A.-Mở Ðề
Khao-khát cái tuyệt-đối,
khinh-thường cái cái trương-đối; mong cầu cái vĩnh-viễn trường-tồn, ruồng-bỏ
cái biến-chuyển vô-thường, người Viêt-Nam nói riêng và người Á-Châu nói chung
đã được huân-tập mấy ngàn năm trong một thái-độ tư-tưởng như trên, nên đã xem
thường lịch sử, là một môn học theo sát sự biên-chuyển vô-thường của sự thế, mà
mục-đích là mong ghi chép một cách trung-thành những gì đã mất hút trong bóng
tối của thời-gian.
Quan-niệm khinh thường
lịch sử ấy đã đem lại cho chúng ta nhiều điều tai-hại không nhỏ. Chúng ta đã bỏ
mất bao nhiêu bài học quý giá mà ông cha chúng ta mua với một giá rất đắt;
chúng ta đã mất rất nhiều liên lạc với quá-khứ, tắt mất đường thông-cảm với
người xưa, và đang lạc-loài trong hiện tại vì không biết nên bỏ con đường nào
và nên theo con đường nào. Người ta thường nói rất đúng: một dân-tộc không
quá-khứ, thì cũng khó mà có tương-lai.
Riêng trong phạm-vi Phật
Giáo chúng ta, tìm về cho đúng nguồn-gốc, thử vạch lại con đường đi truyền-giáo
của ông cha, xây dựng lại mô-hình của một thời-đại huy-hoàng của Phật Giáo, đó
là những công-việc vô cùng khó-khăn, nhọc mệt.
Nhưng mặc dù mệt nhọc,
khó-khăn, không lẽ thấy vết xe đổ của người xưa mà nay chúng ta không tránh, cứ
nhắm mắt đi càn? Người xưa đã xem thường lịch sử, ngày nay trái lại, chúng ta
phải dành cho nó một địa-vị quan-trọng. Có thấy rõ được nguồn-gốc, sự
phát-triển, những thời-đại thịnh-suy của môt tôn giáo, chúng ta mới hiểu rỏ
được giá trị chân-thật của tôn-giáo ấy. Nhất là nếu chúng ta là những người có
nhiêm-vụ truyền-bá giáo-lý của Phật-Ðà, thì hơn ai cả, chúng ta phải học lịch
sử Ðạo-Phật để tìm hiểu lẽ thịnh suy, nguyên-nhân những thành bại của công-cuộc
hoằng-dương chánh-pháp trên khắp năm châu, hầu bắt chước những điều hay có lợi
cho Ðạo, bỏ những điều dở, có hại cho Ðạo, để Phật-Pháp được hoằng truyền mãi
mãi với thời-gian.
Vạây trước tiên, chúng
ta hãy trở về nguồn, tuần-tự đi theo bước chân trên đường truyền giáo, từ khi
Ðức Giáo-chủ Thích-Ca mới xuất-thế ở Ấn Ðộ, dần dần qua Trung- Hoa, rồi đến
Việt-Nam, để cuối cùng có một ý-niệm tổng-quát về hiện-tình Phật Giáo ở nước
nhà và trên Thế-Giới phức-tạp ngày nay.
B.- Chánh Ðề
Phật Giáo Ở Aán Ðộ
I.- Sự Khai Nguồn Của
đức Giáo Chủ Thích Ca
1.- Tình-trạng xã-hội
đen tối và tư-tưởng phức-tạp ở Ấn Ðộ khi đức Phật xuất-thế
Xét về sự bất bất công
trong xã-hội trên 2500 năm trước đây, thì xã-hội Ấn Ðộ có lẽ là một trong những
xã-hội có một chế-độ xã-hội và chính-trị bất công nhất. Dân chúng Ấn Ðộ thời
bấy giờ bị phân chia rất nhiều giai-cấp khác nhau, tựu trung có thể liệt vào những
giai-cấp chính sau đây:
a)Bà-la-môn (Brhmanes)
gồm những Giáo-sĩ, những người giữ quyền thống-trị tinh-thần, phụ-trách về
lễ-nghi, cúng bái. Họ tự nhận mình là hạng cao-thượng, sinh từ lỗ miệng
Phạm-Thiên (Brahma) hay Phạm-Thiên cầm cương lãnh đạo tinh-thần dân-tộc, nên có
quyền ưu-tiên được tôn-kính, và an-hưởng cuộc đời sung-sướng nhất.
b) Sát-đế-ly (Kastryas)
là hàng vua chúa quý-phái, tự cho mình sinh từ cánh tay Phạm-Thiên, thay mặt
cho Phạm-Thiên nắm giữ quyền-hành thống-trị dân-chúng.
c) Vệ-Xa (Vaisyas) là
nhữnh hàng thương-gia chủ-điền, tin mình sinh ra từ bắp về Phạm-Thiên, có
nhiệm-vụ đảm-đương về kinh-tế trong nước (mua bán, trồng-trọt, thu huê-lợi cho
quốc-gia ).
d) Thu-Ðà-La ( Souđras)
là hàng Hà-tiện, nô-lệ tinh mình sinh từ gót chân Phạm-Thiên, nên thủ-phận làm
khổ-sai suốt đời cho các giai-cấp trên.
