A.
Mở Ðề
Như chúng ta đã biết qua
trong bài học thứ nhất, cái của đạo Phật ở Ấn Ðộ, trong khi trưởng thànhđã chia
thành hai thân cây lớn,một thân cây hướng về phía Nam, tức là Nam tôn Phật
Giáo,trong thân cây hướng về phía Bắc, tức là Bắc phương Phật Giáo.
Nói đến Bắc Phương Phật
Giáo, thí quốc độ lớn nhất và có một ảnh hưởng quyết định đến những nườc chung
quanh là Trung hoa. Vậy muốn biết lịch sử truyền bá Phật Giáo ở Bắc phương hay
Ðại-thừa Phật Giáo, chúng ta không thể không nguyên cứu sự phát-triển, sự thăng
trầm của đạo Phật Trung hoa, từ khi đạo Phật mớ du nhập vào cái khối người đông
đảo nhất thế giới này cho đến thời cận đại.
Khi chúng ta đã nhận
thấy được những đường nét chính của lịch sử Phật Giáo Trung hoa, thì chúng ta
cũng sẽ có được một vài khái niệm và màu sắc chính của đạo Phật ở Việt nam
trong quá khứ:
B.-
Chánh Ðề:
I.- Thời Kỳ Sơ Khởi
Theo các sách sử còn
truyền lại, thì dân Trung hoa đã có nghe nói đến đạo Phật lâu lắm và rải rác
rong dân chúng ở phía Tây, đã có người đã theo đạo Phật rồi. Hưng mãi đến đời
nhà Ðông hán, niên hiệu Vĩnh bình năm thứ mười (T.L67) Vua Minh Ðế sai các ông
Vương Tuân, Thái Hâm, cả thảy mười tám người qua nước Ðaị Nhuc Chi (môt nươc1 ở
phiá Tây, trên đường từ Ấn Ðộ sang Trung Quốc) để rước Phật về thờ và có mời
được hai vị sư là Ca-Diếp Ma Ðằng (Kerssoapa Matanga) và Trúc Pháp Lan (Falan)
qua Trung hoa. Vua Han Minh Ðế truyền dựng chùa Bạch Mã để thờ Phật và cho hai
Ngài ở đó dịch kinh truyền Ðạo. Hai Ngài đã dịch kinh Tứ Thập Nhị Chương và
mười sáu quyển kinh khác. Phật Giáo được thừa nhận ở Trung Quốc, được xây chùa,
dịch kinh được bắt đầu từ đó. Dần dần đạo Phật càng bành trướng và càc nhà truyền
Ðạo từ Tây-vứt lục đục kéo sang Trung Quốc, trong số đó có những bậc nổi tiếng
nhất là Ngài An Thế Cao, Chi Lâu Ca Sấm, Chi Diệu, Trúc Phật Sóc. Số kinh chử
Phạn dịch ra chử Hán trong thời kỳ sơ khởi này chúng đã lên đến 300 quyển.
II.- Những Thời Kỳ Hưng
Thịnh
Trong khoảng thời gian
dài hơn hai ngàn năm từ khi bắt đầu du nhập vào Trung hoa cho đến hiện đại đạo
Phật đã nhiều lần không thành và suy vong theo các thời đại. Cứ kể một cách tỷ
mỷ sự hưng thịnh và suy vong một cách liên tiếp ấy, thì viết không biết bao
nhiêu trang giấi mới xong, và độc giả cũng khó nhớ cho hết được. Vì thế phải
giúp trí nhớ cho quý vị chúng tôi chỉ nêu lên những điểm chính, nổi bật nhất
tronh lịch trình biến chuyển của Phật Giáo Trung hoa. Trước tiên chúng tôi phải
nêu những thời kỳ hưng thịnh nhất, sau đò nêu những thời kỳ đen tối nhất, để
quý vị có một khái niệm khá rỏ rệt nhất về lịch sử truyền bá Phật Giáo Trung
hoa.
