Trong bài viết này, tác giả phân tích các nguyên nhân
dẫn đến phong trào đấu trong bất bạo động của Phật giáo Việt Nam và đại
nguyện tự thiêu vì chánh pháp của Bồ-tát Thích Quảng Đức. Trên cơ sở
này, phân tích khái quát về ý nghĩa tự thiệu của Bồ-tát Thích Quảng Đức,
để từ đó, mỗi người tự rút ra cho mình các bài học nhập thế, phụng sự
nhân sinh.
Trong suốt gần hai nghìn năm hiện diện trên quê hương, chưa
bao giờ Phật giáo Việt Nam phải đối diện với những đe dọa và thách thức
trầm trọng như trong gần bốn mươi năm giữa thế kỷ thứ 20. Đó là giai
đoạn mà Phật giáo phải chịu tác động của 3 cuộc khủng hoảng lớn. Thứ nhất
là nội lực của Phật giáo bị suy kiệt sau gần 100 năm bị “nhiệm vụ khai
hoá” của thực dân Pháp gạt ra khỏi vai trò phên dậu văn hóa của dân tộc.
Thứ nhì là cùng đồng hành với dân tộc trong cao trào chống
ngoại xâm nên đã hy sinh gần cạn kiệt nguồn vốn trí tuệ, thân mạng và cơ
sở vật chất trên cả ba miền đất nước. Thứ ba là sau ngày đất
nước qua phân vào năm 1954, trong khi Phật giáo tại miền Bắc gần như
hoàn toàn tê liệt vì hậu quả của chiến cuộc thì tại miền Nam, trong nỗ
lực chập chững hồi sinh, Phật giáo lại phải đối mặt suốt gần một thập
niên với một chính sách đàn áp, tiêu diệt có hệ thống của chính quyền
Ngô Đình Diệm.
Chính quyền Ngô Đình Diệm với vị Tổng Giám mục “quyền huynh thế phụ”
đầy tham vọng đạo cũng như đời, thật ra chỉ là một công cụ để thừa kế và triển khai một
cách dai dẳng và không khoan nhượng, sách lược xâm thực văn hóa của chủ
nghĩa thần quyền ngoại bang, suốt gần 600 năm khắp nơi trên thế giới.
Phật giáo Việt Nam trở thành đối tượng bị nhắm đến đầu tiên, liên tục
và hung hản trong suốt 8 năm cai trị của chế độ Ngô Đình Diệm, một chế
độ mà nhiệm vụ chính trị của tập đoàn lãnh đạo đã làm cho họ không còn
chọn lựa nào khác, không còn cách hành động nào khác hơn là phải tiêu
diệt Phật giáo. Cho nên trong suốt 8 năm, Phật giáo đã bị kỳ thị, đàn
áp, khống chế, thậm chí bị tiêu diệt trong hầu hết mọi lãnh vực sinh
hoạt quần chúng cũng như công quyền tại miền Nam. Từ luật pháp đến chính
trị, từ giáo dục đến an ninh, từ kinh tế đến thương mãi, từ nông nghiệp
đến xã hội, từ quân đội đến hành chính … và đặc biệt trong lãnh vực tôn
giáo thì chính quyền dùng đủ mọi biện pháp để khống chế và tiêu diệt
đến tận cùng.
Trong bài viết này, tác giả phân tích các nguyên nhân dẫn đến phong
trào đấu trong bất bạo động của Phật giáo Việt Nam và đại nguyện tự
thiêu vì chánh pháp của Bồ-tát Thích Quảng Đức. Trên cơ sở này, phân
tích khái quát về ý nghĩa tự thiệu của Bồ-tát Thích Quảng Đức, để từ đó,
mỗi người tự rút ra cho mình các bài học nhập thế, phụng sự nhân sinh.
I. BỒ-TÁT QUẢNG ĐỨC TỰ THIÊU
Bồ-tát Thích Quảng Đức tên thật là Lâm Văn Tuất (林文戌),[1] còn gọi là
Nguyễn Văn Khiết (阮文㓗) sinh vào giờ tý, ngày Rằm tháng 9 Mậu Tuất
(29-10-1898) tại Khánh Hòa. Đứng trước cảnh chính quyền toàn trị Ngô
Đình Diệm gây nhiều bất công xã hội, tạo ra bất bình đẳng tôn giáo,
bách hại Phật tử, cấm treo cờ Phật giáo thế giới trong ngày đại lễ Phật
đản, Bồ-tát Thích Quảng Đức đã phát tâm đại bi, thiêu thân vì chánh pháp
vào lúc 11 giờ ngày 20 tháng 4 (nhuần) Mậu Ngọ (11-6-1963) tại ngã tư
Phan Đình Phùng và Lê Văn Duyệt.[2]
Một người theo Tin Lành giáo tại Hoa Kỳ, Mục sư Donald
Harrington đã tường thuật rất xúc động về bản chất và ý nghĩa của việc
Bồ-tát Quảng Đức tự thiêu, như ngọn lửa soi sáng lương tâm chính quyền
độc tài toàn trị Ngô Đình Diệm và những người chủ trương chiến tranh
thực dân mới ở miền Nam Việt Nam:
“Cách đây hơn hai tuần, vào ngày 11.6.63 Hòa thượng Thích Quảng
Đức đã ngồi thiền trên đường nhựa nóng. Trong tay Hòa thượng cầm một xâu
chuổi 54 hạt và bắt đầu niệm Phật. Trên chiếc áo cà sa của Hòa thượng
thì đã tẩm ướt đầy xăng. Tất cả Tăng Ni lùi lại, kính cẩn, kinh sợ.
Khách bộ hành nhận thấy một biến cố phi thường gì sắp xẩy ra nên tất cả
đều dừng lại chờ đợi.
Với vẻ yên lặng, bình thản trên khuôn mặt, Hòa thượng Quảng Đức
niệm lớn: “Nam Mô A Di đà Phật”. Thế rồi Người bật một que diêm và ngọn
lửa phừng phực bốc lên phủ kín thân thể nhưng Người không hề rên la hay
lay động. Người ngồi thẳng trong mười phút, thân hình chìm trong lửa đỏ,
và khi lửa tàn, Người nằm xuống bất động...
Người ta có thể tự hỏi sự khủng khiếp và niềm phẫn hận nào đã có
thể khiến cho một người của “Tình Thương” của “Hòa Bình”, quyết chí tự
thiêu?... Nếu sự tuyệt vọng hoàn toàn và chán đời cực độ đã đưa con
người trên đời nầy đến chỗ tự tử, thì một lý tưởng cao cả nhất và lòng
yêu đời nồng nàn nhất một đôi khi cũng đã sản xuất những người tử đạo
quả cảm nhất trong lịch sử... Hòa thượng Quảng Đức hy sinh đời mình bằng
cách tự thiêu để thức tỉnh lương tâm của Tổng thống Diệm và lưu ý cho
toàn thế giới..
Người đã chịu đựng sự đau đớn của tia lửa hồng đang đốt da thịt
nhưng không một lời kêu than. Người gởi mấy lời của Người cho Tổng thống
Diệm, và cho đến nay ông Diệm vẫn chưa chịu nghe hay chú ý. Nhưng dù
sao tiếng nói ấy vẫn là tiếng nói của tình thương, tiếng nói mà trong
thâm tâm của nó chứa đưng sự giải thoát của miền Nam Việt Nam. Người đã
để lại một bóng đen sĩ nhục lên sự huy hoàng mà Giáo hoàng Gioan đã mang
lại cho Giáo hội Thiên Chúa. Người đã làm và Người phải làm, cho mỗi
người Hoa Kỳ đi tìm linh hồn của Người và cho chính phủ Hoa Kỳ biết
rằng, trừ phi chính phủ Sài Gòn thực thi ngay quyền bình đẳng tôn giáo
cho Phật giáo đồ và tự do cho dân chúng Việt Nam, tất cả mọi viện trợ
của Hoa Kỳ đều phải chấm dứt ngay...
Ngọn lửa ấy có thể thành một tia hy vọng cho những người từ lâu
bị áp bức bởi người ngoại quốc hay bởi ngay chính đồng bào của họ...”[3]
Để thực hiện đại nguyện tự thiêu, bảo vệ chánh pháp, Bồ-tát Thích
Quảng Đức đã nhờ TT. Thích Đức Nhuận giúp đánh máy và đọc bản thảo Đơn xin tự thiêu ký ngày 27-5-1963. Đơn xin tự thiêu
của Bồ-tát Thích Quảng Đức khẳng định năm nguyện vọng Phật giáo và
phương pháp bất bạo động là tinh thần đấu tranh chân chánh của Phật giáo
Việt Nam như sau:
“Tôi tên là Nguyễn Văn Khiết, pháp danh là Thị Thủy, pháp tự là
Quảng Đức, tu sĩ Giáo Hội Tăng Già Việt Nam, mang thẻ căn cước số 399703
cấp tại Quận Tân Bình ngày 21 tháng 2 năm 1962, hiện tọa chủ chùa Long
Phước, xã Ninh Quang, Khánh Hòa, xác định rằng:
1) Năm nguyện vọng tối thiểu nghi trong Bản Tuyên Ngôn của Tăng,
Tín đồ Phật giáo là phản ảnh tinh thần chân chánh của Phật giáo Việt
Nam.
