vô ngã, sắc không,
Niết-bàn, giải thoát v.v.. không chỉ là những kiến giải tự thân của nhà nghiên cứu, mà đấy còn là những kiến giải,
những luận điểm được nối dài, được Việt hóa từ luận điểm của một số nhà triết
học, văn sử học Âu Tây thế kỷ XIX đã kích bác Phật giáo như Roger PaulDroit
trong tác phẩm Le Culte du Néant (Tín ngưỡng hư vô) xuất bản năm 1997,
đã nêu dẫn và biện giải đầy đủ(4).
Lại, theo học giả Đào Duy Anh
(1904-1988) trong tác phẩm Hồi ký Nhớ nghĩ chiều hôm, thì hai cuốn sách
viết về Phật giáo: Vì sao tôi cảm ơn đạo Phật của sư Thiện Chiếu (1898-1974) xuất bản năm
1936 và cuốn Phê bình Phật giáo của Nguyễn An Ninh (1900 -1943) xuất bản
năm 1937 đã tạo được những chú ý đáng kể đối với đám thanh niên cùng lớp với
ông thời ấy. Sách “Vì sao tôi cảm ơn Đạo Phật” đã giúp ông “thấy rõ những mâu thuẫn của Đạo Phật, đặc biệt là của thuyết Nhân
quả, thuyết Niết-bàn, nói lên những điều mà tôi vẫn thường nghĩ lờ mờ nhưng tự
mình chưa biết nói ra như thế nào”(5). Còn tác phẩm Phê bình Phật
giáo thì Nguyễn An Ninh đã đứng về lập trường Duy vật biện chứng mà phê
bình Phật giáo. Đi xa hơn tác giả sách Vì sao tôi cảm ơn đạo Phật,
Nguyễn An Ninh đã phê bình mọi lý thuyết cơ bản của Phật giáo với con mắt của
người đã thừa nhận những luận điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác”(6).
Như thế, tức chỉ có chấn hưng thì
Phật giáo Việt Nam mới có đủ ánh sáng và sự thật để tự nhìn về chính mình cùng
nhìn rõ, nhìn đúng về những luận điểm đã phê phán, kích bác kia.(3) Tự tồn
để phục hưng và phát huy văn hóa Phật giáo, góp phần phát huy bản sắc văn hóa
dân tộc: Chỉ có mỗi một con đường chấn hưng thì Phật giáo Việt Nam mới có
thể thực hiện được các sự việc vừa nêu. Chính do chấn hưng mà Phật giáo Việt
Nam thời kỳ 1930-1945 đã có thêm những cây bút nghiên cứu Phật học sáng giá như
Trần Trọng Kim (1882-1953), Nguyễn Trọng Thuật (1883-1940), Bùi Kỷ (1887-1960),
Thiều Chửu(1902-1954). Chư vị đều là các nhà Nho có tân học, gồm thông cả Nho -
Phật, hăng hái tham gia phong trào chấn hưng Phật giáo vì nhận thấy vào thời
bấy giờ, đấy là con đường duy nhất để tạo sự hồi sinh cùng phát huy văn hóa
Phật giáo, góp phần bảo vệ và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc.
Ba chi tiết đã nêu dẫn như trên là
phân tích. Thực sự thì chúng hỗ tương đan xen để cùng khẳng định con đường chấn
hưng là tất yếu.
Đến phong trào tranh đấu bất bạo động của Phật giáo miền Nam (1963)
Phong trào chấn hưng Phật giáo tạm
dừng lại vào năm 1945, không phải vì sự nghiệp chấn hưng đã hoàn tất mà chính
là vào năm ấy, lịch sử dân tộc đã mở ra một trang mới: Cách mạng tháng Tám năm
1945 thành công, nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa được thành lập, sau đấy thì
toàn quốc kháng chiến chung sức đánh đuổi thực dân Pháp để giành lấy độc lập.