Ngoài bốn giai-cấp trên,
còn có một hạng người hà-tiện nhất là giống Ba-ri-a (Pariahs) giống dân-tộc mọi
rợ, bị coi như sống ngoài lề xã-hội loài người, bị các giai-cấp trên đối-xử như
thú-vật, vô cùng khổ nhục, tôi-tăm.
Năm giai-cấp này mặc
y-phục màu sắc khác nhau. Mỗi giai-cấp sống theo luật lệ hệ thống cha truyền
con nối, không được thay đổi nghề-nghiệp hay cưới hỏi lẫn nhau, và không được
di chuyển chổ ở khác. Theo luật Bà-la-môn, chỉ ba giai-cấp trên có quyền đọc
kinh, học đạo, còn hai giai-cấp dưới thì đời đời chỉ làm nô lệ cho ba giai-cấp
trên mà thôi.
Hạng Bà-la-môn hưởng
sung sướng nhàn-hạ bao nhiêu, thì đám người hà-tiện ở dưới lại khổ sở, nhục-nhã
bấy nhiêu. Sự bất công xã-hội thật không thể nào diễn-tả nổi. Giữa người với
người, thật không có một nhịp cầu thông-cảm nào, nguồn yêu thương tắc nghẹn,
giai-cấp này đối với giai-cấp khác là địch thủ mà càng bóc lột được bao nhiêu
là càng tốt bấy nhiêu.
Về phương-diện tôn-giáo,
Triết-học, tư-tưởng thì xã-hội Ấn Ðộ thời bấy giờ cũng diễn ra một cảnh-tượng
vô-cùng hỗn-tạp. Về tín-ngưỡng người thờ thần lửa kẻ thờ thần núi, thần sông,
kẻ thờ thần gió, thần chớp, thần mặt trời. Về triết-học, kẻ cho rằng Phạm-Thiên
là căn-bản của vũ-trụ, vạn-hữu, kẻ cho rằng đất là căn bản, kẻ cho rằng nước là
căn- bản, kẻ cho rằng gió là căn bản ...có phải đi xa hơn, từ cụ-thể đến
trìu-tượng, lập ra những thuyết: thời gian luận, không gian luận, phương-hướng
luận, chủ-trương nhất nguyên, nhị nguyên, đa nguyên ...Gồm một trăm phái khác
nhau, luôn luôn đã kích chóng báng nhau.
Tóm lại, xã-hội Ấn Ðộ
lúc bấy giờ là một xã-hội về vật-chất thì đang rên-siết dưới ách bất công,
áp-bức, về tinh-thần thì đang quay-cuồng, điên-đảo trong những luồng tư-tưởng
lỳ thuyết rối-reng, tà-vay. Xã-hội ấy đang khao-khát tình thương và bình đẳng,
đang mong chờ được chói rạng dưới ánh sáng của trí-huệ.
Trong hoàn-cảnh ấy, Ðức
Phật Thích-Ca đã xuất-hiện đúng lúc để cứu vớt cõi đời sầu khổ.
2.- Ðức Phật Thích-Ca
,vị giáo-chủ của Ðạo Từ-bi và Trí-huệ:
a)Niên-lịch Giáng-Sinh.
Như chúng ta đã nói ở
phần mở đề, người Phật-Tử chúng ta không cho vấn-đề lịch sử là quan-trọng; lại
thêm trải qua một thời-gian lâu dài từ khi Ðức Phật xuât-hiện đến nay, tài-liệu
bị thất-lạc nhiều, nên có nhiều thuyết khác nhau về niên-lịch Giáng-Sinh của
Ðức Phật.