2) Nguyện luôn luôn son sắt bền chí với lý tưởng tranh đấu hợp tình, bất bạo động của Phật giáo đồ Việt Nam.
3) Triệt để tuân theo và ủng hộ các cấp lãnh đạo Phật giáo.
Và để minh định lập trường của chúng tôi, chúng tôi tự nguyện
thiêu đốt thân này nếu Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa không làm thỏa mãn
nguyện vọng ghi trong Bản Tuyên Ngôn là phản ảnh tha thiết mong cầu của
toàn thể Phật giáo đồ Việt Nam.
- Phật giáo Việt Nam bất diệt !
- Lá cờ Phật giáo không thể bị triệt hạ.
Và xin quý Thượng tọa chấp thuận chuyển tới toàn thể tín đồ lời
nguyện ước cuối cùng của tôi: Phật tử chúng ta hãy cùng nhau tự giác, tự
nguyện, bền chí với sứ mạng duy trì chánh pháp, bảo vệ lá cờ Phật giáo.”[4]
Mặc dù không được Giáo hội Tăng già Việt Nam chấp nhận,[5] Bồ-tát
Quảng Đức vẫn thầm lặng theo đuổi đại nguyện tự thiêu trên tinh thần vô
ngã, vị tha. Những ngày cuối đời tại Chùa Ấn Quang, Bồ-tát tham thiền
nhập định, đọc tụng Kinh Pháp Hoa, ôn lại tấm gương của Bồ-tát Dược Vương dùng hỏa quang tam-muội để đốt thân cúng dường chánh pháp.
Trong Lời nguyện Tâm quyết,[6] Bồ-tát Thích Quảng Đức thể hiện lòng từ bi đối với vận mạng của Phật giáo: "Tôi
là một tu sĩ mệnh danh là Trưởng tử của Như Lai không lẽ cứ ngồi điềm
nhiên tọa thị để cho Phật giáo tiêu vong." Hành động của Bồ-tát Quảng
Đức một mặt "nguyện thiêu thân giả tạm này cúng dường chư Phật” mặt khác
nhằm mục đích “hồi hướng công đức bảo tồn Phật giáo." Từ trong thâm
tâm, ngài mong cầu mọi việc tốt lành đến với tổng thống Ngô Đình Diệm,
“Cầu nguyện Phật Trời gia hộ cho Tống Thống Ngô Đình Diệm sáng suốt” và
mong ông “nên lấy lòng bác ái từ bi đối với quốc dân, và thi hành chánh
sách bình đẳng tôn giáo để giữ vững nước nhà muôn thuở”. Đối với quê
hương, dân tộc và đạo pháp, Bồ-tát Quảng Đức mong cầu: “ơn Phật gia hộ
cho Phật Giáo Việt Nam được trường tồn bất diệt; mong hồng ân đức Phật
gia hộ cho chư Đại Đức Tăng Ni, và Phật tử Việt Nam tránh khỏi tai nạn
khủng bố, bắt bớ, giam cầm của kẻ gian ác; và cuối cùng là cầu nguyện cho đất nước thanh bình, quốc dân an lạc.”
Thông thường “lửa” trong Phật giáo tượng trưng cho “tham ái” như trong kệ Pháp Cú 146: “Cười sao được, sướng vui sao nỗi/ Khi lửa tham (pajjalite)[7] cháy rụi thế gian/ Tối tăm giăng phủ trời đêm/ Sao không nỗ lực tìm đèn sáng soi?”[8]
Lửa rực đỏ từ thân Bồ-tát Thích Quảng Đức suốt 7 phút đã trở thành “lửa
từ bi” như nhà thơ Vũ Hoàng Chương[9] đã mô tả qua bài thơ bất hũ mang
cùng tên. Ngọn lửa từ bi của Bồ-tát Thích Quảng Đức có khả năng soi sáng
lương tâm như ngọn đuốc trí tuệ. Bằng ngọn lửa từ bi, trái tim từ bi
của Bồ-tát Thích Quảng Đức trở thành “xá lợi trái tim” đầu tiên và duy
nhất về thể loại này, bất diệt với thời gian, biểu tượng của tình thương
chiến thắng bạo tàn, trí tuệ chiến thắng gian ngụy.
II. NGUYÊN NHÂN CỦA TỰ THIÊU
Bản Tuyên ngôn do HT. Thích Tịnh Khiết, Hội chủ Tổng hội
Phật giáo Việt Nam ấn ký, gửi chính phủ ngày 10-5-1963 nêu rõ nguyên
nhân của cuộc đấu tranh bất bạo động của Phật giáo là đòi công bằng xã
hội và tôn giáo bình đẳng. Do đó, nguyên nhân tự thiêu của Bồ-tát Thích
Quảng Đức là vì chính sách hà khắc đàn áp Phật giáo của chính quyền, vi
phạm quyền tự do tín ngưỡng của người dân, tạo ra nhiều hành động bất
công đối với Phật giáo. Bản Tuyên ngôn viết như sau:
“Từ nhiều năm nay, Phật giáo đồ đã bị khủng bố đàn áp khắp nơi,
chúng tôi vẫn nhẫn nhục, đương nhiên không phải hèn yếu, mà vì ý thức
được hoàn cảnh dân tộc ta hiện tại. Nhưng đau đớn thay, một số đã lợi
dụng quyền hành gây ra không biết bao nhiêu tang tóc đối với Tăng và tín
đồ Phật giáo khắp trong nước, đối xử một cách bất công với một tôn giáo
có hàng nghìn năm lịch sử của dân tộc. Từ hành động này đến manh tâm
khác, thậm chí đã chà đạp lên quyền lợi thiêng liêng nhất của Phật giáo
đồ: Cờ Phật giáo quốc tế bị triệt hạ. Quyết định này đã trái với hiến
pháp và ngang nhiên vi phạm quyền tự do tín ngưỡng. Trước những hành
động bất công đó, Tăng và tín đồ khắp cả trong nước, chúng tôi bắt buộc
phải đứng dậy tranh đấu cho lý tưởng của mình.”[10] Có thể nói, ba
chính sách bất bình đẳng sau đây a) Độc tôn Thiên Chúa giáo, b) Đạo dụ
số 10 và c) Triệt hạ cờ Phật giáo, đã trở thành các nguyên nhân sâu xa,
dẫn đến cuộc đấu tranh bất bạo động của Phật giáo, châm ngòi cho sự sụp
đổ chế độ Ngô Đình Diệm.
1) Chính sách độc tôn Thiên Chúa giáo
Thể chế Việt Nam Cộng hòa Ngô Đình Diệm thực chất là chế độ gia đình
trị và Thiên Chúa giáo trị, bao gồm tổng thống Ngô Đình Diệm, Tổng giám
mục Ngô Đình Thục, cố vấn Ngô Đình Nhu và đệ nhất phu nhân Trần Lệ Xuân.
Thượng Nghị sĩ Mỹ Mansfield, người đã từng ủng hộ Ngô Đình Diệm, khẳng định rằng: "chế độ ông Diệm là một chế độ độc tài, gia đình trị, Công giáo trị".[11]
Trong nỗ lực đưa Thiên Chúa giáo trở thành tôn giáo độc tôn tại miền
Nam Việt Nam, chế độ gia đình trị này đã tuyên chiến và đàn áp Phật giáo
trong mùa Phật đản 1963. Đó là sai lầm lớn và cũng là nguyên nhân dẫn
đến sự suy vong của chế độ mấy tháng sau đó.
Đề cập đến chủ nghĩa độc tài Công giáo và chính sách đàn áp Phật giáo
một cách tàn nhẫn, Avro Manhattan đã nhận xét rất chính xác như sau:“Tổng
thống Ngô Đình Diệm của Nam Việt Nam là một người theo đạo Công giáo
cai trị Nam Việt Nam bằng một bàn tay sắt… Ông đã được hồng y Spellman
và giáo hoàng Pius XII trồng vào cái ghế tổng thống. Ông đã biến cải
ngôi vị tổng thống thành một nhà độc tài Công giáo, tàn nhẫn nghiền nát
những đối lập chính trị và tôn giáo.”[12]
Avro Manhattan còn cung cấp cho chúng ta những thông tin rùng rợn về
tội ác mà chính quyền Ngô Đình Diệm đã tạo ra trong năm 1955-1960: “Người
ta ghi nhận rằng, và những con số sau đây tuy không được chính quyền
chính thức khẳng định nhưng có thể coi là đáng tin cậy, là trong thời
gian kinh hoàng từ 1955 đến 1960, ít nhất là có 24000 người bị thương,
80000 bị hành quyết hay bị ám sát, 275000 người bị cầm tù, thẩm vấn hoặc
với tra tấn hoặc không, và khoảng 500000 bị đưa đi các trại tập trung.