Trước sau, Phật giáo vẫn là đạo của dân tộc (chữ của Bùi Minh trong bài “Cách
đây nửa thế kỷ” in trong Bồ-tát Quảng Đức - Ngọn lửa và Trái tim. Nxb Tổng Hợp TP.HCM, 2005, tr.335) nên
cũng chuyển mình để tham gia kháng chiến. Sách Việt Nam Phật giáo sử luận
III, của Nguyễn Lang đã ghi nhận cho chúng ta thấy là hồi ấy các cơ sở Phật
giáo, các Phật học đường khắp ba miền đều đóng cửa, để các Tăng sĩ cũng như cư
sĩ tham gia kháng chiến. Nơi các trang 199-201 của sách kể trên, tác giả Nguyễn
Lang cũng đã bước đầu ghi nhận về những hy sinh của giới tu sĩ Phật giáo cho sự
nghiệp giành lại độc lập của dân tộc.
Cũng là sách Việt Nam Phật giáo
sử luận III, nơi các chương XXXI, XXXII, XXXIII, XXXIV tiếp theo, tác giả
đã cho thấy giới Phật tử Việt Nam, sinh hoạt tại các vùng kháng chiến hoặc sống
ở các vùng tạm chiếm, đều tùy theo những phương tiện có thể có, để phát huy
những thành quả đã được từ phong trào chấn hưng. Cụ thể là tu tạo chùa chiền,
thành lập Phật Học viện để đào tạo Tăng tài, xây dựng Trường Bồ Đề, xuất bản
tạp chí Phật học, in ấn kinh sách, Việt dịch các Kinh-Luật-Luận từ Hán tạng để
bước đầu hình thành Đại tạng kinh Việt Nam (sự nghiệp này, ở miền Nam, đến năm
1973 mới chính thức hoạt động theo hệ thống của Giáo hội). Do đấy, sau khi Hiệp
định Genève được ký kết (20-7-1954) miền Nam Việt Nam từ Nam vĩ tuyến 17 trở
vào trở thành nước Việt Nam Cộng Hòa dưới sự cai trị của chính quyền Ngô Đình
Diệm, thì con đường đi tới của Phật giáo Việt Nam ở miền Nam vẫn là tất yếu vì
vẫn là phát huy những thành tựu đã đạt được từ thời kỳ chấn hưng. Sách Việt
Nam Phật giáo sử luận III đã viết về sự kiện “Ông Ngô Đình Diệm chấp chính”
như sau: “Chiến thắng Điện Biên Phủ ngày 7-5-1954 là kết quả của nỗ lực phi
thường thuộc toàn dân Việt Nam, kể cả những người sống trong vùng Pháp kiểm
soát. Chiến thắng này đã đưa tới Thỏa hiệp Genève và sự rút khỏi Việt Nam sau đấy của
quân đội viễn chinh Pháp. Nhưng Hiệp định Genève ký ngày 20-7-1954 đã chia cắt
đất nước Việt Nam
thành hai, lấy vĩ tuyến 17 làm giới tuyến… Trước ngày ký kết Hiệp định Genève,
dưới áp lực của người Hoa Kỳ, chính phủ Pháp và Quốc trưởng Bảo Đại đã để cho
ông Ngô Đình Diệm thay thế ông Bửu Lộc ở chức vụ Thủ tướng Chính phủ. Thủ tướng
Ngô Đình Diệm chấp chính vào ngày 8-7-1954. Sau ngày ký kết Hiệp định Genève,
với sự viện trợ của Hoa Kỳ, cùng với những phương tiện vận chuyển của quân đội
Pháp, ông Ngô Đình Diệm đã tổ chức đưa một triệu dân di cư từ miền Bắc vào miền
Nam. Số người Công giáo di cư lên tới hơn 700.000 người. Số còn lại là những
người theo Phật giáo và các tôn giáo khác.
