Thí
dụ
vua Trần Nhân Tôn khi quí y thì được gọi là Điều Ngự
Giác Hoàng và tự xưng là Trúc Lâm Đầu Đà.. Vậy thì vào
lúc đó đã có pháp danh Thích chưa?
TRẢ
LỜI: Phật Giáo Việt Nam theo truyền thống Bắc tông, chịu
ảnh hưởng sâu đậm bởi PG Trung quốc, thế nên việc lấy
họ Thích làm pháp danh cũng là do Phật Giáo Trung quốc truyền
sang. Người đầu tiên trong lịch sử PG Trung Quốc sử dụng
pháp danh họ Thích là ngài Ðạo An (312-385), một danh tăng
lỗi lạc thời Ðông Tấn. Suốt đời Ngài chỉ lo hoằng dương
chánh pháp, đệ tử theo học có đến hàng ngàn người, đều
đuợc Ngài ban cho pháp danh mở đầu bằng họ Thích, vì tự
xem mình như là những trưởng tử của Như Lai (Thích tử),
nên Ngài cũng có tên là Thích Ðạo An. Trước Ngài, pháp danh
của các Tăng sĩ đều lấy tên quốc gia hay tên của thầy
mình để làm họ, ví dụ như sư phụ của Ngài là Trúc Phật
Ðồ Trừng (người nước Thiên Trúc). Ban đầu pháp danh của
Ngài lấy theo họ của Thầy là Trúc Ðạo An, sau này mới
đổi lại là Thích Ðạo An. Chúng tôi mời quý độc giả
xem bài dưới đây để biết rõ lai lịch về chữ Thích:
LUẬN
GIẢI
VỀ CHỮ THÍCH
Trích:
Giải Luận Giáo Lý của tác giả Giác Không
do
Nha Tuyên Úy Phật Giáo QLVNCH xuất bản năm 1969 tại Sài Gòn.
Gần
đây,
có nhiều người nêu ra một thắc mắc khi thấy danh
hiệu của các vị Tăng Sĩ đều mở đầu bằng chữ Thích
tỷ dụ như Thích-Tâm-Châu, Thích Tâm Giác, v.v… và do đó
nêu lên những câu hỏi:
- Chữ
Thích có nghĩa gì?
- Tại
sao người tu theo hạnh xuất thế mới dùng chữ Thích?
Người tại gia tu Phật có dùng chữ Thích được không?
- Chữ
Thích nếu là một họ thì họ ấy phát sinh tự đâu, thịnh
hành vào thời nào?
với
mục
đích diễn xướng và luận giải về chân nghĩa những
danh từ Phật Giáo, đặng làm tài liệu nhận xét chung, nơi
đây đề cập đến từng vấv đề giải đáp để cùng liễu
giải và xác luận:
I.
Chữ Thích có nghĩa gì?
Theo
sự dịnh nghĩa danh tự thông thường thì chữ Thích có nghĩa:
cổi ra, nới ra, giải thích rõ ràng nghĩa sách tỷ dụ như
chữ Thích-Hỗ là giải thích cho rõ nghĩa một chữ, một câu:
Thích Huấn là giải thích cho rõ những lời huấn giáo.
Ngoài
ra, chữ Thích lại cũng có nghĩa buông thả như trong sách có
chữ: “Kiên trì bất thích” tức là giữ vững không buông,
và, chữ “Khai thích vô cô” tức là buông tha cho kẻ không
tội.
Chữ
Thích cũng lại còn có nghĩa tiêu tan hết những nỗi sân hận
trong lòng như giảng câu “Tâm trung vi chi thích nhiên” phải
hiểu rằng trong lòng đã được tiêu tan hết cả phần nào
điều sân hận không còn vướng vấp một chút ân hận, não
phiền gì nữa.
Tuy
nhiên, chân nghĩa chữ Thích mà các vị tu hành đặt trước
pháp hiệu chỉ có nghĩa đơn thuần là:
a)
coi mình là Thích tử, tức là đệ tử của Phật, bởi theo
quan niệm Trung-Hoa từ đời Tấn cho rằng những ai theo đạo
của đức Thích-Ca phải nên lấy theo họ Thích mà chữ Thích
tức là họ Thích-Ca cho dễ xưng hô.
b)
một vị tu theo hạnh khoáng nhiên không vướng mắc phiền
não thế cảnh.