Đây chỉ là những con số ước tính bảo thủ, khiêm nhường”.[13]
Ký giả người Úc Denis Warner cho rằng: “Trong nhiều năm, cái chế độ bạo ngược chuyên chế mà Tây phương đồng minh với ở Saigon (chế độ Ngô Đình Diệm) thì còn tệ hơn là cái chế độ mà Tây phương đang chiến đấu để chống (chế độ CS)”.
Diệm và gia đình ông ta đã giết hoặc lưu đày tất cả những thế đối lập.
“Diệm đã mất đi sự tin cậy và trung thành của dân chúng” như Bộ Trưởng McNamara đã nhận định ngày 26 tháng 3, 1964.”[14]
Trong tác phẩm nổi tiếng “Thập giá và lưỡi gươm”, linh mục
Trần Tam Tĩnh cho chúng ta biết trong giai đoạn 8 năm trị vì, chính
quyền Ngô Đình Diệm đã kìm hãm 90% người ngoài Công giáo trong chính phủ
Công giáo, trong khi tạo quyền thế bất công cho các cha xứ: “Từ năm
1955 đến năm 1963 là thời vàng son của chủ nghĩa cha chú, với những lợi
ích thật chẳng có bao nhiêu, nhưng với những hà lạm gây nhiều tiếng tăm
hơn, nhất là trong khi dân chusg gồm 90% là ngoài Công giáo mà bị kìm
hãm dưới một thứ chính “Chính phủ Công giáo.” Khắp nơi, ở thành phố cũng
như tại nông thôn chiếc áo chùng thâm là biểu tượng của quyền thế.”[15]
Để thực hiện chính sách bất bình đẳng xã hội và bất bình đẳng tôn
giáo, đưa vai trò Công giáo lên vị trí độc tôn tại miền Nam Việt Nam,
Ngô Đình Diệm đã lập ra đảng Cần lao – Nhân vị (gọi tắt là đảng Cần
Lao), chủ trương Chủ nghĩa duy linh – nhân vị. Mục đích của đảng Cần Lao
là chống cộng sản, chống Phật giáo và chống đảng phái quốc gia, đồng
thời, chủ trương vâng lời các cha, vâng lời Ngô Đình Cẩn và vâng lời Ngô
Đình Diệm.[16] Phương châm hoạt động của đảng Cần Lao là: “vì Chúa và
cho Giáo hội Công giáo.” Cương lĩnh của đảng Cần lao khích lệ các linh
mục và giáo dân: "đem hết thể xác và linh hồn cho đến hơi thở cuối
cùng để chống cộng sản vô thần, chống Phật giáo ma quỷ, chống các đảng
phái quốc gia".[17]
Về sự cai trị độc tài của Diệm dựa vào thuyết Nhân vị, Bernard Newman nhận xét như sau: “Bất kể hiến pháp viết như thế nào, Diệm cai trị như là một nhà độc tài.
Triết lý chính trị của ông ta dẫn xuất từ một nhóm Công giáo Pháp,
những người đã đặt ra thuyết Nhân Vị... Thuyết Nhân Vị như là “một pha
trộn lộn xộn của những sắc lệnh của giáo hoàng và kinh tế mẫu giáo, tổ
hợp với một sự nghi ngờ những tư nhân thương gia, một sự e ngại đầu tư
ngoại quốc, và một quan niệm là không thể thành đạt được gì nhiều ở Việt
Nam nếu không có sự kiểm soát của chính phủ.”[18]
Nhằm đề cao Công giáo, chính quyền Ngô Đình Diệm “đã tổ chức lớp
học về duy linh rồi lợi dụng lớp học ấy mà xuyên tạc đạo Phật của chúng
tôi, dọa nạt và bắt hội viên của chúng tôi phải ký đơn qua Thiên Chúa
giáo, nếu không sẽ đi học tập dài hạn tại quận và tỉnh".[19] Ngoài
ra, chính quyền họ Ngô cùng dùng chính sách cưỡng bức cải đạo, bắn giết
Phật tử và ban hành nhiều điều luật không giống ai: “Đối với gân
lương từ năm 1954 đến năm 1963, chế độ Ngô Đình Diệm đã giết chết, bắt
giam, tra tấn Phật giáo đồ; dụ dỗ cải đạo, cấm Phật tử đi lễ chùa.”[20]
Theo tướng Trần Văn Đôn, người trực tiếp tham gia đảo chính Ngô Đình
Diệm ngày 1-11-1963, Chính sách di cư vào Nam, thực chất, chỉ là chiêu
bài đưa người Thiên chúa giáo vào miền Nam để xây dựng nước Chúa. Trong
số 887.895 người di cư vào Nam sau năm 1954 đã có đến 754.710 người là
tín đồ Thiên Chúa giáo, chiếm 85%. Các chức vụ chủ chốt của chính quyền
họ Ngô đều nằm trong tay Thiên Chúa giáo.[21]
Chính sách toàn trị và Công giáo trị của Diệm là một chủ nghĩa phát-xít mới tại Việt Nam: "Diệm
muốn thống nhất cả nước thành một khối Công giáo và chuyển các tôn giáo
và đảng phái sang Công giáo. Công giáo ở Việt Nam là chủ nghĩa tư bản.
Giáo hội là đại diện của chính phủ. Nếu anh muốn giàu sang, nếu anh muốn
trở thành sĩ quan, anh phải là Công giáo".[22] Chính vì chủ trương
này mà Phật giáo đã nghiễm nhiên trở thành đối tượng bị khủng bố và áp
bức của chính quyền Ngô Đình Diệm.
2) Bất bình đẳng tôn giáo trong Đạo dụ số 10
Về phương diện văn bản luật, Đạo dụ số 10 được xem là nguồn
gốc của bất bình đẳng tôn giáo, mà chính quyền Ngô Đình Diệm muốn sử
dụng như một đặc ân dành cho Thiên Chúa giáo và như một gông cùm đối với
Phật giáo và các tôn giáo khác. Chính sách thiên vị Thiên Chúa giáo đã
có từ thời Pháp thuộc và thời quốc trưởng Bảo Đại, được Việt Nam Cộng
hòa tiếp tục áp dụng có mục đích đàn áp Phật giáo, đề cao Thiên Chúa
giáo.
Đạo dụ số 10 do quốc trưởng Bảo Đại ban hành năm 1950, quy
định về các tổ chức hội đoàn bao gồm tôn giáo, ngoại trừ Thiên Chúa
giáo. Trên nguyên tắc, khi chế độ quốc trưởng Bảo Đại đã bị thay thế
bằng chính thể Việt Nam Cộng hòa, thì Đạo dụ số 10 không còn hiệu lực
pháp lý. Ấy thế mà, từ năm 1954 đến 1963, chính phủ Ngô Đình Diệm dựa
vào Đạo dụ số 10, ra tay đàn áp Phật giáo và nỗ lực loại trừ Phật giáo
ra khỏi bản đồ văn hóa tôn giáo Việt Nam, nhằm từng bước biến Thiên Chúa
giáo thành quốc giáo của Việt Nam.
Điều 7 của Đạo dụ số 10 quy định rằng các hội đoàn bao gồm “tôn giáo, chính trị, từ thiện, khoa học, văn học, mỹ nghệ, tiêu khiển, thanh niên, thể thao và đồng nghiệp ái hữu” có thể bị “bác khước không cho phép lập hội mà không cần phải nói rõ lý do.” Đối với các hội đoàn đã cho phép thành lập rồi vẫn có thể bị “bãi đi vì trái điều lệ hay vì lẽ trị an.”[23]
Theo điều quy định này, các hội đoàn trong đó có các hội Phật giáo Việt
Nam có thể bị bãi miễn bất cứ lúc nào, mà không cần trưng dẫn lý do.
Hoặc khi cần trưng dẫn lý do, thì chính quyền có thể viện cớ “vì lẽ trị an”,[24]
một khái niệm luật rất mơ hồ, không thể thực thi được công bằng xã hội
và tôn giáo, mà trên thực tế đã phá vỡ công bằng xã hội và bình đẳng tôn
giáo. Đây là điều mà theo lãnh đạo Phật giáo Việt Nam “Đạo dụ số 10 triệt hạ hết thảy giá trị tôn giáo.”[25]
Có lẽ, do vin vào chính sách “vì lẽ trị an” mà chính quyền Ngô Đình
Diệm có cớ triệt hạ cờ Phật giáo thế giới vào mùa Phật đản 1963, biểu
tượng tâm linh của Phật giáo toàn cầu, nhằm chứng minh Thiên Chúa giáo
là “Công giáo” ở Việt Nam, mà trên thực tế chỉ là một tôn giáo thiểu số.
Điều 44 của Đạo dụ số 10 quy định về một “chế độ đặc biệt cho các hội truyền giáo Thiên chúa và Gia-tô”. Sự thiên vị được đặt trên “căn bản pháp lý của thực dân pháp.”[26]
Theo lãnh đạo Phật giáo Việt Nam năm 1963, các điều 10 và điều 12 đã
làm cho các tôn giáo ngoài Thiên Chúa giáo và Gia-tô giáo “bị kiểm soát một cách cực kỳ nghiêm khắc, bởi bất cứ nhân viên nào của Hành chính và Tư pháp.”[27]
Việc duy trì và áp dụng Đạo dụ số 10 đã tạo tình trạng thiên vị Thiên
Chúa giáo và Gia-tô giáo, đang khi đàn áp Phật giáo, khủng bố Tăng Ni,
bắt bớ tín đồ, gây bất ổn tôn giáo, chính trị và xã hội tại miền Nam
Việt Nam.