Thủ tướng Ngô Đình Diệm muốn liên
hiệp trực tiếp với Hoa Kỳ để xây dựng và bảo vệ miền Nam, cho nên không ngần ngại tổ
chức truất phế Quốc trưởng Bảo Đại… Ông đã thẳng tay đàn áp các lực lượng Bình
Xuyên, Cao Đài, Hòa Hảo khi các lực lượng này liên hợp với nhau để đòi hỏi ông
cải tổ chính phủ nhằm thực hiện “Một chính quyền lành mạnh không có tính cách
gia đình trị”. Ngày 26-10-1955, sau khi tổ chức cuộc trưng cầu dân ý để truất
phế Bảo Đại, với tư cách là Quốc trưởng, ông đứng lên tuyên bố thành lập nước
Việt Nam Cộng Hòa ở miền Nam…Từ tháng 7-1954, Hoa Kỳ đã bắt đầu trực tiếp viện
trợ cho Việt Nam mà không còn qua trung gian người Pháp. Dựa vào sự quyết tâm
ủng hộ miền Nam
của Hoa Kỳ và trước sự thất thế của người Pháp, ông Diệm có điều kiện để tỏ ra
chống thực dân Pháp. Sự chống đối này không khó khăn gì và không gặp trở lực
nào… Hiệp định ngày 30-3-1956 quy định việc rút hết quân đội viễn chinh Pháp ra
khỏi miền Nam.
Đơn vị cuối cùng của đạo quân viễn chinh này rời khỏi đất nước người Việt vào
những ngày cuối tháng Tư năm 1956”(7).
Ông Ngô Đình Diệm lên làm thủ
tướng vào ngày 8-7-1954, và nước Việt Nam Cộng Hòa ở miền Nam, do ông với tư
cách là Quốc trưởng đã khai sinh, ra đời vào ngày 26-10-1955, nhưng mãi đến
tháng 5-1963 thì phong trào tranh đấu bất bạo động của Phật giáo miền Nam chống
lại chế độ độc tài Ngô Đình Diệm mới phát khởi, có thể cho là quá chậm, mặc dù
ngay từ buổi đầu của chế độ, người Phật tử Việt Nam đã thấy rõ những sự chèn
ép, hạn chế đối với Phật giáo của chính quyền cai trị, nhưng bất kỳ một biến
động lịch sử nào cũng cần phải hội đủ các nhân duyên thì mới bùng phát. Trong
bài viết Cách đây nửa thế kỷ, Bùi Minh đã nêu ra hai nguyên nhân của “Vụ
Phật giáo”: Nguyên nhân sâu xa: Ông Diệm là người Công giáo, chính quyền của
ông dựa vào lực lượng Công giáo… Anh em ông, nhất là Tổng Giám mục Ngô Đinh
Thục muốn biến Việt Nam
thành một nước Công giáo. Có lần ông Tổng Giám mục đã trả lời tờ Informationscatho
- lique Internationales (Thông tin Công giáo Quốc tế) số 188, ngày
15-3-1963, là nhiều làng ở Việt Nam đã xin làm lễ rửa tội tập thể. Giáo hội
không đủ sức cung cấp số người dạy đạo cho họ. Mà muốn biến Việt Nam Cộng Hòa
thành một nước Công giáo, thì một trong những việc phải làm là triệt hạ Phật
giáo, đạo của đại đa số dân việt Nam là việc làm lấy dao chém vào nước. Để làm
việc này, về mặt pháp lý, ông Diệm dựa vào Đạo dụ số 10 năm 1950 của Bảo Đại.
Đạo dụ này đặt các tổ chức tôn giáo, ngoại trừ các Hội truyền giáo Thiên Chúa
giáo, vào chế độ các hiệp hội thông thường, như Hội những người thích ăn ngon, Hội
những người sợ vợ, chính quyền có quyền bác khước đơn xin lập hội mà không cần
viện dẫn lý do. Chính quyền có quyền viện dẫn lý do trị an để giải tán hội.
Về mặt chính trị, Phật giáo là cái
gai trước mắt của ông Diệm. Trong suốt thời gian kháng chiến 1945-1954, khác
với các tôn giáo khác, Phật giáo là đạo của dân tộc, nên thân kháng chiến.
Người Pháp và những người cộng tác với họ đã lập Hội Phật giáo Thiền Lữ và Hội
Phật giáo Cổ sơn môn để lôi kéo Phật tử theo họ, nhưng họ đã thất bại. Hai hội
này đã không đại diện cho ai, ngoài những người lập hội.
Trên thực tế, chế độ ông Diệm đã
ép buộc Phật tử, nhất là Phật tử ở thôn quê vùng sâu vùng xa, theo đạo đổi đạo.
