1. Khái quát về Na Lan Đà
Lối vào khu phế tích Na Lan Đà (Nālandā) Ảnh: Tâm Bửu
Na Lan Đà (Nālandā) là một di tích quan trọng trong lịch sử phát
triển Phật giáo tại Ấn Độ nói riêng và trên toàn thế giới nói chung,
vì đây là trường Đại học Phật giáo đầu tiên trên thế giới, nơi có một
quy cách giáo dục gương mẫu, có tầm vóc rất lớn, tiếng tăm lừng lẫy,
lưu danh cho đến ngày nay. Mặc dù trường đại học Na Lan Đà không
phải là khu thánh địa tâm linh quan trọng như những thánh tích liên
quan đến cuộc đời đức Phật, nhưng nơi đây cũng là khu đất thiêng đã
sản sinh ra các bậc thánh tăng tiêu biểu từ thời đức Phật như Xá Lợi
Phất, Mục Kiền Liên và các bậc cao tăng làu thông tam tạng truyền bá
Phật giáo sau này như Ngài Long Thọ, Vô Trước, Thế Thân, Trần Na, Giới
Hiền.... và đặc biệt nhất là danh nhân Phật giáo mà ai cũng từng biết
đến với lòng kính trọng và khâm phục một cách chân thành đó là đại
học giả thông bát kinh luật tam tạng pháp sư Trần Huyền Trang, một
bậc cao tăng Trung Quốc thời thịnh Đường. Với tầm vóc lớn lao và
trung tâm giáo dục không chỉ dành cho Phật giáo mà còn là nơi đào tạo
cả thế học như văn học, nghệ thuật, y dược, ngôn ngữ, tôn giáo,
triết học.... trong một quy củ vô cùng nghiêm túc và đáng tin cậy
nhất thời bấy giờ. Na Lan Đà xứng đáng là nơi ngưỡng mộ của hầu hết
các học giả Đông Tây. Trong quyển Đường Về Xứ Phật, Hòa
thượng Minh Châu có sánh ví Na Lan Đà bằng một lòng tôn trọng: Nếu Bồ
Đề Ðạo tràng là nơi đức Phật viên thành Chánh pháp thì Na Lan Đà là
đất thiêng đã truyền chiếu ánh sáng ấy đến với vô số người, ở khắp
nơi trên thế giới.
Nếu Lộc Uyển là thánh địa, bởi ở đó đức Phật đã Chuyển pháp luân
lần đầu tiên thì Na Lan Đà là đất thiêng đã hoằng truyền chánh pháp,
trong một thời gian dài hơn ngàn năm.
Nếu Câu Thi Na là Thánh địa, bởi ở đó đức Phật đã nhập Niết Bàn
thì Na Lan Đà là đất thiêng đã chứng kiến sự viên tịch của Tôn giả
Xá Lợi Phất ...
Giờ đây chúng ta cùng tìm hiểu một vài sự kiện trọng đại liên quan
đến Na Lan Đà, nơi được xem như là một trong những khu thánh tích
quan trọng của Phật giáo.
2. Trường đại học Na Lan Đà xưa và nay
Một phần khu phế tích Na Lan Đà Ảnh: Tâm Bửu
Hôm nay vì trời mưa nên đoàn chúng tôi không được thoải mái lắm
trong lúc làm việc. Hình ảnh không được rõ so với trời nắng và màu
sắc các bức tường gạch cũng biến đổi ít nhiều so với màu nguyên thuỷ.
Tuy vậy lượng khách tham quan trong nước cũng như ngoài nước đến
viếng rất đông. Lối vào khu Na Lan Đà (Nālandā) rất đẹp, dù trời có
nắng thì khách tham quan vẫn cảm thấy mát mẻ bởi những hàng cây thẳng
tắp, tàng dang rộng che phủ cả lối đi. Trước khi vào bên trong khu
thánh tích giữa bùng binh lối đi, có tấm bảng bằng bê tông nằm ngang
tương đối thấp, mặt trước ghi là: công trình khảo sát khảo cổ học Ấn Độ
(Archaeological servey of India), mặt sau từ bên trong nhìn ra ghi
là: hãy cùng nhau bảo vệ di sản văn hoá (Come forward to preserve
heritage). Hoa kiểng xung quanh cũng được bàn tay con người chăm sóc
khá chu đáo.