3) Cấm treo cờ Phật giáo thế giới vào dịp Đại lễ Phật đản 1963.
Từ chủ trương “chống cộng sản vô thần, chống Phật giáo ma quỷ, chống các đảng phái quốc gia” và dựa vào tinh thần thiên vị Công giáo của Đạo dụ số 10,
chính sách của Ngô Đình Diệm thẳng tay đàn áp Phật giáo, mà khởi đầu
chính là Công điện 9195 của Phủ Tổng thống Ngô Đình Diệm ngày 6-5-1963,
cấm treo cờ Phật giáo trong đại lễ Phật đản 1963. Theo TT. Trí Quang,
người lãnh đạo phong trào Phật giáo 1963, vụ triệt hạ cờ Phật giáo: “chỉ như là một giọt nước cũng thừa sức làm chảy tràn ra một bát nước vốn đã quá đầy”.[28]
Để cứu nguy Phật giáo khỏi nạn diệt vong, vào ngày 25-5-1963, Ban Trị
sự TƯ Tổng hội Phật giáo Việt Nam triệu tập 11 giáo phái và hội đoàn
Phật giáo, thành lập ra Uỷ ban liên phái bảo vệ Phật giáo, do TT. Tâm
Châu làm chủ tịch, dưới sự chứng minh tối cao của HT. Thích Tịnh Khiết.
Ủy ban liên phái bảo vệ Phật giáo đã gửi 3 công điện. Công điện thứ
nhất gởi cộng đồng Phật giáo thế giới, lúc 2 giờ sáng 7-5-1963, kêu gọi
can thiệp chính phủ Việt Nam Cộng hòa, trong đó có đoạn kêu gọi không
nên triệt hạ lá cờ Phật giáo: “Cờ Phật giáo bị không cho treo tại
các tự viện Phật giáo ngay trong ngày Đại lễ Phật đản quốc tế, yêu cầu
can thiệp với chính phủ Việt Nam Cộng hòa”.
Công điện thứ hai gởi và yêu cầu Ngô Đình Diệm thu hồi công điện 9195 một cách khéo léo: “Chúng
tôi không tin rằng quyết định đó xuất phát từ Tổng thống. Thỉnh cầu
Tổng thống ra lệnh điều tra và thu hồi công điện nói trên. Trân trọng”.
Công điện thứ ba gởi các hội đoàn Phật giáo Việt Nam, kêu gọi các sơ
môn pháp phái Phật giáo sẵn sàng thống nhất hành động vì đại cuộc dân
tộc và Phật giáo: “Cờ Phật giáo bị triệt hạ bởi Công điện số 9159.
Đã điện cho Phật giáo thế giới can thiệp và đã điện cho Tổng thống thỉnh
cầu đình chỉ. Nhưng các tập đoàn Phật giáo vẫn thông báo cho các đơn vị
và chờ chỉ thị”.
Bất chấp các nỗ lực của Phật giáo Việt Nam, Chính quyền Ngô Đình Diệm
vẫn ngang nhiên triệt hạ cờ Phật giáo thế giới, nguyên nhân dẫn đến
cuộc biểu tình ở toàn Thừa Thiên chiều ngày 7-5-1963. Cuộc thảm sát của
chính quyền Ngô Đình Diệm tại đài Phát thanh Huế vào ngày 8-5-1963 làm 8
Phật tử[29] (gồm 7 trẻ em và 1 người lớn) chết trong thương tâm, đã “đổ
dầu vào lửa” phong trào đấu tranh bất bạo động của Phật giáo, góp phần
dẫn đến sự sụp đổ chế độ độc tài kỳ thị tôn giáo Ngô Đình Diệm vào ngày
1-11-1963.
Các phương tiện truyền thông của chính quyền Ngô Đình Diệm vu cáo vụ
thảm sát đó là do “Việt Cộng ném lựu đạn”[30] nhưng trên thực tế là do
binh sĩ và xe tăng của thiếu tá Mathew Đặng Sĩ[31] nổ súng, dưới sự ra
lệnh của Tổng giám mục Ngô Đình Thục.[32] Lời bào chửa khéo léo của Đặng
Sĩ vào năm 1964 đã không thể giúp ông thoát khỏi việc bị tuyên án tử
hình, do phạm các tội danh “bắn vào đám đông không vũ trang, dùng xe bọc
thép cán người biểu tình, và sử dụng chất nổ nguy hiểm để kiểm soát đám
đông”.[33]
Những sự kiện nêu trên đã dẫn đến cuộc tàn sát đẫm máu, khủng bố
Tăng, Tín đồ Phật giáo, tạo ra pháp nạn Phật giáo 1963. Đây là nguyên
nhân trực tiếp dẫn đến sự sụp đổ của đệ nhất Việt Nam Cộng Hòa.
III. Ý NGHĨA TỰ THIÊU CỦA BỒ-TÁT
Dựa vào nội dung của Đơn xin tự thiêu, 2 tờ di chúc của Bồ-tát Thích Quảng Đức, Bản Tuyên ngôn của Tăng, Tín đồ Phật giáo Việt Nam[34] (về sau viết tắt là Bản Tuyên ngôn) và Bản Phụ đính về bản Tuyên ngôn của Phật giáo Việt Nam (về sau viết tắt là Bản Phụ đính),[35]
chúng ta có thể khẳng định rằng ý nghĩa tự thiêu của Bồ-tát Thích Quảng
Đức cũng như phong trào đấu tranh bất bạo động của Phật giáo Việt Nam
là không nhằm mục đính lật đổ hay đảo chính Chính phủ, đưa người Phật
giáo lên thay thế chính phủ, mà chỉ nhằm thay đổi chính sách bất công
tôn giáo của chính quyền Ngô Đình Diệm, theo đó, bình đẳng tôn giáo được
thực hiện trong khuôn khổ và lý tưởng công bằng xã hội. Trên tinh thần
này, tôi phân tích vài ý nghĩa từ việc tự thiêu của Bồ-tát Quảng Đức như
sau:
1. Xây dựng một xã hội công bằng cho miền Nam Việt Nam
Về bản chất, phong trào đấu tranh bất bạo động của Phật giáo Việt Nam
năm 1963 không phải là cuộc đấu tranh chính trị, theo kiểu của một đảng
phái chống lại và loại trừ một đảng phái khác. Trong chính thể đệ nhất
Việt Nam Cộng hòa không có đảng phái nào là của Phật giáo, hay đấu tranh
vì quyền lợi Phật giáo. Giới luật Phật giáo bao gồm giới Tỳ-khưu/
Tỳ-khưu-ni và Giới Bồ-tát không cho phép và không khích lệ các tu sĩ
Phật giáo tham gia các đảng phái chính trị.
Chính quyền Ngô Đình Diệm rất khéo léo, ngoài việc dùng vũ lực chấn
áp phong trào dân sự dùng bất bạo động làm sức mạnh, còn xuyên tạc phong
trào Phật giáo do Việt cộng giật dây. Khi vu cáo phong trào bất bạo
động của Phật giáo với hoạt động chính trị của Việt cộng, có khuynh
hướng giải quyết các mâu thuẫn chính trị ở miền Nam Việt Nam, chính
quyền Ngô Đình Diệm mong muốn làm tê liệt phong trào dân tộc và chính
nghĩa của Phật giáo. Chính sách truyền thông của chính quyền Ngô Đình
Diệm đã thất bại, vì đã vu cáo những điều không có sự thật, mà theo Phật
giáo “chân thật bất hư” (真實不虛).[36]
Bản Tuyên ngôn của Tăng, tín đồ Phật giáo Việt Nam được gửi
đến chính quyền Ngô Đình Diệm là nhằm chấm dứt tình trạng “máu đã chảy,
nhân mạng đã bị hy sinh, cảnh khủng bố, đàn áp bất nhân, bất công xã
hội, bất bình đẳng tôn giáo và vi phạm quyền tự do tín ngưỡng của nhân
dân.” Lãnh đạo Phật giáo Việt Nam yêu cầu chính phủ thực thi 05 nguyện
vọng sau đây:
1. Yêu cầu chỉnh phủ Việt Nam Cộng hòa thu hồi vĩnh viễn công điện triệt giáo kỳ của Phật giáo.
2. Yêu cầu Phật giáo phải được hưởng một chế độ đặc biệt như các Hội truyền giáo Thiên Chúa đã được ghi trong đạo dụ số 10.