Tuy thế, ngày nay để
được thống-nhất toàn vẹn về niên-lịch Phật Giáo thế-giới họp tại Ðông-Kinh năm
1952, đã thỏa thuận rằng ngày trăng tròn tháng hai của xứ Ấn Ðộ (tức ngày rằm
tháng tư âm-lịch) năm 624 trước Jésus Christ ra đời là ngày Ðàn-sanh của Ðức
Phật Thích-Ca. Như vậy, tính đến năm nay (1964) thì Ðức Phật Giáng-sinh đã được
2588 năm (1964+624). Nhưng nếu chúng ta thấy ghi Phật-lịch 2508 (tính đến năm
Tây-lịch là 1964) là vì Tổng-hội Phật Giáo Quốc-Tế lấy năm nhập Niết-bàn của
Ðức Phật làm năm đầu kỷ-nguyên, chứ không phải lấy năm sinh (2588-80 năm đời
Ðức Phật =2508).
b).Quốc-độ và dòng họ.
Thời bấy giờ xứ Ấn Ðộ
gồm nhiều tiểu-quốc, khi hòa khi chiến với nhau như đời Chiến-quốc bên Tàu. Tuy
thế, đại-cuộc vẫn thu về nước Ma-kiêt-đà (Magatha) như nhà Chu ở Trung-Quốc đối
với các nước chư-hầu vậy. Nước này lớn nhất ở phía nam sông Hằng-Hà (Gange) làm
trung tâm cho toàn xứ Ấn Ðộ. Ơí phía Bắc xứ Ấn Ðộ, gần dưới chân dãy núi
Hy-mã-lạp-sơn (Bây giờ là nước Népal) có một Quốc-độ tên là Ca-tỳ-la-vệ
(Kapilavastu). Vua trị-vì nước này là Tịnh-Phạm-Vương (Sudhodana) thuộc
giai-cấp Sát-dế-ly (Kastrya) dòng Kiều-Tât-la (Gotama) là một đại quý tộc ở Ấn
Ðộ. Bà Hoàng-Hậu, vợ của vua Tịnh-Phạn là Ma-Gia (Maha-maya) đến 45 tuổi mới có
thai.
Theo tục lệ Ấn Ðộ, gần
ngày sinh, Hoàng-Hậu trở về nhà cha mẹ là vua A-Nậu-Thích-Ca (Anucakya) ở nước
Câu-Ly (Koli). Một buổi bình minh, Hoàng-Hâu ra dạo chơi trong vườn hoa
Lâm-Tỳ-ny (Lumbini) và sinh hạ Thái-tử ở đấy. Thái-tử được đặt tên là
Tất-Ðạt-Ða (Siddharta) và theo tục lệ Ấn Ðộ lấy họ mẹ là Thích-Ca (Cakya). Sau
khi đã sanh Thái-tử Tất-Ðạt-Ða được 7 ngày, Hoàng-hậu Ma-Gia tạ thế. Em
gái của hoàng hậu là Ma-Ha-Ba-Xà-Ba-Ðề (Maha-Prajapati) thay chị nuôi Thái-Tử Tất-Ðạt-Ða
cho đến lớn.
Thái-tử Tất-Ðạt-Ða, sau
này tức là Ðức Phật Thích-Ca Mâu-ni, vị Giáo-chủ từ-bi và trí-huệ của Ðạo Phật.
c)Hình-tướng và tư-chất
Hình tướng của Thái-Tử
có những nét đặc biệt hơn người thường: Ngài có ba mươi hai tướng quý và tám mươi
vẽ đẹp. Cho nên khi xem tướng Ngài, Ðạo sĩ A-Tư-Ða (Asita) đã tiên đoán sau này
Ngài sẽ thành Phật, làm chủ cả tam thế, dắt đường chỉ nẻo cho chúng sinh thoát
khỏi bể khổ luân-hồi.
Thuở thơ ấu, tư chất
thông minh và tánh tình đức-độ của Ngài đã biểu lộ một cách rỏ rệt. Những
Ðạo-sĩ thông thái, những Vỏ-sĩ tài danh điều được Tịnh-Phạn vương mời đến dạy
cho Thái-Tử; và chẳnh bao lâu Thái-Tử đã trở thành một vị văn vỏ toàn tài,
không ai sánh kịp.
Cùng một nhịp với
tài-năng, đức-độ của Ngài cũng được phát triển một cách vô cùng nhanh chóng và
sâu rộng. Tình thương của Ngài lan tràn, bao phủ tất cả mọi vật mọi người.
Và củng do tư chất thông
minh nhìn thấy rỏ được tánh cách giả dối, vô thường của sự thế, và lòng thương
vô hạn, không thể ngồi yên để nhìn thấy sự rên-siết, khổ đau của cỏi đời, nên
tâm-hồn của Ngài không bao giờ được yên ổn. Ngày đêm, Ngài luôn luôn nghĩ đến
phương pháp cứu khổ cho chúng sinh.