Ai không theo không đổi đạo thì bị lưu đày đi các khu dinh điền. Ai quyết liệt
hơn thì bị sát hại. Trước tình hình này, Tổng hội Phật giáo đã gửi thư trình
bày và tố cáo với Tổng thống Diệm, nhưng không có sự phúc đáp nào. Nguyên nhân
gần: Là vụ cấm treo cờ năm sắc Phật giáo trong lễ Phật đản Phật lịch 2496
(1963)…(8).
Nói “Về mặt chính trị, Phật giáo là
cái gai trước mắt ông Diệm” thì ngược lại Phật giáo Việt Nam ở miền Nam, cụ thể
là các vị Tăng sĩ trẻ đang giữ những cương vị lãnh đạo Giáo hội, chắc chắn là
không ngây thơ để tin vào một sự hòa giải, hóa giải của chính quyền Ngô Đình
Diệm đối với Phật giáo. 7 năm, từ 1956 đến 1963, là thời gian tạm đủ để Phật
giáo miền Nam, trong điều kiện có thể, xây dựng các cơ sở hành đạo, chỉnh đốn
và phát huy nội lực, đào tạo Tăng tài, hun đúc cho mọi giới Phật tử nhất là lớp
trẻ tinh thần bảo vệ Chánh pháp v.v.. Một số biểu ngữ được giương cao trong
đoàn quần chúng Phật tử rước Phật vào sáng ngày Phật đản năm 1963 tại Huế, trên
con đường từ chùa Diệu Đế lên chùa Từ Đàm (mở đầu cho Phong trào tranh đấu) đã
nói lên khá rõ điều chúng tôi vừa trình bày:
- Cờ Phật giáo Quốc tế không thể bị
triệt hạ.
- Phật giáo đồ nhất trí bảo vệ
Chánh pháp dù phải hy sinh.
- Yêu cầu chính phủ thi hành chính
sách tôn giáo bình đẳng.
- Chúng tôi không từ chối một hy
sinh nào.
- Phản đối chính sách bất công gian
ác.
- Đã đến lúc chúng tôi bắt buộc
tranh đấu cho chủ trương tôn giáo bình đẳng(9).
Đỉnh cao của tinh thần bảo vệ Chánh
pháp là sự kiện tự thiêu chấn động cả thế giới của Hòa thượng Thích Quảng Đức
(11-6-1963). Tiếp theo là những ngọn lửa tự thiêu của các Tăng Ni, hầu hết là
lớp trẻ: Đại đức Nguyên Hương (4-8-1963). Đại đức Thanh Tuệ (13-08-1963). Ni cô
Diệu Quang (15-8-1963). Đại đức Quảng Hương (5-10-1963). Đại đức Thiện Mỹ
(27-10-1963). Rõ ràng phong trào tranh đấu bất
bạo động chống chế độ độc tài Ngô Đình Diệm là con đường đi tới tất yếu của
Phật giáo miền Nam
để tự tồn. Tính chất tất yếu ấy đã được Bùi Kha trong bài viết Ngọn lửa
Quảng Đức và biến cố Phật giáo 1963 dưới cái nhìn của thế giới, đã biện
giải rất sắc nét: “Sau thế chiến thứ II (1939-1945) hàng hóa và vũ khí của Mỹ
để cung ứng cho chiến tranh bị tồn đọng rất nhiều. Mỹ thay chân Pháp ở Đông
Dương, biến miền Nam
thành tiền đồn chống Cộng với khẩu hiệu: Để chặn đứng sự bành trướng của chủ
nghĩa Cộng sản tại vùng Đông nam Á, nhưng thực tế còn để tiêu thụ hết số hàng hóa
và khí giới thặng dư. Để thi hành hai mục tiêu then chốt cùng một lúc tại Việt
Nam, chính phủ Mỹ sẽ chỉ chấp nhận một chính quyền bù nhìn phục tùng Mỹ, nghĩa
là một chính quyền Công giáo (vì Tin Lành thời điểm đó còn yếu) trong một quốc
gia mà số tín đồ của họ chỉ chiếm 5% dân số. Chính sách phản dân chủ “đa số
phục tùng thiểu số” do tay sai bản xứ của Mỹ tại Việt Nam thực hiện, đã là một
trong những nguyên nhân sâu xa và gián tiếp đưa đến vụ tranh đấu của Phật giáo
năm 1963, và ngọn đuốc Thích Quảng Đức nhằm thức tỉnh chính quyền Ngô Đình Diệm
cùng đánh động lương tâm nhân loại về một thực trạng bất công đã đè nặng lên
thân phận người dân Việt Nam kể từ thời Pháp thuộc kéo dài đến không những dưới
chế độ Ngô Đình Diệm mà còn dưới chính quyền Nguyễn Văn Thiệu, một chính quyền
“Bình mới nhưng rượu cũ”.