3. Yêu cầu chính phủ chấm dứt tình trạng bắt bớ, khủng bố tín đồ Phật giáo.
4. Yêu cầu cho Tăng, tín đồ Phật giáo được tự do truyền đạo và hành đạo.
5. Yêu cầu chính phủ đền bồi một cách xứng đáng cho những kẻ bị giết
oan vô tội và kẻ chủ mưu giết hại phải đền bồi đúng mức.[37]
Năm yêu cầu trên còn được gọi là năm nguyện vọng hòa bình của Phật
giáo gồm ba phương diện sau đây. Về công bằng xã hội, chính phủ không
được khủng bố và bắt bớ tín đồ Phật giáo (yêu cầu 3), phải bồi thường
những kẻ bị giết oan vô tội và trừng phạt kẻ chủ mưu giết hại (điều 5).
Về bình đẳng tôn giáo, chính phủ phải cho phép Tăng, tín đồ Phật giáo
được tự do hành đạo và truyền đạo (điều 4) và được hưởng quyền bình đẳng
tôn giáo như Thiên Chúa giáo (điều 2). Về nguyên nhân đàn áp Phật giáo,
yêu cầu chính phủ thu hồi công điện triệt hạ cờ Phật giáo thế giới. Cả
năm nguyện vọng nêu trên đều nhắm đến việc xây dựng một xã hội trong đó,
công bằng xã hội và bình đẳng tôn giáo được tôn trọng. Để đạt được mục
đích công bằng xã hội, Tăng, tín đồ Phật giáo quyết tâm “sẵn sàng hy sinh cho đến lúc nào những nguyện vọng hợp lý trên được thực hiện.”[38]
Bản Phụ đính ngày 23-5-1963 khẳng định rõ lập trường đấu
tranh của Phật giáo là thuần túy cho công bằng xã hội, không đượm màu
chính trị, thể hiện nghĩa vụ công dân, đóng góp vào lịch ích quốc gia: “Đối
với chính phủ, chúng tôi không chủ trương lật đổ, chúng tôi chỉ có
nguyện vọng “cải thiện chính sách... Chúng tôi không nhằm mục đích tranh
thủ quyền hành. Nói thế, có nghĩa chúng tôi đã và mãi mãi tranh đấu cho
Phật giáo thuần túy, nhưng không phải vì vậy mà Phật giáo đồ không quan
tâm đóng góp vào ích lợi quốc gia theo nghĩa vụ công dân của mình.”[39]
Để tránh tình trạng bị quy chụp vô căn cứ, xuyên tạc, vu khống từ
chính phủ, cũng như những phần tử lợi dụng phong trào đấu tranh bất bạo
động của Phật giáo để làm loạn, lãnh đạo Phật giáo tuyên bố: “Không chấp nhận mọi sự lợi dụng.”[40] Nội dung của điều này được Bản Phụ đính giải thích rõ như sau: “Mục
tiêu tranh đấu của Phật giáo đồ chỉ nhằm vào lý tưởng tôn giáo bình
đẳng trong khuôn khổ lý tưởng công bình xã hội; vì lẽ đó, chúng tôi từ
chối mọi sự lợi dụng không phù hợp với tôn chỉ chúng tôi, nhất là những
kẻ mưu toan chức vị chính quyền.”[41]
Nói cách khác, phong trào đấu tranh bất bạo động của Phật giáo Việt
Nam năm 1963 là một phong trào độc lập, thuần túy tôn giáo, không mang
màu sắc chính trị, không ủng hộ hay chống đối một chính thể nào, không
làm bình phông và không tạo nguyên nhân cho cuộc đảo chính diễn ra sau
đó vài tháng, mà chỉ nhằm thay đổi chính sách sai lầm của chính phủ Ngô
Đình Diệm, hầu góp phần mang lại công bằng xã hội và bình đẳng tôn giáo
tại miền Nam Việt Nam.
2. Xây dựng một xã hội “bình đẳng Tôn giáo”
Ngoài mục đích thiết lập công bằng xã hội vốn rất cần thiết cho bối
cảnh tôn giáo và chính trị tại miền Nam Việt Nam lúc bấy giờ, phong trào
đấu tranh bất bạo động của Phật giáo Việt Nam còn nhắm đến việc thiết
lập một xã hội, trong đó “bình đẳng tôn giáo” được tôn trọng ở mức độ
cao nhất. Theo lãnh đạo Phật giáo lúc bấy giờ, chỉ khi nào công bằng xã
hội được thiết lập thì bình đẳng tôn giáo mới được thực thi đúng nghĩa.
Nói cách khác, bình đẳng tôn giáo là mục đích thiêng liêng của chủ
thuyết công bằng xã hội: “Tôn giáo bình đẳng là một điểm nổi bật nhất, thiêng liêng nhất trong lý tưởng công bình xã hội.”[42]
Để tránh tình trạng bị lý giải, quy chụp sai lầm, lãnh đạo Phật giáo khẳng định “Chỉ tranh đấu cho lý tưởng “Tôn giáo bình đẳng”.[43]
Tôn giáo bình đẳng theo lãnh đạo Phật giáo là các tôn giáo có tư cách
tôn giáo như nhau về mặt luật pháp và được luật pháp tôn trọng. Chỉ với
cách ứng xử này, chính phủ có thể giúp cho các tôn giáo tỏa sáng các giá
trị nhân bản trong phục vụ đất nước và con người. Bản Phụ đính ghi rõ: “Các
tôn giáo được xác định sẽ cùng hưởng một chế độ “bình đẳng”, có nghĩa
cùng được quan niệm là có tư cách tôn giáo như nhau. Nhưng bình đẳng là
“bình trong đồng đẳng” vì lẽ đó, giá trị các tôn giáo vẫn khác nhau.”[44]
Không chấp nhận tình trạng dùng danh từ “Công giáo” (một tôn giáo
thiểu số tại Việt Nam) gọi cho đạo Thiên Chúa, không chấp nhận chế độ
đặc biệt mà chính phủ dành cho Thiên Chúa giáo, đòi hỏi một chính sách
thực sự bình đẳng, lãnh đạo Phật giáo Việt Nam mong mỏi miền Nam Việt
Nam không còn chia rẽ tôn giáo, do chính sách toàn trị Ngô Đình Diệm gây
ra. Bản Phụ đính cho thấy sự thiên vị của Đạo dụ số 10 là nguy cơ chia rẽ tôn giáo một cách trầm trọng: “Với
quan niệm tôn giáo bình đẳng như vậy, đối chiếu với tình trạng hiện
hữu, chúng tôi bất mãn sự thiên vị của Đạo dụ số 10. Đó là nguy cơ cho
quốc gia và làm chia rẽ tôn giáo. Vì lẽ đó, Phật giáo đồ chúng tôi đã
phải công khai bày tỏ rõ rệt nguyện vọng của mình. Và như thế, không
những lý, mà phạm vi chúng tôi tranh đấu cũng đã được ấn định rõ ràng:
Với danh nghĩa Phật giáo, chúng tôi đang làm một việc tranh đấu cho lý
tưởng “Tôn giáo bình đẳng trong khuôn khổ của lý tưởng công bình xã hội.”[45]
Đang khi nỗ lực thiết lập bình đẳng tôn giáo tại miền Nam Việt Nam,
lập trường của lãnh đạo Phật giáo Việt Nam là không xem Thiên Chúa giáo
và Gia-tô giáo là kẻ thù của dân tộc hay của Phật giáo. Quan điểm chấp
nhận sự đa dạng tôn giáo này là thống nhất, được ghi rõ trong Ban Phụ đính như sau: “Chúng
tôi tuyên bố không coi ai là kẻ thù, nhất là đối với đạo Thiên Chúa. Lẽ
thứ nhất, dầu từ ngày đạo dụ số 10 ra đời cho đến bây giờ, sự thiên vị
đạo Thiên Chúa đã công khai, nhưng chúng tôi tranh đấu là tranh đấu cho
lý tưởng công bình, chứ không phải tranh đấu với tư cách một tôn giáo
chồng lên một tôn giáo.”[46] Theo tuyên bố này, mục đích chính của
phong trào đấu tranh Phật giáo là góp phần xây dựng một thế giới không
chỉ có công bằng xã hội, mà còn có bình đẳng và tự do tôn giáo vì lãnh
đạo Phật giáo nhận thức rất rõ: “nếu cho tôn giáo của mình có giá trị tuyệt đối và chỉ có tôn giáo của mình mới đáng tồn tại thì đây là quan niệm sai lầm nhất.”[47]
3. Góp phần làm thay đổi diện mạo chính trị miền Nam Việt Nam
Phần lớn các cuộc đấu tranh vì mục đích chính trị đều sử dụng đến vũ
khí như một phương tiện, hoặc có trường hợp đặc biệt, sử dụng “bất bạo
động”[48] (Sanskrit: ahiṃsā, Pāli: avihiṃsā) như một
lợi thế, chẳng hạn như cuộc chiến dành độc lập của Ấn Độ đối với đế chế
Anh, do Gandhi lãnh đạo. Phong trào đấu tranh bất bạo động của Phật giáo
Việt Nam 1963 là cuộc chiến đấu không ngang sức của một bên tay không
(không vũ khí), không có xu hướng bạo lực với một bên là chính thể cầm
quyền, dùng vũ khí, xe thiết giáp, quân đội khủng bố, đàn áp tàn nhẫn,
dã man.