Vua Tịnh-Phạn, để làm
khuây-khỏa lòng con, truyền dựng lên một cung điện nguy nga, bày đủ trò đàn ca
múa hát bao vây lấy Thái-Tử, và còn cưới cho Ngài một người vợ tuyệt-thế
giai-nhân làm nàng Da-Du-Ðà-La (Yosodhara) nhưng Thái-Tử vẫn không khuây nổi
buồn mênh mông của cõi thế.
d) Xuất-gia . -Năm ngài
mười chín tuổi (có chổ nói 29 tuối) sau khi đã để lại cho Tịnh-Phạn vương một
người cháu nội là La-Hầu-La(Lahula).Thái-Tử quyết -định rời bỏ Hoàng-gia, từ bỏ
cuôc đời vinh- hoa phú-quy, trốn ra khỏi hoàng-thành, cắt tóc vào rừng sâu mong
được yên-tĩnh để tìm nghĩ phương -pháp cứu độ chúng-sinh thoát khỏi vòng khổ ải
và đưa họ lên bờ giác -ngô vĩnh-viễn yên vui. Ban đầu Ngài phải đi tìm học hỏi
với những đạo- sĩ danh-tiếng nhất Ấn- Ðộ thời bấy giờ, nhưng rồi Ngài nhận thấy
chân-lý và lối tu hành của họ cũng không có gì là siêu-thoát. Từ đó, Ngài đi
vào ẩn trong dãy núi Tuyết-Sơn, phải tự mình tu luyện để tìm ra cái đạo giải
thoát như ý Ngài mong muốn. Trong sáu năm tròi tu khổ-hạnh,Ngài củng chưa
thu-thập được-kết quả gì khả-quan.Bấy giờ, Ngài mới đi đến
núiTượng-Ðâù(Gajasirsa) bên bờ sông Ni-Liên-thuyền. Sau khi tắm rưã xong Ngài
thọ bát cháo sữa (đè-hồ) của mấy nàng mục-nữ cúng. Rồi Ngài đi đến dưới gốc cây
Tất-bát-la (Pippale, sau này người đời gọi là cây Bồ-đề nghĩa là cây giác ngộ,
để kỷ niệm sự giác ngộ cuả Ðức Phật dưới gốc cây ấy). Ngài ngồi thiền-định ở đó
và thề rằng:
"Nếu ta ngồi đây mà
không chứng được đạo-quả, thì dù thịt nát xương tan,ta quyết không bao giờ đứng
dậy".
d)Thành đạo và thuyết
pháp độ sinh.-ngài ngồi thiền định dưới gốc cây Tất-bát-la, cho đến ngày thứ
bốn mươi chín, lúc sao mai vừa mọc, thì Ngài hốt-nhiên đại -ngộ, thấy được chân
lý của vũ trụ và nguồn gốc sinh tử của chúng -sinh. Ngài đã thành Phật với danh
hiệu làPhật Thích-Ca-Mâu-Ni (Cakya Muni).
Sau khi thành đạo trong
khoảng thời gian bốn mươi chín năm(Có chổ chép là bốn mươi lăm năm) đức Phật
chu du khắp cả các lưu vực sông Hằng, đem đạo vô thượng của ngài giáo hóa chúng
sinh, không phân biệt già trẻ, nam nữ, giàu nghèo, sang hèn, màu da, chủng tộc,
trí thức hay ngu si.
Nhờ lòng từ bi không bờ
mé, đức hy sinh rộng lớn vô biên, Ngài đã giảng nói pháp trên năm trăm hội,
hóa-độ vô số quần-sinh, thoát vòng mê-mờ khổ não. Và do đó, đạo Phật được thành
lập trên cõi đời.
e)Phật nhập
Niết-bàn.-Vào năm 554 năm Trước tây-lịch (tính đến năm 1964 tức là:
1964+554=2508 năm) Ðức Phật bây giờ đã 80 tuổi. Nhận thấy chiếu nguyện của mình
đã thực hiện, nhiệm vụ độ sinh của mình đã đầy đủ, một hôm, đức Phật cho hội đệ
từ của Ngài lại, ban những lời di chúc cặn kẽ, rồi từ giã cõi đời một cách bình
thản, giản dị móc ở giữa hai cây bông vải (Cala) ngoài châu thành Câu-thi-la
(Kusivagarâ),
Như thế ấy, một cuộc đời
vô cùng vĩ dại đã xuất hiện và biến ẩn như một luồng ánh sáng mầu nhiệm khi đã
đánh dấu ba giai đoạn lớn một cách vô cùng giản dị và đầy ý nghĩa:
-Ra đời bên cạnh một gốc
cây
-Thành đạo bên một gốc
cây
-Và lìa đời ở giữa hai
cành cây !