Về sừ hưng thịnh, chúng
ta có thể ghi nhận bốn thời kỳ chíng sau đây:
1.- Thời kỳ thứ nhứt.
Từ Tam Quốc đến Tây Tấn (thế kỷ thứ III đến thế kỷ thứ IV T.L). sau khi nhà
Ðông Hán mất ngôi, nước Tàu bị chia làm ba khối, tức là thời Tam Quốc: Ngụy,
Thục, Ngô. Mặc dù phân chia như thế, trong những nước ấy, từ vua chúa đến dân
gian đều quy ngưỡng theo đạo Phật, và mỗi nước đều có những vị cao tăng từ Tây
Vức sang truyền đạo: ở Ðông Ngô có Ngài Khương Tăng Hội, ở Bắc Ngụy có Ngài Ðàm
Ma Ca La; ở Tây Thục có Ngài Châu Tử Hàng là một cao tăng Trung hoa, đã qua Tây
Vức học chữ Phạn và tìm nguyên bản kinh chữ Phạn để dịch lại, hầu làm giàu thêm
cho ko tàng kinh điển Trung hoa.
Nhưng phải đợi đến đời
Tây Tấn, Phật Giáo Trung hoa mới thấy được cái vẽ rực rỡ của thời kỳ thịnh phát
thứ nhất. Năm 310 Tây lịch, dưới đời nhà Tây Tấn, niên hiệu Vĩnh Gia một vị cao
tăng từ Tây Vức là Ngài Phật Ðộ Trừng sang thuyết pháp được nhân dân quy ngưỡng
có hàng vạn, người. Ngài đã đào tạo được một số đệ tử có tiếng tăm như các
Ngài: Ðạo An Pháp Hoa.
Sau đó ít lâu,Ngài
Cưu-Ma-La-Thập tiếp nối sự nghiệp hoằng dương chính pháp của các bật tiền bối
và đã đưa đạo Phật Trung hoa đến một địa vị vô cùng rực rỡ. Chính trong giai
đoạn thứ nhất nầy, Trung hoa bắt đầu có những tôn phái mới là Tam luận tôn và
thành thật tôn.
2.- Thơì kỳ thứ hai.
-Dưới thời Nam Bắc triều (thế kỷ thứ V đến đến thế kỷ thứ VI ). Trong thời kỳ
này nhiều vị cao tăng đã gây thêm uy thế cho đạo Phật cả trong dân gian lẫn cả
triều đình, như Ngài Hệ Lâm được tham dự triều chính. Và đã nhiều ngài đã du
nhập những tôn phái từ ngoài vào, hay sáng lập thêm nhựng tôn phái mới. Như ngài
Bồ Dề Ðạt Ma đã từ Thiên Trúc sang truyền pháp Thiền Tôn, và là vị tổ đầu tiên
của phái nầy ở Trung hoa; Ngài Tam Tạng Chơn Ðế dịch truyền luận Ðại-thừa Khởi
tín, Ngài Ðàm Vô Sấm dịch truyền Niết Ban Tôn, Ngài Nam Nhạc đại sư lập Thiên
Thai Tôn. Ðó là giai đoạn hưnh thịnh thứ hai của Phật Giáo Trung hoa.