Phác họa lại vài nét về bối cảnh
lịch sử như thế để thấy cuộc tranh đấu của Phật giáo năm 1963, không phải chỉ
vì sự bất công giữa Phật giáo và Kitô giáo (Công giáo và Tin Lành) mà nguyên
nhân chính còn là sự bất công áp bức giữa một tôn giáo và các tôn giáo, là sự
đày đọa bất công của người dân miền Nam Việt Nam dưới một chế độ độc tài, bù
nhìn Ngô Đình Diệm. Biến cố Phật giáo năm 1963 chỉ là một giọt nước làm tràn
ly. Vì thế cuộc tranh đấu do Phật giáo khởi xướng là một cuộc tranh đấu không
những của toàn dân miền Nam Việt Nam, mà cũng là cuộc tranh đấu của
những người yêu chuộng tự do bình đẳng, công bằng xã hội trên khắp thế giới(10).
Trong quá trình tranh đấu bất bạo động chống chế độ Ngô Đình Diệm của Phật giáo
miền Nam, Ngọn lửa Quảng Đức là một hội tụ về sức mạnh tâm linh trong
đỉnh cao tột vời của tinh thần bảo vệ Chánh pháp, đã tạo được một bước ngoặt
cực kỳ quan trọng, vì đã đánh động được lương tâm của nhân loại, tuy không thức
tỉnh được chính quyền Ngô Đình Diệm, nhưng thực sự là đã khiến cho chế độ ấy
phải run sợ. Những tuyên bố của bà Trần Lệ Xuân với báo chí ngày ấy là những
chứng tỏ cho sự run sợ kia(11). Sách Việt Nam Phật giáoSử luận
III đã viết về Ngọn lửa Quảng Đức như sau: “Vị thiền sư ngồi tự thiêu ở ngã
tư đường Phan Đình Phùng - Lê Văn Duyệt có đạo hiệu là Thích Quảng Đức, sáu
mươi bảy tuổi, trụ trì chùa Quan Âm ở Gia Định. Trong tư thế kiết-già, tay bắt
ấn Cam lộ, ông ngồi vững như một pho tượng đồng trong khi ngọn lửa cháy lên cao
gần bốn thước, phủ trọn cả thân hình ông. Đó là vào khoảng đầu giờ Ngọ ngày 11
tháng 6 năm 1963. Lửa cháy trước con mắt kinh ngạc của những ký giả và nhiếp
ảnh gia quốc tế. Lửa cháy trước niềm xót thương và lòng kính cẩn của quần chúng
có mặt tại đó. Xe cộ dừng lại cả, và mọi người đứng vây quanh cảnh tượng hào
hùng chưa từng thấy xảy ra ở thủ đô Sài Gòn. Mười lăm phút sau, nhục thân của
thiền sư ngã xuống, tiếng kêu khóc của quần chúng vang lên nức nở.
Vài giờ đồng hồ sau, hình ảnh và
tin tức về Thiền sư Quảng Đức tự thiêu đã tràn ngập trên các hệ thống truyền
hình và báo chương quốc tế. Nhật báo nào cũng đăng hình thiền sư tự thiêu ở
trang đầu với tiêu đề lớn. Thế giới chấn động, dồn hết sự chú ý về phía trời
Đông Nam Á. Không một ai trên trái đất còn giữ thái độ hờ hững về cuộc tranh
đấu của Phật tử Việt Nam…”(12).