II.-Lịch Sử Truyền Bá
Phật Giáo Tại Ân Ðộ
1.-Bốn thời kỳ kiết
tập kinh-điển.-Bốn tháng sau khi Ðức Phật nhập niết-bàn, Ngài Ma Ha Ca Diếp
(MaHa Kasypa) thay Phật thống suất tăng-chúng đã triệu-tập một hội nghị gồm
khoảng 500 đại đệ-tử của Phật, ở thành Vương-Xá ( Rajagrika) để giảng tụng lại
những giáo-lý mà Ðức Phật đã dạy. Trong hội-nghị đầu tiên này, Ngài Ma Ha Ca
Diếp được suy tôn ngồi ghế chủ-tọa; Ngài A-Nan, là Vị đệ-tử thường theo Phật
nghe nhiều và nhớ lâu, được cử ra tụng lại những lời dạy của Phật; còn Ngài
Ưu-Ba-Ly (Upali) là vị đệ-tử thông-suốt và nghiêm-trì giới luật nhất, được cử
ra tụng giới-luật. Hội nghị này đã kết-thúc sau bảy tháng làm việc và 500 vị
đại đệ-tử đều công nhận đó là những lời chân thật của Phật.
Ðại-hội này được
mệnh-danh là "Kỳ kết-tập thứ nhất ".
b). Kỳ kết-tập thứ hai.
-Khoảng một trăm năm sau khi Phật nhập- diệt , vì có sự bất đồng về giới-điều,
nên tăng chúng chia làm hai nhóm, họp riêng ở hai thành Vaisaly và Vàjji.
Nhóm tăng-sĩ họp ở thành
Vaixaly do sự triệu tập của Ngài trưởng-lão Yasa thọ 165 tuổi, gồm có 12.000
Tăng-sĩ, nhưng trong số ấy chỉ có 700 vị lão-thành mới có quyền biểu- quyết .
Hội-nghị này họp dưới quyền chủ-tọa của Ngài Revala và đồng-thanh biểu-quyết:
"Không nên sữa đổi cho sai những điều luật của Phật đã truyền đạo mặc dù
Ðức-Thề-Tôn đã có di-huấn rằng nếu chư Tăng đồng ý cung 2 nhau là thấy
điều-luật nào của Như-Lai đã chế-định là ít quan-trọng và không thể thụ-trì
được nữa, thì được phép sữa chửa".
Trong khi ấy thì nhóm
Tăng-sĩ ở thành Vajji họp dưới quyền chủ-tọa của đại-đức Vajjiputra lại
chấp-thuận. Trong kỳ kết-tập thứ hai này chỉ đặt trọng tâm trong việc
giải-quyết về giới-luật mà thôi. Tuy thế, Tăng-đồ cũng chia thành hai phái rõ
rệt. Phái do Ngài Yasa triệu-tập và giữ đúng giới-luật của Phật, thì gọi là
phái nguyên thủy (Théravadins) hay thượng-tọa bộ.
Phái do Ngài Vajjiputra
sữa đổi mười điều luật của Phật thì gọi là phái Tiến-thủ, hay là Ðại-chúng bộ
(Mahasanghikas).
Từ đấy, Phật Giáo chia
ra hai phái rỏ rệt và là cội rể cho hai mươi tôn-phái sau này.
c). Kỳ kết-tập thứ
ba:Hơn hai thế-kỷ sau ngày Phật nhập-diệt ( 274 năm trước tây lịch), Hoàng-Ðế
A-Dục lại triệu-tập 1000 vị Ðái-trưởng-lão Uyên-thân đê kết-tập kinh điển tại
thành Pataliputra ( tức là Bihar và Patra ngày nay ) duới quyền chủ tọa của
Ngài Mục-Kiền-liên Tu-Ðế(Mogaliputta Tissa). Sau chín tháng làm việc,hội nghị
đã hòan- thành công -tác k61t-tập kinh-điển,ngòài ra lại còn chỉnh- đốn Tăng-
giới, bài trừ những hạng Tu-sĩ phạm trai, phá giới, vô kỷ -luật.
d)Kỳ kết-tập thứ tư
.-Vào khoảng 600 năm sau khi Phật nhập -diệt ,nghĩa là vào thế-kỷ thứ nhất
Tây-Lịch,Vua Ca-Ni-Săc-Ca (Kaniska) một vị Ðại-Ðế Ấn Ðộ, có tâm hộ pháp chẳng
thua gì Vua A-Dục, đã triệu tập 500 vị Bồ Tát, 500 vị Tỳ-kheo cùng 500 người
tại-gia cư-sĩ, tại thành Ca-Thập-DiLa để kết-tập kinh-điển dưới quyền chủ-tọa
của hai Ngài Hiếp-Tôn-Giả và Thế Hữu.