Về nội dung, cuộc chiến bất bạo động của Phật giáo 1963 chịu ảnh
hưởng tinh thần của Gandhi và sâu xa từ học thuyết từ bi và vô não của
đức Phật. Nguồn gốc của sự ảnh hưởng được nêu rõ trong Bản Phụ đính như sau: “Chúng
tôi, hơn thế nữa, phải thực hiện tư tưởng Phật giáo ngay trong cuộc đấu
tranh của chúng tôi… Ngay bây giờ, chúng tôi có thể tuyên bố một cách
minh bạch rằng người tăng sĩ Phật giáo là người sẵn sàng noi gương
Gandhi, vị Thánh của sức mạnh bất bạo động... Nhưng tinh thần và phương
pháp bất bạo động không phải chỉ có thế, nên chúng tôi sẵn sàng hy sinh
đến cùng theo phương pháp này.”[49]
Nếu sức mạnh bất bạo động của Gandhi nằm ở chính sách “bất hợp tác” (Non-cooperation movement)[50]
thì sức mạnh của bất bạo động của Phật giáo Việt Nam là thiền định,
niệm Phật và các khẩu hiệu từ bi, ôn hòa, thể hiện yêu sách bình đẳng
như: “Phật giáo nhất trí bảo vệ Chánh pháp dù phải hy sinh”, “Phật giáo
đồ ủng hộ chính sách tôn giáo bình đẳng,” “Yêu cầu chính phủ thi hành
chính sách tôn giáo bình đẳng,” “Chúng tôi đã đến lúc bị bắt buộc tranh
đấu cho chủ trương tôn giáo bình đẳng.” Khi phong trào đấu tranh trở
thành cao trào, các khẩu hiệu trở nên quyết liệt, hùng dũng, sẵn sàng bỏ
thân mạng vì chính pháp như: “Chúng tôi không từ chối một hy sinh nào,”
"Phản đối chính sách bất công gian ác", "Đả đảo hành động sát nhân, vu
khống", “Máu đã chảy,” "Hãy giết chúng tôi đi", “Phật giáo bất
diệt” v.v... đã trở thành những sức mạnh vô úy, chống lại xe tăng, binh
lính đầy bạo lực và đằng đằng sát khí của chính quyền Ngô Đình Diệm.
Thản nhiên và bất động trong lửa đỏ 7 phút, sự tự thiêu của Bồ-tát
Quảng Đức đã làm rúng động toàn cầu. Tổng thống Mỹ, John Kennedy phải
thốt lên lời kinh ngạc: “Trong lịch sử, chưa có một bức hình nào trên báo đã tạo được nhiều xúc động cùng khắp cả thế giới như bức hình nầy”.[51] Ký
giả Malcolm W. Browne, người đã chụp hình tự thiêu của Bồ-tát Thích
Quảng Đức đã tự sự về tác động của bức ảnh tại Hoa Kỳ như sau: “Những bức hình mà tôi chụp về cuộc tự thiêu của HT. Quảng Đức ... được thành phần diều hâu bày bán khắp cùng ngõ hẻm... Trên New York Times và báo Washington Post có hàng chữ: “Chúng tôi cũng phản đối: We, too, protest”.[52]
Noi gương từ bi và vô úy của Bồ-tát Thích Quảng Đức, có thêm sáu tu
sĩ[53] đã tự thiêu và 12 Phật tử[54] đã bỏ thân vì Phật pháp. Từ vài
trăm nhà sư biểu tình trước Trụ sở Quốc Hội vào ngày 30-5-1963 cho đến
30.000 người tuyệt thực tại Chùa Xá Lợi vào ngày 18-8-1963, phong trào
đấu tranh bất bạo động đã lớn mạnh như một cơn lốc ngoại giao, buộc Bộ
Ngoại giao Mỹ vào ngày 22-8-1963 phải lên án chính sách đàn áp Phật giáo
của chính quyền Ngô Đình Diệm. Như giọt nước làm tràn ly, vào ngày
1-11-1963, chính quyền Ngô Đình Diệm đã bị đảo chính, kết thúc triều đại
toàn trị, Thiên chúa giáo trị tại miền Nam Việt Nam.
Dựa vào chủ trương của đức Phật “lấy từ bi xóa hận thù”,[55] đạo Phật
không xem Thiên Chúa giáo, gia đình Ngô Đình Diệm và những người trực
tiếp thực hiện “Chiến dịch nước Lũ”[56] là kẻ thù. Mặt khác, mặc dù về
bản chất, phong trào đấu tranh của Phật giáo Việt Nam không chủ trương
lật đổ chế độ, do đó, độc lập với các đảng phái chính trị tại hai miền
Nam Bắc Việt Nam, nhưng các tác động duyên khởi theo công thức “cái
này có tạo điều kiện cho cái kia có, cái này không tạo tiền đề cho cái
kia không; cái này sinh làm nhân cho cái kia sanh, cái này diệt dẫn đến
sự hoại diệt của cái khác”[57] như quy luật muôn đời, góp phần đưa đến sự cáo chung của chế độ Ngô Đình Diệm, là chân lý mà ta không thể phủ định được.
Tại miền Nam, nếu cộng đồng Phật giáo và toàn thể mọi người ăn mừng
khi thoát khỏi ách cai trị độc tài toàn trị của họ Ngô thì phía bên kia
chiến tuyến ở miền Bắc, như có thêm nghị lực thực hiện cuộc chiến tranh
cách mạng theo một cao độ mới: “Sụp đổ của Diệm, chiến tranh cách mạng đã phát triển lên một bước mới”.[58] Theo đó, phong trào giải phóng dân tộc chống lại đế quốc ngày càng thành công, như báo cáo của Lầu Năm Góc đã ghi nhận: “Trong
vòng ba tháng sau đảo chính, Việt Cộng nổi dậy khắp nơi. Tỉnh Kiến Hòa
phải rút đi 51 đồn bót, mất 15 xã,... Trong số 4.248 ấp chiến lược ở
miền Nam thì có 3.915 ấp bị phá hẳn. Trong phúc trình gửi Tổng thống
Johnson ngày 16-3-1964, Mc. Namara đưa ra một bức tranh bi thảm, hậu quả
của cuộc đảo chính lật đổ chế độ Ngô Đình Diệm: Trong số đất đai của 22
tỉnh (trong 44 tỉnh), Việt Cộng kiểm soát tới 50% hoặc nhiều hơn thế.
Phước Tuy, Việt Cộng kiểm soát 80%; Bình Dương 90%; Hậu Nghĩa 90%; Long
An 90%; Định Tường 90%; Kiến Hòa 90%; An Xuyên (Cà Mau) 85%. Quận Mỏ Cày
và các xã Định Thủy, Bình Khánh, Phước Khánh, Phước Hiệp, “đỏ 100%”...".[59]
Điều này cho thấy, các phong trào dân tộc và yêu nước ở miền Nam nhân
cơ hội này thừa thắng xông lên, phát triển mạnh mẽ. Vì cuộc đấu tranh
của Phật giáo là độc lập, việc tự thiêu của Bồ-tát Thích Quảng Đức không
thể được xem là một phần của phong trào dân tộc đang lớn mạnh tại miền
Nam. Sự giống nhau về tinh thần yêu nước được đức Phật giảng dạy với
tinh thần dân tộc của các phong trào Giải phóng miền Nam Việt Nam đã làm
cho phong trào bất bạo động của Phật giáo và các phong trào yêu nước
trở nên gần nhau, tương tác đa chiều, góp phần làm tan rã chính sách ủng
hộ chính quyền Ngô Đình Diệm, và do đó, sự can thiệp của Mỹ ở Việt Nam
phải đến hồi kết thúc. Là một thành phần yêu nước của dân tộc, phong
trào đấu tranh của Phật giáo đã trực tiếp tạo ra duyên cớ đảo chính vào
ngày 1-11-1963. Điều này, dù muốn dù không, đã gián tiếp góp phần làm
thay đổi cục diện chính trị của đệ nhất Việt Nam Cộng Hòa và rộng hơn ở
toàn miền Nam Việt Nam.
Tác động tích cực từ việc tự thiêu của Bồ-tát Thích Quảng Đức và các
thánh tử đạo là rất lớn và ngoài sức tưởng tượng. Mười hai năm sau, chủ
nghĩa thực dân mới của Mỹ tại miền Nam Việt Nam kết thúc vào năm 1975.
Hai miền Nam Bắc được thống nhất.
Vào năm 1981, Phật giáo ba miền được thống nhất. Tinh thần nhập thế
và đồng hành với dân tộc được tái khẳng định như là chủ trương của
GHPGVN. Những nhiệm vụ mới trong bối cảnh mới được đặt ra cho GHPGVN.
Phương pháp tiếp biến văn hóa, vận dụng lời Phật dạy vào trong cuộc sống
sẽ giúp Phật giáo trở thành sự lựa chọn tâm linh của quảng đại quần
chúng nhân dân.
Ôn lại 50 năm lịch sử của phong trào đấu tranh bất bạo động Phật giáo
để rút ra những bài học về dấn thân, phụng sự nhân sinh trên tinh thần
vô ngã, vô úy, từ bi, trí tuệ và vị tha. Đây là con đường phụng sự chúng
sinh được đức Phật chỉ dạy, mà tất cả đệ tử Phật cần noi theo.