Nhà thơ Vũ Hoàng Chương
(1916-1976), từ cảm hứng thiên tài của một thi sĩ mộ Phật cùng biết yêu chuộng
lẽ phải, đã kính cẩn gọi tên Ngọn lửa Quảng Đức là Lửa Từ bi với
những vần thơ tuyệt vời tràn đầy cảm xúc kính ngưỡng, tán thán:
Lửa, lửa cháy ngất tòa sen
Tám chín phương nhục thể trần tâm
Hiện thành thơ quỳ cả xuống
Hai vầng sáng rưng rưng
Đông Tây nhòa lệ ngọc
Chắp tay đón một mặt trời mới mọc
Ánh đạo vàng phơi phới đang bừng
lên, dâng lên…
(Lửa Từ bi, đoạn đầu) (13)
Chúng tôi cũng xin trích dẫn một
số đoạn nơi sách Việt Nam Phật giáo sử luận III trong nỗ lực tái hiện
một giai đoạn lịch sử quan trọng trên con đường đi tới của Phật giáo miền Nam
trong dòng chảy của lịch sử dân tộc mà tác giả cho “có thể gọi là kỳ diệu nhất
của Phật giáo Việt Nam”(14).
Đây là những ghi nhận mang tính
chất tổng quát: “Cuộc vận động năm 1963 của Phật tử Việt Nam (miền Nam) không
phát xuất từ sự tranh chấp giữa người Phật giáo và người Công giáo. Cuộc vận
động này chỉ nhằm chống lại chế độ độc tài của tập đoàn ông Ngô Đình Diệm, một
tập đoàn đã đi quá đà trong việc sử dụng đồng bào Công giáo nhất là người Công
giáo di cư vào sự việc củng cố quyền binh và đàn áp những tổ chức đối lập hoặc
độc lập. Cuộc vận động này của Phật tử đã được các giới không phải Phật tử ủng
hộ, trong đó có nhiều thành phần Công giáo, Linh mục cũng như giáo hữu. Họ đại
diện cho đa số những người Công giáo có lương tri, có óc phê phán công chính và
có thừa can đảm để chống lại những gì đi ngược với tinh thần chân chính của
Phúc Âm”(15).
Đây là một số ghi nhận liên quan
đến trường hợp tự thiêu của Hòa thượng Quảng Đức: “Sáng ngày 11-6-1963, trước
khi tự thiêu, ông đã viết để lại một bức thư gọi là Lời nguyện tâm quyết”, nói
rõ chủ định và nguyện vọng của ông. Điều đáng ghi nhớ là toàn văn bức thư này
đã không chứa đựng một mảy may hận thù và tuyệt vọng nào, mà trái lại còn thấm
nhuần tình thương và hy vọng… Ngày 20-6-1963, nhục thân của Thiền sư Quảng Đức
được rước về An dưỡng địa ở Phú Lâm để làm lễ hỏa thiêu… Chính quyền chỉ cho
phép khoảng hai trăm vị Tăng Ni tham dự vào đám rước này và buộc phải đi bằng
xe hơi. Tuy vậy, suốt dọc đường, hương án của tư gia đã được bày ra hai bên lề
với đèn hương nghi ngút để bày tỏ sự thành kính đối với vị thiền sư mà từ đây
mọi người bắt đầu xưng tụng là Bồ-tát Quảng Đức. Ngọn lửa hỏa thiêu đã không
đốt cháy được trái tim của thiền sư. Trái tim này được đem thiêu lần thứ hai
với sức nóng 4.000 độ nhưng vẫn không cháy…”(16).
Còn đây là những ghi nhận và đánh
giá về bước ngoặt, sau đêm 20-8-1963, chùa chiền trên khắp miền Nam đã bị chính
quyền Ngô Đình Diệm đồng loạt tấn công, một cái nhìn xuyên thủng hiện tượng để
góp phần lý giải vấn đề một cách toàn diện, triệt để: “Các chùa chiền trong
toàn quốc hoang tàn và vắng lạnh đến não nùng. Một sự im lặng nặng nề và tang
tóc bao trùm lên đời sống của toàn dân chúng. Tất cả các vị lãnh đạo Phật giáo
đều đã bị bắt. Sóng gió do phong trào Phật tử gây ra hình như không còn nữa.