Kỳ kết-tập này gọi là kỳ
kết-tập lần thứ tư.
Trong bốn kỳ kết-tấp này
thì hai kỳ đầu chưa cần đến sự biên chép,nghĩa là chỉ đọc tụng lại, xem lời lẽ
nào là của Phật đã nói ra, hay xét những ý nghĩa nào là đúng với chánh-pháp.
Ðến thời kỳ thứ ba và
thứ tư mới dùng đến văn-tự để biên chép thành sách -vở. Trong sự biên chép này,
chư Tăng chia làm hai phái: Phái Nam thì ghi bằng văn Pali, còn phái Bắc thì
ghi bằng văn phạn.
2.-Nam -phương và
Bắc-phương Phật Giáo. -Như trên đã nói, vì kinh-điển được ghi chép bằng hai
thứ văn: Pali và Phạn, nên những xứ nói tiếng Pali thì kinh-điển bằng Pali được
truyền bá,còn những xứ dân chúng nói tiếng Phạn thì kinh-điển bằng Pali được
truyền-bá, còn những xứ dân-chúng nói tiếng Phạn thì kinh-điển bằng Phạn-văn
được truyền tụng. Nếu lấy Trung Ấn Ðộ là cứ-điểm, thì những xứ phía Nam Ấn Ðộ
và lan ra đến những xứ Tích-lan, Miến-điện, Thái-lan, Ai-lao, Cao-mien ...đều
theo kinh điển Pali, nên cũng gọi là Nam-phương Phật Giáo.
Còn những xứ thuộc Trung
Ấn Ðộ, Bắc Ấn-Ðo ảvà lan ra đến Nêpal, Tây-tạng, Trung- hoa, Việt-nam, Cao-ly,
Nhật-bổn...thì lại căn-cứ theo kinh điển chữ Phạn, và được gọi là Bắc-phương
Phật Giáo.
Nam-phương hay
Bắc-phương Phật Giáo đều thờ chung một đấng giáo-chủ là Ðức Phật Thích-ca và
đều tuân theo những yếu điểm mà Phật đã dạy. Tuy thế, tùy theo căn-cơ, tâm-lý
và ảnh hưởng văn hóa cùng đời sống của dân chúng có khác nhau giữa Nam và
Bắc-phương mà phương pháp tu hành và sự phát huy giáo lý có điểm dị và đồng.
Bắc-phương phần nhiều đi về lối tung-hoành, phát-triển, phóng-túng không câu nệ
về hình thức. Nam-phương thì lại có tánh-cách thủ-cựu, trung thành với Phật Giáo
Nguyên-thủy, tôn-trọng hình-thức. Do đó mà có hai phái: Tiểu-thừa Phật Giáo ở
Nam-phương và Ðại-thừa Phật Giáo ở Bắc-phương.
3.- Sự phát-triển của
Ðại-thừa và Tiểu-thừa . Ở đây vì chúng ta còn đang ở trong phần lịch sử
truyền bá Phật Giáo, nên chưa vội đề-cập đến sự sai khác giữa giáo-lý Ðại-thừa
và Tiểu-thừa . Chúng ta hãy khu-biệt vấn-đề và nói đến sự phát-triển của hai
phái ấy ở Ấn Ðộ như thế nào mà thôi.
Sự phát-triển của các
bộ-phái Tiểu-thừa .- Như chúng ta đã biết, nguyên-nhân Tiểu-thừa chia ra làm
hai bộ-phái, vì trong kỳ kết-tập lần thứ hai, về vấn-đề giới-luật có chổ
bất-đồng, Tăng-chúng mới chia ra làm hai phái: Một phái gồm các vị Trưởng-lão
gọi là Thượng-tọa-bộ; và một phái gồm phần nhiều các vị Tăng-sĩ trẻ tuổi, nhưng
rất đông đảo, gọi là Ðại-chúng-bộ.