3.-Thời kỳ thứ ba.-Dưới
đời nhà đường(thế kỷ thứ VII- IX )Vào khoảng đầu thế kỷ thứ bảy, dưới đời vua
Ðường Thái Tôn(ông vua thứ hai đời đường),sau một thời gian bị phân tán vì giặc
giã, đạo phập ở Trung hoa bắt đầu thịnh phát lại. Vị cao tăng đã mở đầu cho
giai đoạn hưng thịnh nầy là Ngài Huyền-Trang, thường được gọi là Ðường Tam-Tạng
pháp sư. Nhận thấy kinh điển ở nước nhà hoặc bị thiêu hủy thất lạc vì giặc giã,
hay bị sai lạc nguyên bản vì dịch sai hay chép lộn, Ngài Huyền-Trang tự phát
đại nguyện sang Ấn Ðộ, tìm học đạo với những bậc minh-sư, và đi chu du khắp Ấn
Ðộ. Sau 15 năm, Ngài trở về Trung hoa, đem rất nhiều kinh tạng bằng Phạm-Văn và
tổ chức cuộc phiên dịch sang Hán-Văn có trên 1.500 quyển. Vua Ðường Thái-Tôn
rất quý trọng Ngài, truyền dựng chùa Ðại-Từ-Ân để Ngài dịch kinh truyền đạo
(1). Chính Ngài Huyền-Trang và các đệ-tử của Ngài là những vị có công lớn trong
việc làm sáng tỏ giáo-lý pháp-tướng tôn ở Trung hoa.
Ðộc giả muốn tìm hiểu
rõ-ràng công cuộc Tây-du và phiên dịch kinh tạng của Ngài Huyền-Trang xin hãy tìm
đọc hai tập Huyền-Trang của tác giả Vỏ-Ðình-Cường do nhà Hưng-Ðạo xuất bản.
Sau Ngài Huyền-Trang ,
có Ngài Nghĩa-Tịnh cũng sang du lịch Ấn Ðộ bằng đường biển và cũng thỉnh kinh
đem về dịng được 60 bộ, tổng cộng được 230 quyển.
Từ đó, dưới thời Ðường,
trừ một vài vị Vua, còn hầu hết các vị khác, vị nào cũng ủng hộ, sùng bái đạo
Phật, và đạo Phật được thâm nhập một cách mạnh mẽ trong dân gian. Xét trong bốn
thời kỳ hưng thịnh, thì thời kỳ này là thời kỳ hưng thịng lừng lẫy nhất của
Phật Giáo Trung Hoa.
4.-thời kỳ thứ tư.-
Dưói đời nhà Minh. Từ khi nhà Ðường mất thien hạ, đến nhà Minh, trải qua mấy
trăm năm trước Trung Hoa tuần tự trải qua các đời: Ngũ Ðại ( hậu Lương, hậu
Ðường, hậu Tấn, hậu Hán, hậu Chu ). Nhà Tống, rồi đến nhà Nguyên.
Trong các đời vua nầy,
chỉ có nhà Tống là có thiện chí chấn-hưng Phật Giáo, sau một giai đoạn điêu tàn
vì chiến tranh và sự phá hủy chùa chiền của vua Thế-Tôn nhà hậu Chu. Các vị vua
nhà Tống đã sai sứ sang Tây-Vức thỉnh kinh cầu danh Tăng, và sắc dịch kinh
điển, nên đạo Phật dần dần cũng được hồi phục, tuy có kém hơn trước.
Nhưng phải đợi đến đời
vua Thái-Tổ nhà Minh ( Chu Nguyên Chương) đạo Phật mới lấy lại được cái vẽ huy
hoàng của những thời hưng thịnh trước. Minh Thái-Tổ, nguyên lúc nhỏ là một vị
Sa-Di, nên khi lên ngôi, Ngài hết sức ủng hộ Phật Giáo.
Ngài quy định phép tắc
cho tăng-lữ,đặt những ty Tăng-cang, Tăng-chánh, Tăng-hội để chưởng lý các
tăng-lữ.Ngài lại triệu tậpcác vị cao tăng ở Trường-Sơn để kiểm duyệt kinh
tạng.Các vị vua kế vị vua Minh Thái-Tôn, cũng tiếp tục trùng hưng Phật Giáo,
nhờ thế, đạo Phật ở Trung Hoa lại thêm một lần nữa có sắc thái huy hoàng của
thời xưa. Nhưng đó cũng là thời kỳ hưng thịnh cuối cùng vậy.