Nhưng sóng gió bắt đầu nổi dậy trong lòng mọi người. Những đợt sóng ngầm vĩ đại
trong lòng đại dương không còn ai ngăn chặn và không có cách nào ngăn chặn được
nữa. Đêm 20-8-1963, chính quyền của Tổng thống Diệm đã chọn cho mình một tuyệt
lộ”(17).
Ngày 1-11-1963, chính quyền Ngô
Đình Diệm ở miền Nam
đã sụp đổ. Ngày 12-1-1964 Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất ra đời. Từ
1965 - 1975, Phật giáo Việt Nam
ở miền Nam
đã tạo được một số thành tựu đáng kể về các mặt văn hóa, giáo dục, nghiên cứu,
dịch thuật, sáng tác, xuất bản v.v.. khẳng định tính chất tất yếu của phong
trào chấn hưng đã được nối tiếp và phát huy đúng hướng.
Tháng 4-2013
Đào Nguyên
Chú thích
(1) Việt Nam Phật giáo sử luận III của
Nguyễn Lang, Nxb Lá Bối, Paris 1985, tr.23 - 25.
(2) Dẫn theo Việt Nam Phật giáo sử luận III, Sđd, tr.16.
(2A) Trần Văn Giàu, Sđd, T2, Nxb KHXH 1975, tr.234.
(3) Xem thêm bài viết của Đào Nguyên: Phật giáo và hư vô cùng chủ
nghĩa hư vô, Nguyệt san Giác Ngộ số
202, 203, tháng 1,2-2013.
(4) Xem thêm bài viết của Đào Nguyên: Phật giáo
và hư vô cùng chủ nghĩa hư vô, Phần: Nhìn sang phương Tây, Nguyệt san Giác
Ngộ số 202 tháng 1-2013.
(5) Nhớ nghĩ chiều hôm, HK của Đào Duy Anh,
Nxb Trẻ, 1989, tr.189.
(6) Nhớ nghĩ chiều hôm, Sđd, tr.190.
(7) Việt Nam Phật giáo sử
luận III, Sđd, tr.317-319.
(8) Bùi Minh,“Cách đây nửa thế kỷ”, in trong Bồ-tát
Quảng Đức - Ngọn lửa và Trái tim, Nxb
Tổng Hợp Tp.HCM, 2005, tr.336 -
337.
(9) Dẫn theo Việt Nam Phật giáo sử luận III.
Sđd, tr.344.
(10) Bùi Kha,“Ngọn lửa Quảng Đức và biến cố Phật
giáo 1963 dưới cái nhìn của thế giới”, in trong: Bồ-tát Quảng Đức - Ngọn lửa và
Trái tim, Nxb Tổng Hợp Tp.HCM, 2005, tr.304.
(11) Trên báo Úc đầu năm 1999 có đăng những dòng
viết của bà Trần Lệ Xuân: “Sau 36 năm khép mình trong nếp sống tu viện ở La Mã,
nay tôi có rất nhiều điều muốn nói, nhưng điều đầu tiên tôi muốn nói là: Tôi xin
thành tâm sám hối trước linh hồn Hòa thượng Thích Quảng Đức về những lời tuyên
bố vô ý thức… của tôi năm 1963”. Dẫn theo Phạm Văn Cảnh, bài “Sáng mãi niềm tin
Quảng Đức”, in trong Bồ-tát Quảng Đức - Ngọn lửa và Trái tim, Sđd,
tr.318.
(12) Việt
Nam Phật giáo sử luận III, Sđd, tr.356-357.
(13) Dẫn theo Việt Nam Phật giáo sử luận III. Sđd, tr.360.
(14) Việt Nam Phật giáo sử luận III, Sđd,
tr.325.
(15) Việt Nam Phật giáo sử luận III, Sđd, tr.327.
(16) Việt
Nam Phật giáo sử luận III, Sđd, tr.358-367.
(17) Việt Nam Phật giáo sử luận III, Sđd, tr.407.