Tóm
lại
thì chữ Thích chư Tăng hay dùng là theo họ Phật Thích-Ca,
ngụ kỳ chung còn có ý nghĩa hiểu rành sự lý, tâm hồn buông
thả, tiêu hết não phiền, không còn mảy may trần lụy.
II.
Tại sao người tu theo hạnh xuất thế mới dùng chữ Thích?
Người tại gia tu phật có dùng chữ Thích được không?
Thật
ra, khi Phật giáo truyền qua Trung-Hoa vào khoảng thời Hán,
những vị mặc dầu tu theo đạo Phật, trở thành Tăng-sĩ
có bỏ đi giòng họ thế tục, nhưng thường theo hai điều
kiện:
1.
Tự đặt cho mình theo họ Trúc có nghĩa tu theo nguyên tắc
tu trì của các bậc Tăng-Già từ Tây-Trúc truyền sang.
2.
Hoặc theo họ của bậc Sư-Trưởng đã truyền giáo cho mình
tỷ dụ như Ngài Chi-Tuần nguyên trước họ Quan, nhưng vì
thụ giáo với ngài Chi-Khiêm nên đổi thành họ Chi, ngài Bạch-đạo-Hiển
nguyên họ Phùng nhưng học thầy là Bạch Thi Ly Mật nên đổi
thành họ Bạch v.v…như vậy là khi đạo Phật mới truyền
qua Trung-Hoa từ đời Hán, khoảng 25 - 220 T.L. hầu như theo
một tục lệ thông thường như vừa trình bày. Kịp đến
thời Đông-Tấn khoảng 317 - 349 T.L. Ngài Đạo-An người
Thường-Sơn, tỉnh hà-Bắc, sinh năm 312, xuất gia từ 12 tuổi,
học hạnh rất siêu việt đã đề xướng việc cải biến
để những vị tu hạnh xuất-gia theo Phật nên theo họ của
Phật, và do đó, những Tăng-sĩ thụ đại-giới (Giới
Tỳ Khưu: 250 giới) lấy theo họ Thích tử.
Viện
dẫn lý do này, Ngài Đạo-An nêu ra một đoạn trong kinh Tăng-Nhất
A-Hàm có chép: “Bốn con sông lớn chảy vào bể cả, tự
nó không còn danh tự gốc của con sông mà chỉ có danh tự
là “bể cả”. Việc định họ cho người tu hành
cũng như thế. Xưa ở Ấn-Độ có 4 giòng họ là: Sát-Lỵ,
Bà-La-Môn, Trưởng-giả, Cư-sĩ. Đối với những ai gọt
bỏ râu tóc, khoác 3 tấm áo pháp như Phật chế định, nguyện
xin xuất gia học đạo thì không còn giữ giòng họ gốc mà
chỉ kêu là: Sa-Môn tức là đệ-tử của đức Phật Thích-Ca
mà thôi.
Trong
kinh Đại-Bát Nhã xác định rằng: “Phi sa-Môn, phi Thích-Ca
tử” có nghĩa nếu không phải là bậc Sa-Môn tức là bậc
xuất-gia theo Phật thì chưa phải là đệ-tử của đức Thích-Ca.
Bởi
những lý do trên, chỉ khi nào phát nguyện xuất-gia và đã
thụ đại-giới mới được xưng là thuộc giòng họ Thích
tức là đệ-tử chính của Phật và sau nầy coi các bậc Tỳ-Khưu
là hàng trưởng-tử của Phật nên được đổi họ thế gian
mà lấy theo họ Thích vậy.
III.
Chữ Thích nếu là một họ thì họ ấy phát sinh tự đâu?
Thịnh
hành
vào thời nào?
Đúng
ra họ Thích-ca là họ của đức Phật mà theo lịch sử là
một giòng họ quý tộc trước đó kêu là Sát-Lỵ mà sau đổi
ra là Thích -Ca (Sakya).