Thật thế, từ khi nhà
Minh mất ngôi, sang nhà Thanh, mặc dù các vua chúa củng có ủng hộ Phật Giáo,
nhưng trong nhân gian ít người hiểu thấu đạo lý của Phật, mà chỉ nghĩ đến cúng
cấp, mê tín, dị đoan thôi.
Phải đợi đến cuộc
cách-mạng Tam-dân chủ-nghĩa (1912), đạo Phật mới trổi dậy bằng hình thức nghiên
cứu Phật học và sự thành lập các hội Phật Giáo khắp trong nước. Nhưng đây lại
thuộc vào thời kỳ cận đại và hiện đại Phật Giáo, mà chúng ta sẽ nghiên cứu
trong một bài sau.
III.-Những Thời Kỳ
Suy Vong
Như chúng ta đã biết,
cuộc đời đã là vô thường, thì không có một việc gì có thể thoát ra ngoài cái
luật chung ấy được. Ðạo Phật Trung Hoa đã có thời cực thịnh, như chúng ta đã
thấy ở trên, tất cũng có thời kỳ suy vong mà chúng ta sắp đề cập sau đây.
Nhà viết sử Phật Giáo
Trung Hoa, khi nói đến nhưnỵg thời kỳ suy vong của Ðạo Phật thường tóm tắt trong
một câu:"Tam Vỏ, nhất Tôn chi ách ". Câu này muốn nói cái thời vận
đen tối của đạo Phật, nằm trong ba đời vua Võ 'Thái Hoa nhà Hậu Ngụy, Võ -Ðế
nhà Bắc-Chu, Võ-Tôn nhà Ðường ' và trong một đời vua Thế-Tôn nhà hậu Chu.
Dưới đây, chúng ta tuần
tự nói đén bốn thời kỳ đen tối ấy:
1.- Thời kỳ thứ nhứt.-
Dưới đời hậu Ngụy Thái-Võ-Ðế ( 439-450 T.L). giữa thời Nam Bắc triều ( 420-588
) trong lúc đạo Phật đang thịnh hành, vua chúa đang sùng mộ, giới tăng sĩ mỗi
ngày một đông, thì đến niên hiệu Thaí-Bình Chơn-Quân thứ bảy (446 T.L) vua hậu
Ngụy Thái-Võ-Ðế là một ông vua tàn bạo, nghe lời sàm tấu, tàn sát một cách ghê
ghớm các tăng lữ và phá hủy kinh tượng chùa tháp trong nước. Nhưng vận mệnh của
kẻ bạo tàn không thể lâu dài được, cho nên bốn năm sau khi thi hành thủ đoạn
tàn ác trên, Thái-Võ-Ðế từ trần. Văn-thành vương lên nối ngôi, nhận thấy việc
làm tàn ác, vô lý và nguy hại trên, nên đã truyền phục hưng Phật Giáo, nhờ đó
đạo Phật dần dần lấy lại thanh-thế cũ.
2.- Thời kỳ thứ hai:-Dưới
đời bắc Chu Võ-Ðế ( 574 T.L). Ðến đời Võ-Ðế nhà bắc Chu, Phật Giáo lại bị tai
ách lần thứ hai. Vua ra sắc lệnh bãi bỏ Phật Giáo, bắt các tăng-sĩ về làm dân,
xung vào binh nội; chùa chiền bị biến thành phủ đệ cho các vương hầu ở, dân
chúng bị ngăn cấm không cho thờ cúng Phật.
Nhưng ít năm sau, Võ-Ðế
mất, Tuyên-đế nối ngôi, lại sắc chiếu phục hưng Phật Giáo, truyền dịch kinh
luận. Nhờ đó, đến đời Tùy, Phật Giáo mới trở lại thạnh hành, vua quan đều quy-y
Phật pháp.
3.- Thời kỳ thứ ba.