Mùa Phật đản 2637 (PL.2557, DL.2013)
TT.TS. Thích Nhật Từ
Phó Viện trưởng Học viện PGVN tại TP.HCM
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
- Cao Thế Dung. Việt Nam ba mươi năm máu lửa – Cuộc chiến tranh tàn sát thương binh lần thứ nhất 1945-1963. Nxb Alpha, Falls Church, VA, USA, 1991.
- Chu Bằng Lĩnh. Đảng Cần Lao. Nxb. Mẹ Việt Nam, San Diego, CA, USA, 1993.
- Lê Cung. Phong trào Phật giáo miền Nam Việt Nam năm 1963. NXB. ĐHQG Hà Nội, 1999.
- Lê Duẩn. Thư vào Nam. Nxb Sự Thật, Hà Nội, 1985, tr.248.
- Lê Mạnh Thát (chủ biên). Bồ-tát Thích Quảng Đức – Ngọn lửa và Trái tim. NXB. Tổng hợp TP.HCM, 2005.
- Phú Tiên Nguyễn Duy Tinh. Lửa thiêng nhiệm mầu. Sài Gòn, 1963. GHPGVN TP.HCM tái bản 2013.
- Quốc Tuệ (biên tập). Phật Giáo Việt Nam 1963. Saigon, 1964.
- Thích Hải Ấn và Hà Xuân Liêm. Lịch sử Phật giáo xứ Huế. NXB TP.HCM, 2001.
- Trần Tam Tĩnh. Thập giá và lưỡi gươm. NXB Trẻ, 1988.
Tiếng Anh
- Avro Manhattan. Vietnam: Why Did We Go? CA: Chick Publications, 1984.
- Bernard Newman. Background to Vietnam. Signet Books, New York 1965.
- Bruce D. Berkowitz. The New Face of War, Revised Edition, The Bobbs-Merrill Company, Inc. Indianapolis-New York,1968.
- Fitzgerald Francess. Fire in the Lake. An Atlantic Monthly Press Book, Boston, USA 1972.
- Jerrold Schecter. The New Face of Buddha. John Weatherhill, Tokyo, 1967.
- Joseph Buttinger. Vietnam: A Dragon Embattled, Volum II Vietnam at War. Frederick A. Praeger, Publisher, New York, 1967.
- Marvin E Gettleman. Vietnam: History, Documents and Opinions on a Major World Crisis. Penguin Books, 1966.
- Robert McAfee Brown, Abraham J. Heschel & Michael Novak. Vietnam: Crisis of Conscience. Associated Press, New York 1967.
[1] “Tuất” thường được phiên âm sai lầm là “Tức” hay “Tất”. Sai lầm
trong trường hợp 1 có thể xem trong Bách khoa mở Wikipedia tại địa chỉ:
http://en.wikipedia.org/wiki/Thich_Quang_Duc. Về sai lầm 2 có thể tham
khảo các sách viết về Bồ-tát Quảng Đức tại Việt Nam, tiêu biểu như Lửa thiêng nhiệm mầu – Lược sử Phật giáo đồ đấu tranh chống kỳ thị tôn giáo của nhiều tấc giả, xuất bản tháng 12-1963, được GHPGVN TP.HCM tái bản tháng 5-2013, tr. 111.
[2] Nay là ngã tư CMT8 – Nguyễn Đình Chiểu, nơi UBND thành phố HCM
làm và tôn trí tượng đài của Bồ-tát Thích Quảng Đức bằng đồng, ghi nhận
công đức của Người cho đạo pháp và dân tộc.
[3] Được thuyết giảng tại một thánh đường ở New York vào ngày 30.6.63. Trích theo Bùi Kha, Ngọn lửa Quảng Đức qua miêu tả của báo nước ngoài. Tháng 5 năm 2013.
[4] Quốc Tuệ (biên tập). Phật Giáo Việt Nam 1963. Saigon, 1964, tr. 94-96.
[5] TT. Thích Tâm Giác, Phó Trị sự Trưởng của Giáo hội Tăng già Việt
Nam, trong thư trả lời, đã không chấp nhận cho Bồ-tát Quảng Đức tự
thiêu: "Với quyết tâm bảo vệ Phật pháp, Đại đức nguyện hiến xã thân
này bằng cách thiêu đốt thân xác để phản đối chính sách bất bình đẳng
tôn giáo với nhà cầm quyền và nêu tỏ thái độ hy sinh vì đạo cao cả mà
mình đã tôn thờ. Giáo hội rất thông cảm trước ý chí cao đẹp ấy. Nhưng
trên nguyên tắc pháp lý (Luật Phật đã định cũng như luật pháp thế gian),
Giáo hội không thể chấp nhận điều nguyện thiêu đốt thân xác của Đại đức
được. Vậy xin Đại đức hoan hỷ và cầu chúc Đại đức vô biên an lạc."
[6] Bằng chữ Nôm được Bồ-tát viết ngày 04-06-1963 tại chùa
Ấn Quang. Bài này thường được phiên âm sai là “Lời nguyện tâm huyết” với
một vài từ thay đổi, so với nguyên bản chữ Nôm.
[7] Trong tiếng Pali, “pajjalite” có nghĩa đen là “bốc cháy”. Trong ngữ cảnh của Kinh Pháp Cú, nó có nghĩa là “bốc cháy bởi lửa tham” (burning with fires of passion). Tham khảo Sớ giải Kinh Pháp Cú, kệ 146.
[8] Thích Nhật Từ dịch. Nguyên tác Pali như sau: “Ko nu haso kimanando/ niccam pajjalitesati/ andhakarenaonaddha/ padipamna gavesatha.” (Dhammapada 146).
[9] Vũ Hoàng Chương (5-5-1916 – 6-9-1976) sinh tại Nam Định,
nguyên quán tại làng Phù Ủng, huyện Đường Hào, phủ Thượng Hồng, nay là
huyện Mỹ Hào tỉnh Hưng Yên.
[10] Bản Tuyên ngôn trích trong Lửa thiêng nhiệm mầu, tr. 22-23.
[11] Fitzgerald Francess. Fire in the Lake. An Atlantic Monthly Press Book, Boston, USA 1972, tr.104.
[12] Avro Manhattan. Vietnam: Why Did We Go? CA: Chick Publications, 1984, tr. 56.
[13] Sách đã dẫn, tr. 89.
[14] Robert McAfee Brown, Abraham J. Heschel & Michael Novak. Vietnam: Crisis of Conscience”, Associated Press, New York 1967, p. 30: “The
Australian writer Denis Warner wrote that "the tyranny the West allied
with in Saigon was in many years worse than the tyranny it was fighting
against." Diem and his family had murdered or exiled all potential
opposition. Diem had "lost the confidence and loyalty of his people," as
Secretary McNamara put it on March 26, 1964.”
[15] Trần Tam Tĩnh. Thập giá và lưỡi gươm. NXB Trẻ, 1988, tr. 124.
[16] Thường được gọi tắt là chủ nghĩa “ba chống” và “ba vâng.”
[17] Chu Bằng Lĩnh. Đảng Cần Lao. Nxb. Mẹ Việt Nam, San Diego, CA, USA, 1993, tr. 165.
[18] Bernard Newman. Background to Vietnam. Signet Books, New York 1965, p. 117: “Whatever
the constitution might say, Diem ruled as a virtual dictator. His
political philosophy was derived from a group of French Catholics, who
formulated a doctrine known as Personalism. It emphasises human dignity
as opposed to the Communist concept of disiplined masses. Its detail is
complicated, and difficult of comprehension to all but a philosopher...
Personalism is "a confused mélange of papal encyclicals and kindergarten
economics, combined with a suspicion of private businessmen, a fear of
foreign capital, and an attitude that little could be accomplished in
Vietnam without direct government control."
[19] Hồ sơ của Hội Phật giáo Trung phần gởi Tổng thống và Quốc hội ngày 20-2-1962.
[20] Thích Hải Ấn và Hà Xuân Liêm. Lịch sử Phật giáo xứ Huế. NXB TP.HCM, 2001, tr. 476.
[21] Gettleman, Marvin E. Vietnam: History, documents and opinions on a major world crisis. Penguin Books, 1966, tr. 280–293.
[22] Jerrold Schecter. The New Face of Buddha. John Weatherhill, Tokyo, 1967, tr. 172.
[23] Xem chi tiết tại trang nhà:
http://vi.wikipedia.org/wiki/Bi%E1%BA%BFn_c%E1%BB%91_Ph%E1%BA%ADt_gi%C3%A1o,_1963
[24] Lãnh đạo Phật giáo Việt Nam năm 1963 cho rằng: “Lẽ trị an”
là từ ngữ không có giới hạn nào rõ rệt và đã bị lợi dụng quá đáng từ
ngày người Pháp trở lại Việt Nam đến bây giờ! Ấy là chưa nói rằng, nếu
thế gian này có được cái gì được gọi là vĩnh viễn, thì cái đó là tôn
giáo, vậy mà tôn giáo lại bị ghép vào hiệp hội với giấy phép cho và bãi
một cách cực kỳ đơn giản như trên!” Trích từ Lửa thiêng nhiệm mầu, tr. 30.