Trong khoảng thời-gian
100 năm sau kỳ kết-tập lần thứ hai ấy, Ðại-chúng-bộ lần lượt chia ra tám
bô-phái như sau:
-Nhất-thuyết-bộ
Lần thứ nhất chia làm ba
bộ -Thuyết-xuất-thế-bộ
-Kê-dẫn-bộ
Lần thứ hai chia ra một
bộ nữa là -Ða-văn-bộ
Lần thứ ba chia ra một
bộ nữa là -Thuyết-giả-bộ
-Chế-đa-bộ
Lần thứ ba chia ra một
bộ nữa là Tây-sơ-bộ
Bộ nữa là: Bắc-sơn-bộ
Như thế là từ một bộ
phái chính là Ðại-chúng-bộ mà lần lượt chia làm tám chi bộ (cộng là 9 bộ).
Trong lúc ấy thì bên Thượng-tọa-bộ ban đầu sống một cách yên-ổn trong núi
Ca-Tháp-di-la, nhưng theo với thời-gian, cũng phân phái dần, và cuối cùng gồm
những bộ như sau:
1. Thuyết-nhứt-thế-hữu
bộ
2. Ðộc-tử bộ
3. Pháp-thượng bộ
Thượng-Tọa-Bộ 4. Hiền-vị
bộ
5. Chánh-thượng bộ
6. Mật-lâm-sơn bộ
7. Hóa-địa bộ
8. Pháp-tạng bô
9. Âm-quang bô
10.Kinh-lượng bộ
Tóm lại, bên phía
Thương-Tọa-bộ, từ căn-bản (Thương-Tọa-bộ) đến chi nhánh, gồm cả thảy 11 bộ.
Nếu tổng cộng cả
Thương-Tọa-bộ lãnh Ðại chúng bộ, thì Tiểu-thừa gồm cả thảy là 20 bộ.
b) Sự phát triển của
phái Ðại-thừa.
Mặc dù trong giáo-lý của
Ðức Phật có gồm cả ý nghĩa Tiểu-thừa lẫn Ðại-thừa, nhưng trong bốn, năm thế-kỷ
đầu của Phật-lịch, vì căn- cơ của Tăng-sĩ và tín đồ Ấn Ðộ thích hợp với
Tiểu-thừa hơn, nên giáo-phái Tiểu-thừa được phát triển mạnh. Nhưng từ thế kỷ
thứ nhất Tây-lịch, hay thứ sáu Phật-lịch, giáo -lý Ðại-thừa bắt đầu phát-triển
mạnh ở phía Bắc Ấn Ðộ và dần dần lan rộng ở Bắc-phương.
Công đầu tiên, nhờ đó
Ðại-thừa Phật Giáo được phát-triển mạnh là của Ngài Mã-Minh.
Ngài Mã-Minh, người ở
Bắc Ấn Ðộ, sanh vào thế-kỷ thứ nhất Tây-lịch, lúc đầu theo ngoại-đọa, có tài
biện-bác, sau vì biên-luận thua Ngài Hiếp-Tôn-Giả, nên mới quy-y theo Phật
Giáo. Chính Ngài là tác-giả bộ luận Ðại-thừa Khởi-tín, Ðại-thừa Trang-nghiêm
kinh luận, và nhờ sự hộ-pháp đắc-lực của Vua Ca-Ni-Sắc-Ca,Ngài đã phục-hưng và
truyền-bá môt cách mạnh-mẽ giáo-lý Ðại-thừa.
Một trăm năm sau, nối
tiếp sự nghiệp của Ngài Mã-Minh, có Ngài Long-Thọ ở nước Tỳ-Dạt-La (Nam Ấn Ðộ)
có Thiên-Tư rất tốt, lúc còn nhỏ đã thông-hiểu những kinh-giáo của Bà-La-Môn,
Phệ-Ðà..., tinh-thông cả Thiên-văn, địa-lý, y-học, số-học. Ban đầu Ngài tu theo
Tiểu-thừa, sau Ngài nghiên-cứu giáo-lý Ðại-thừa và làm ra những bộ luận
Trung-quán, Thập-nhị-môn, Trí-độ...để phá-trừ tà-chấp, chỉ rỏ chánh-lý
Ðại-thừa, và đi chu-du các nước để hàng-phục ngoại-đạo. Ðại-thừa nhờ đó ngày
một thêm tỏ rạng.
Nối tiếp Ngài Long-Thọ
có hai vị đệ-tử là Ngài Long-Trí và Ðề-bà là những người có công lớn trong việc
phát dương Ðại-thừa.
Sau khi Phật nhập Niết-bàn
hơn 900 năm, nghĩa là khoảng thế-kỷ thứ tư Tây-lịch, có hai anh em Ngài
Vô-trước và Thế-thân, sanh ở Bắc Ấn Ðộ, trước theo Bà-la-môn giáo, sau quy-y
theo Phật.