Dưới đời Võ-Tôn nhà Ðường ( 840-847 T.L ). Tai ách thứ ba của Phật Giáo Trung
Hoa xảy ra vào năm 845 T.L dưới đời Võ-Tôn nhà Ðường.
Như chúng ta đã biết,
đời Ðường là một giai đoạn cực thịnh của lịch sử Phật Giáo Trung Hoa, các vua
chúa đời này đều sùng thượng đạo Phật. Nhưng đến đời Võ-Tôn là một ông vua sùng
mộ Lão-giáo, nghe theo các đạo sĩ xúi giục, đã thẳng tay đàn áp đạo Phật cũng
như các tôn giáo khác, bắt 265.000 tăng ni hoàn tục; những chuông thánh bằng
đồng đều bị tịch thu để đúc tiền.
Nhưng có lẽ các ông vua
tàn ác không thể sống lâu, hai năm sau Võ-Ðế mất. Vua Tuyên-Tôn lên ngôi, lại
hạ sắc tu bổ chùa chiền, chánh hưng Phật Giáo.
4.- Thời kỳ thứ tư
.- Dưới thời thế tôn nhà hậu chu ( khoảng giữa thế kỷ thứ X). Sau khi nhà đường
mất ngôi, nước Trung Hoa làm mồi cho sự tranh giành xâu xé giữa các chư hầu,
chiến tranh nỗi dậy khắp nơi, đạo Phật cũng chịu nhiều ảnh hưởng tai hại lớn vì
thời cuộc. Thêm vào đó, còn có sự phá phách của một ông vua nhà Hậu-Chu là vua
Thế-Tôn.
Thế-Tôn rất ghét Phật
Giáo, nên đã sắc chỉ phá hủy chùa chiền đến 30.336 ngôi, đem tượng đồng,
chuông, khánh ra đúc tiền, các kinh tạng đều bị thiêu hủy hay bị thất lạc gần
hết. Trước tình trạng đen tối ấy, đạo Phật Trung Hoa tưởng đến mất tích. Nhưng
không ! Nhà Tống sau khi bình được thiên hạ, đã ra sức chánh hưng đạo Phật và
sai sứ sang Tây-Vức thỉnh kinh và pháp sư về Trung Hoa Hoằng-dương chánh-pháp.
IV. Sáu Vị Tổ Thiền
Tông Trung Hoa
Kể về các tôn phái Phật
Giáo ở Trung Hoa, thì thiền tôn thì phát-triển mạnh mẽ và sâu rộng nhất. Ðiều
đó củng không lấy làm lạ, vì thiền tôn rất thích hợp với phần đông căn cơ người
Trung Hoa và các vị tổ của Thiền-Tôn là những vị thánh tăng rất được tín-đò
sùng mộ. Dười đây chúng ta hãy biết qua về các vị Tổ ấy: Vị Tổ Thiền-Tôn truyền
ở Trung Hoa đầu tiên là đức Bồ-Ðề Ðạt-Ma. Sau khi Ngài được Tổ Bát-Nhã-Ða-La
truyền tâm pháp và phú chúc Ngài sang Trung Hoa truyền hóa vào đời vua lương
Võ-Ðế ( 528 D.L). Ngài ngồi xây vào mặt tường tham thiền luôn trong chính năm,
tại chùa Thiếu-Lâm. Ngài thị tịch tại chùa Thiên-Thánh ở vùng Vỏ-Môn, an táng tại
chùa núi Hùng-Nhỉ bên cạnh chùa Ðịnh-Lâm.
Trươc khi thị tịch, Tổ
Ðạt-Ma có nói bài kệ để phú-chúc cho Ngài Huệ-Khả, tức Thành-Quang, (Người đã
chặt cánh tay để cầu pháp với Ngài Ðạt-Ma). Bài kệ ấy như sau:
Hán văn:
Ngô bổn lai tự độ
Truyền pháp độ mê tình
Nhứt hoa khai ngũ diệp
Kết quả tự nhiên thành
Dịch nghĩa:
Ta đến xứ Trung
Quốc
Thuyết pháp cứu mê tình
Một bông nảy năm cánh
Kết quả tự nhiên thành.