[25] Lửa thiêng nhiệm mầu, tr. 32.
[26] Lửa thiêng nhiệm mầu, tr. 33.
[27] Lửa thiêng nhiệm mầu, tr. 31.
[28] “Cuộc vận động của Phật giáo Việt Nam” in trong tuần báo Hải Triều Âm, số 18, ngày 27-8-1964.
[29] Về tiểu sử của 6 vị thánh tử đạo là tu sĩ Phật giáo và 12 vị
thánh tử đạo là cư sĩ Phật tử, có thể xem tại:
http://thuviengdpt.info/lam-su/tieu-su-thanh-tu-dao. Phương danh tám vị
thánh tử đạo tại đài phát thanh Huế bao gồm:
Tâm Đồng – Đặng Văn Công.
Tâm Thành – Dương Viết Đạt
Tâm Thanh – Nguyễn Thị Yến
Tâm Thông – Nguyễn Thị Phúc
Tâm Hiển – Lê Thị Kim Anh
Tâm Thuận – Trần Thị Phước Trị
Tâm Chánh – Nguyễn Thị Ngọc Lan
Tâm Tôn – Huyền Tôn Nữ Tuyết Hoà
[30] Tường trình của chính quyền Ngô Đình Diệm gửi cho Ủy ban điều
trần Liên Hiệp Quốc là một lạc dẫn về thông tin: “Các cái chết do tai
nạn không may gần đài phát thanh Huế là do các vụ nỗ, do Việt Cộng gây
ra. Quân đội miền Nam Việt Nam không sở hữu các vũ khí này” (Deaths
at the unfortunate incident near Hue radio station was caused by
explosions, most probably made by Communist infiltrators. A South
Vietnam army did not have such weapon in their possession). Xem
thêm chi tiết này tại trang web:
https://sites.google.com/site/trialofdangsy/the-trial/evidences/united-nations-fact-finding-mission
[31] Là một người theo Công giáo, nguyên là phó tỉnh trưởng Huế, phụ trách các vấn đề an ninh vào thời điểm pháp nạn.
[32] Đây là lời tiết lộ của cựu bộ trưởng Giáo duc Trần Hữu Thế đối
với GS. Vũ Văn Mẫu. Xem chi tiết tại:
http://vi.wikipedia.org/wiki/Bi%E1%BA%BFn_c%E1%BB%91_Ph%E1%BA%ADt_gi%C3%A1o,_1963
[33] Để giải quyết các bất ổn nội bộ chính phủ, Nguyễn Khánh ra lệnh
tha tội chết cho Đặng Sĩ nhưng đã phạt phạm nhân này vào trại lao động
khổ sai, đồng thời phải bồi thường cho các gia đình nạn nhân.
[34] Bản Tuyên ngôn gồm 2 trang, được tuyên đọc trong phiên
họp của lãnh đạo Phật giáo tại Chùa Đàm, Huế và được HT. Thích Tịnh
Khiết, Hội chủ Tổng hội Phật giáo Việt Nam ấn ký, gửi chính phủ ngày
10-5-1963. Cùng ký tên còn có TT. Thích Mật Nguyện, Trị sự trưởng Tổng
Trị sự Giáo hội Tăng già Trung Phần, TT. Thích Trí Quang, Hội trưởng
Tổng trị sự Hội Phật giáo Việt nam tại Trung phần, TT. Thích Mật Hiển,
Trị sự trưởng Ban Trị sự Giáo hội Tăng già Thừa Thiên và TT. Thích Thiện
Siêu, Hội trưởng Ban Trị sự Tỉnh hội Phật giáo Thừa Thiên. Xem chi tiết
tại Lửa thiêng nhiệm mầu, tr. 22-24.
[35] Bản Phụ đính về Bản Tuyên ngôn của Phật giáo Việt Nam gồm
12 trang, do HT. Thích Tịnh Khiết, Hội chủ Tổng hội Phật giáo Việt Nam
ấn ký, gửi chính phủ ngày 23-5-1963. Cùng ký tên còn có TT. Thích Mật
Nguyện, Trị sự trưởng Tổng Trị sự Giáo hội Tăng già Trung Phần, TT.
Thích Trí Quang, Hội trưởng Tổng trị sự Hội Phật giáo Việt nam tại Trung
phần, TT. Thích Mật Hiển, Trị sự trưởng Ban Trị sự Giáo hội Tăng già
Thừa Thiên và TT. Thích Thiện Siêu, Hội trưởng Ban Trị sự Tỉnh hội Phật
giáo Thừa Thiên. Xem chi tiết tại Lửa thiêng nhiệm mầu, tr. 25-37. Hiện tại, Bản Phụ đính được lưu trữ tại Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II, Ký hiệu tài liệu SC.04-HS.8352.
[36] Trích từ Bát-nhã-ba-la-mật-đa tâm kinh (Prajñā Pāramitā Hridaya Sūtra, Prajnaparamitahridaya Sutra, 般若波羅蜜多心經), gọi tắt là Bát-nhã Tâm Kinh hay Tâm Kinh, một
bản kinh Đại thừa quan trọng, được sử dụng làm tụng bản trong các nghi
thức tụng niệm của Phật giáo Đại thừa tại Việt Nam, Trung Quốc, Nhật Bản
và Triều Tiên.
[37] “Bản Tuyên ngôn” trích trong Sđd, tr.23-24.
[38] “Bản Tuyên ngôn” trích trong Sđd, tr.24.
[39] “Bản Phụ đính” trích trong Sđd, tr. 25-26.
[40] “Bản Phụ đính” trích trong Sđd, tr.28.
[41] “Bản Phụ đính” trích trong Sđd, tr. 28.
[42] “Bản Phụ đính” trích trong Sđd, tr. 27.
[43] “Bản Phụ đính” trích trong Sđd, tr. 27.
[44] “Bản Phụ đính” trích trong Sđd, tr. 27.
[45] “Bản Phụ đính” trích trong Sđd, tr. 27.
[46] “Bản Phụ đính” trích trong Sđd, tr. 26.
[47] “Bản Phụ đính” trích trong Sđd, tr. 26.
[48] Ahiṃsā trong tiếng Sanskrit có nghĩa đen là “không gây tổn hại” (to do no harm) hoặc sự xa lánh bạo lực (the avoidance of violence). Về chiết tự, hiṃsā có nghĩa là hảm hại (harm) hoặc thương tổn (injury). Phối hợp với tiếp đầu ngữ “a”, a-hiṃsā là bất hại (non harming), là bất bạo động (non-violence).
[49] “Bản Phụ đính” trích trong Sđd, tr. 28.
[50] Bao gồm bãi công, bãi chợ, bãi lớp học, không nộp thuế cho chính
phủ Anh, không làm việc trong chính phủ Anh, tẩy chay hàng hóa Anh
v.v... làm cho cơ cấu hành chính của Anh tại Ấn Độ bị tê liệt.
[51] Nguyên văn tiếng Anh: "No news picture in history has generated so much emotion around the world as that one”.
[52] Bruce D. Berkowitz. The New Face of War, Revised Edition, The Bobbs-Merrill Company, Inc. Indianapolis-New York,1968, tr. 261-262.
[53] Tên của các vị tu sĩ phát nguyện tự thiêu là Thượng tọa Thích
Tiêu Diêu, đại đức Thích Quảng Hương, đại đức Thích Thiện Mỹ, đại đức
Thích Nguyên Hương, đại đức Thích Thanh Tuệ và Sư cô Thích Nữ Diệu
Quang.
[54] Có thể xem tiểu sử của các thánh tử đạo tại địa chỉ:
http://phatgiaoaluoi.com/news/Lich-su-Phat-giao-Viet-Nam/Di-anh-va-tieu-su-chu-Thanh-tu-dao-1916/
[55] Kệ Pháp Cú 5 đầy đủ được Thích Nhật Từ dịch như sau: “Trả thù hận bằng tâm oán giận/ Muôn kiếp dài khó đặng thành công/ Từ bi chuyển hóa thù chung/ Đây là định luật công bằng xưa nay.” Nguyên tác Pali: “Na hi verena verani/ sammantidha kudacanam/ averena ca sammanti/ esa dhammo sanantano.”
[56] Tiến hành trong ngày 20-8-1963.
[57] Học thuyết hình thành thế giới quan và nhân sinh quan Phật giáo,
không chấp nhận nguyên nhân đầu tiên là duy thần, duy vật hay duy tâm.
Thế giới là một trường tương tác và tương tức vô tận.
[58] Lê Duẩn. Thư vào Nam. Nxb Sự Thật, Hà Nội, 1985, tr.248.
[59] Cao Thế Dung. Việt Nam ba mươi năm máu lửa – Cuộc chiến tranh tàn sát thương binh lần thứ nhất 1945-1963. Nxb Alpha, Falls Church, VA, USA, 1991, tr. 606-607.