Theo
kinh điển ghi chép thì 10 vị đại đệ-tử của Phật như
Ma-Ha Ca-Diếp, Mục Kiền Liên, Tu-Bồ-Đề v.v… không dùng
họ Thích mà khi Phật-Giáo truyền qua Trung Hoa tới thời nhà
Tấn, Ngài Đạo-An xướng xuất việc lấy họ Thích làm họ
cho người đi xuất-gia, rồi từ sự kiện, chính Ngài theo
phong tục cổ truyền, trước đó theo học với Ngài Trúc-Phật
Đồ-Trừng ngài Đạo-An lấy luôn tên là Trúc Đạo An và
sau vì lấy cớ những người đi xuất-gia đều lấy đấng
Thích-Tôn làm gốc, vì thế Ngài đổi tên là Thích-Đạo-An
cho đến sau nữa Ngài Thích-Tuệ-Viễn nối nghiệp thầy mà
cũng xưng là Thích-Tuệ-Viễn. Kịp đến thời nhà Đường,
Ngài Tuệ-Năng khi dâng sớ lên Vua Đường Cao -Tôn để xin
cáo từ việc cớ già yếu hay bệnh cũng xưng là Thích-Ca Tuệ-Năng.
Như
thế, họ Thích là sự thay đổi của giòng họ Sát-đế-Lỵ,
một giòng họ quý phái thuộc Ấn-Độ, cho đến khi Phật-Giáo
truyền qua Trung-Hoa và thịnh hành từ sau sự khởi xướng
của Ngài Đạo-An thời Đông-Tấn.
Riêng
tại Việt-Nam có lẽ cũng chỉ quan niệm một vị xuất gia
theo Phật là thuộc giòng Thích-tử, còn trong sử sách,
danh hiệu các vị Thuyền-sư không mấy khi có thêm chữ Thích,
ví dụ như Ngài Cảm-Thành, Ngài Khuông-Việt, Ngài Viên Chiếu
v.v… Cho mãi đến thời gần đây mới có Điều-Ngự-Tử
Thích-Mật-Thể, một vị khởi xướng dùng chữ họ
Thích để ký tên trong văn liệu là cuốn Việt-Nam Phật Giáo
Sử Lược ấn hành vào năm 1943 và có thể là một khởi
đoan phong trào lấy họ Thích đối với Tăng chúng Việt-Nam.
Tóm
lại, chữ Thích là danh xưng của một giòng họ y theo giòng
họ của đấng Bổn-Sư Thích-Ca Mâu-Ni Phật, có nghĩa theo
chữ Phạn Sakya tức là bậc Năng-nhân tức là một bậc có
năng lực phát hiện tấm lòng nhân từ vô lượng.
Ngoài
ra, theo chân nghĩa thế gian thì chữ Thích cũng có nghĩa khiến
lòng mình tiêu tan hết mọi phiền não, một hạnh quý giá
của người tu hành những pháp môn quý giá. Do đó, chỉ những
vị nào đã thụ đại-giới tức là một vị chính thức gia-nhập
Thích-Môn mới được coi là hàng Thích-Tử.
Cũng
vì thế, những người tại gia cho đến hàng Sa-Di mà lấy
họ Thích là một sự kiện tiếm xưng, và cũng nhân
y theo chân nghĩa luận giải, những vị nào dù có hình tướng
xuất-gia mà không giữ theo giới hạnh của bậc xuất-gia
mà dùng chữ Thích cũng là tiếm xưng họ Phật, bởi
những người tu hành mà không giữ giới thì không còn Tăng
cách và không xứng đáng là người Thích-Tử nữa vậy.
Họ
Thích rất cao đẹp, nhưng phải được nêu lên đối với
những bậc tu hành chân chính, đầy đủ đức hạnh đáng
cho tín đồ củng phục thì không cần phải xưng họ Thích
mà thiên hạ đều tôn là bậc xứng đáng trong giòng họ Thích-Ca
vậy.
Trích:
Giải Luận Giáo Lý của tác giả Giác Không do Nha Tuyên Úy
Phật Giáo Quân Lực Việt Nam Cọng Hòa xuất bản năm 1969
tại Sài Gòn.
thuvienhoasen