Ngài Huệ Khả kế thừa
Ngài Ðạt Ma, làm tổ thứ hai, Ngài tăng Xán làm tổ thứ ba, Ngài đạo tín là tổ
thứ tư, Ngài Hoăng Nhẫn là tổ thứ năm và Ngài Huệ-Năng là tổ thứ sáu, tức là tổ
cuối cùng của phái Thiền Tôn ở Trung Hoa.
C.-
Kết Luận
Sau khi đọc lịch sử
truyền bá Phật Giáo ở Trung Hoa, chúng ta có thể rút ra một vài nhận xét bổ ích
sau đây:
1.- đạo Phật là một Tôn
giáo ngoại lai, từ Ấn Ðộ truyền sang. Trong khi Phật Giáo ở Ấn Ðộ mỗi ngày mỗi
suy đồi, thì Phật Giáo ở Trung Hoa mỗi ngày mỗi thêm thanh thế và cuối cùng
chinh phục được hầu hết cả một khối người đông đảo nhất trên thế giới. Vì sao?
Có lẽ vì ở Ấn Ðộ, các nhà lãnh đạo truyền giáo đã không biết thích nghi với
hoàn cảnh, với sự tiến triển của thế giới của thời thế, cứ giữ chặt nếp sống
cũ, trong khi ấy thì ở Trung Hoa, các nhà truyền giáo đã hiểu rõ căn cơ của
quần chúng, biết thích nghi với hoàn cảnh và thời thế, luôn luôn phát huy những
Tôn phái mới để đáp ứng cho những nhu cầu tinh thần của những lớp người. Do đó
mà đạo Phật ở Trung Hoa không bị một tôn giáo nào lấn lướt được.
2.- Cũng như ở Việt nam,
các triều đại ở Trung Hoa khi mới lên ngôi, thì các ông vua khai quốc bao giờ
cũng sùng mộ đạo Phật và khuyến khích sự truyền giáo, còn các ông vua cuối
cùng, trái lại, thường hay hủy phá đạo Phật, trước khi mất ngôi. Những sự kiện
ấy cho phép ta kết luận rằng: Các ông vua khai quốc phần nhiều những vị có đức
hạnh và sáng suốt nhận thấy cần phải chấn hưng Phật Giáo thì dân chúng mới được
thuần lương và nước nhà mới thịnh trị. Trái lại, các ông vua cuối cùng phần
nhiều là những hôn quân vô đạo, nên đã hủy phá Phật pháp. Vì thế, nước đã loạn
lại càng loạn thêm và các ngai vàng của các ông cũng sụp đỗ theo với đà sụp đỗ
của các nước.
3.- đạo Phật ở Trung Hoa
có lúc thịnh và lúc suy. Trong sự tịnh suy ấy, công và tội của các ông vua rất
lớn, nhưng không phải là tất cả. Các ông vua chỉ tăng cường thượng duyên, còn
nguyên nhân chính, động cơ chính vẫn là giới tín đồ và nhất là giới lãnh đạo
Phật Giáo. Khi mà tín đồ có đạo hạnh và lòng tin tưởng mạnh mẽ, các nhà truyền
giáo có nhãn quan sáng suốt, thì dù các ông vua có muốn phá đạo cũng chỉ phá
được một phần nào thôi. Cũng như khi mà tín đồ thiều đạo hạnh và lòng tin, các
vị lãnh đạo thiếu tinh thần tiến thủ và sáng suốt, thì ông vua dù có muốn nâng
đỡ đạo Phật, cũng chỉ nâng đỡ một phần nào thôi.
Cho nên, bao giờ cũng
thế, sự xây dựng hay sự phá hoại, trước tiên đều do ở bên trong mà ra cả.