Ngài Vô-trước là anh,
giác ngộ giáo-lý Ðại-thừa trước, còn Ngài Thế-Thân ban đầu tu học giáo-lý
Tiểu-thừa, sau nhờ anh là Ngài Vô-trước hướng-dẫn sang Ðại-thừa. Từ đó hai anh
em tích-cực phát-dương giáo-nghĩa Ðại-thừa Duy-thức và làm ra các bộ:
Hiển-Dương Thánh-giáo luận, Nhiếp-Ðại-thừa luận...cả hai Ngài đều chủ trương về
Duy-thức, biên rỏ cái lý:"Tam giới duy tâm, vạn pháp duy thức". Do
đó, học thuyết của hai Ngài gọi là Pháp-tướng Duy-thức-học, và hai Ngài được
xem như là khai-tổ của Pháp-tướng Duy-thức-học.
Ảnh hưởng của hai Ngài
nối tiếp lan rộng sang đến thế-kỷ thứ 10 Tây-lịch và làm cho Ðại-thừa Phật Giáo
ở Ấn Ðộ được phát-triển một cách rực-rỡ, và lu-mờ giáo-lý Tiểu-thừa .
4- Sự suy-tàn của Phật
Giáo tại Ấn Ðộ -Vào khoảng 2000 năn sau khi Phật nhập -diệt, đạo Phật ở Ấn Ðộ
lu -mờ dân và hầu như không còn vang bóng gì nữa. Nguyên-nhân của sự suy-tàn ấy
có thể quy vào ba lý-do sau đây:
a.-Ðạo Bà-La-Môn, trước
thời kì Ðức Phật xuất hiện là một Tôn-giáo độc-tôn ở Ấn Ðộ. Nhưng từ khi đạo
Phật ra đời và càng ngày càng được phát-triển mạnh vì tinh-thần từ-bi bình-đẳng
và ánh-sáng rực-rỡ của trí-huệ Ðạo Bà-La-Môn mất dần thân-thế và lui mãi vào
trong bóng tối. Nhưng những vị lãnh đạo tôn-giáo ấy không ngã lòng, một mặt họ
lo tu-chỉnh giáo-lý của họ, một mặt họ thanh-lọc hàng ngũ và dựa vào thế-lực
của chính-quyền, dần dần họ chiếm lại địa-vị cũ và hết sức bài-xích Phật Giáo.
b.-Hồi -giáo là một
tôn-giáo nguyên ở Thổ -Nhĩ -Kì (Turquie) khi đã xâm nhập Ấn Ðộ bằng quân-sự, đã
dùng những thủ-đoạn khốc-liệt để hủy diệt chánh-pháp, tàn hại Phật Giáo bằng
cách đập tháp, phá chùa, đốt kinh-điển, giết hại Phật-tử. Do đó, đạo Phật hầu
như không còn chổ đứng ở Ấn Ðộ nữa.
c.-Lý do thứ ba là lý do
nội-lai. Nếu chỉ vì hai lý do ngoại-lai nói trên, thì đạo Phật ở Ấn Ðộ không dễ
gì bị tiêu-diệt một cách nhanh chóng như thế. Sự suy-sụp Phật Giáo ở Ấn Ðộ còn
là sự suy-đồi của Tăng-giới, Phật-tử thiếu tu thiếu học, thiếu tinh-thần
tiến-thủ của giới lãnh-đạo Phật Giáo Ấn Ðộ lúc bấy giờ nữa
Nếu sự phá-phách ở bên
ngoài không có sự gián-tiếp tiếp tay phá -hoại ở bên trong, thì Phật Giáo ở Ấn
Ðộ không diễn ra cái cảnh suy-tàn hoang-vắng như chúng ta đã thấy trong năm
thế-kỷ trước đây.
C.- Kết Luận
Ðức Phật đã dạy: có sanh
thì có diệt, có thành thì có hoại. Vậy sau mười lăm thế-kỷ hưng-thịnh, Phật
Giáo ở Ấn Ðộ dần dần suy-đồi cũng là một sự thường. Luật Vô-thường chi phối tất
cả những sự việc của đời này.
Và cũng do cái luật
biến-dịch, chổ này khuyết thì chổ kia bồi, làn sóng lặn ở chổ này để hưng ở chổ
khác. Ðạo Phật đã chuyển đi từ trung-tâm điểm là a đã chuyển đi từ trung-tâm
điểm là Ấn Ðộ để lan ra, hưng thịnh ở nước khác trước tiên là chung quanh Ấn
Ðộ, rồi sang Trung Hoa và dần dần lan ra khắp thế-giới.