Trường đại học Na Lan Đà cách Vương Xá, nay là Rajgir, khoảng 15
km, và cách thủ phủ Patna, hướng Đông Nam, khoảng 95 km, là một thị
trấn thịnh vượng, cư dân đông đúc thuở xưa. Vì là trường đại học Phật
giáo nên tên nguyên thuỷ của nó là Mahavihara Nālandā, nghĩa là Đại
Tinh Xá Na Lan Đà, gọi tắt là Nālandā. Na Lan Đà được thành lập
khoảng thế kỷ thứ II và phát triển mạnh khoảng từ thế kỷ thứ IV Tây
lịch. Với quy mô đầu tiên cũng giống như các trường đại học khác
nhưng dần dần được phát triển trở thành tầm vóc quốc tế, và quy củ
rất đặc trưng mà khoảng thế kỷ thứ VII Ngài Huyền Trang đến tham học
đã tán thán rằng: “Số Tăng sĩ đông đến vài ngàn đều là những bậc tài
năng xuất chúng. Những bậc này phần nhiều là những vị kỳ tài, danh
tiếng vang đến cả nước ngoài. Ðức hạnh của những vị này hoàn toàn
thanh tịnh, không thể chê trách gì. Họ theo giới luật một cách chơn
thành. Qui luật của tu viện rất nghiêm khắc và tất cả Tăng sĩ đều
phải tuân theo. Cả nước Ấn Ðộ đều kính phục và tuân theo những lời chỉ
dạy của những vị này”. Chư vị Viện trưởng tiền bối ngôi trường này là
những bậc cao tăng lỗi lạc, tài đức vẹn toàn, là những bậc tên tuổi
được biết đến ngày nay như: Long Thọ (Nagarjuna), vị Viện trưởng đầu
tiên giải thích giáo lý Ðại thừa; Thánh Thiên Đề Bà (Arya Deva),
Ngài Vô Trước (Asanga), Thế Thân (Vasubandhu).... là những vị Viện
trưởng kế tiếp lãnh đạo Na Lan Đà. Rồi đến Ngài Trần Na (Dinnaga),
Ngài Pháp Hộ (Dharmapala) và Ngài Giới Hiền (Silabhadra), là vị Viện
trưởng 120 tuổi, một vị đại học giả cũng là một bậc thạc đức vào thời
Ngài Huyền Trang đang du học tại trường đại học này.
Tường thành và cầu thang phế tích Na Lan Đà Ảnh: Tâm Bửu
Theo các nguồn tài liệu, đương thời Na Lan Đà có khoảng 3000 giáo
sư, trên dưới 10.000 sinh viên lưu trú tu học thường xuyên. Mặc dù số
lượng đông như thế nhưng không phải ai cũng có thể được vào học tự
nhiên mà phải trải qua chế độ tuyển sinh nơi đây cực kỳ khó khăn,
phải được khảo hạch kinh luật một cách gắt gao, sinh viên ngoại quốc
phải được gạn hỏi qua nhiều cuộc trắc nghiệm, biện luận trôi chảy và
đặc biệt là phải chứng tỏ được biệt tài của mình, vì vậy số lượng
trúng tuyển chỉ đạt một cách hạn chế khoảng 2/10. Do đó, Na Lan Đà
trở thành niềm mơ ước của hầu hết các sinh viên trong cũng như ngoài
nước. Vì đào tạo theo đường lối Phật giáo, nên những sinh viên trúng
tuyển được học miễn phí mà không cần phải trả bất cứ một loại chi phí
nào, nhờ có sự bảo hộ chính của các đời vua chúa sùng tín Phật giáo
và sự phát tâm cúng dường của dân chúng trên 200 làng gần xa.
Ngoài những danh tăng bản địa xuất thân từ trường này, còn có
nhiều danh tăng ngoại quốc, tài ba xuất chúng phải được nhắc đến như:
Ngài Huyền Trang, Nghĩa Tịnh, Thi Hộ, Pháp Thiên ...Và các bản kinh,
luật, luận Trung Quốc mà chúng ta ảnh hưởng hiện nay, phần lớn là
bản dịch do các vị cao tăng xuất thân từ trường này mang về.
Kể từ sau những cuộc xâm lăng và tiêu diệt dị giáo của quân Hồi do
tướng Mohammad Bin Bakhtiyar Khalji chỉ huy, trường đại học Na
Lan Đà cùng chung một số phận. Số giáo sư và sinh viên tăng sĩ bị sát
hại khoảng 10.000 người. Một số nhà sư sống sót còn lại phải chạy
sang Nepal và Tây Tạng để lánh nạn. Thư viện Na Lan Đà là kho chứa
kinh thư tập hợp trên 9 triệu bản kinh văn của các nền văn minh, triết
học, văn hoá, tôn giáo cổ kim trên thế giới và cả các bản sớ giải của
Phật giáo ....được xem như là Đại dương báu vật, đã bị bọn vô lại
hiếu sát Hồi giáo thiêu trụi. Như vậy, nhân loại chúng ta vĩnh
viễn mất đi cơ hội quý hiếm để đọc những tác phẩm vô giá được lưu giữ
tại thư viện của trường đại học này. Sự điêu tàn và đổ máu của
trường đại học cũng có phần trùng hợp với điềm báo trước như lời
huyền ký được ghi trong Đại Đường Tây Vực Ký của Ngài Huyền
Trang như sau: “Từ thành Vương Xá đi về phía Bắc độ 30 lý là Tăng già
lam Na Lan Đà. Theo truyền thuyết thì về phía Nam của tu viện này là
một cái hồ nước. Nơi đó có một con rồng tên Na Lan Đà. Người ta đã
xây một ngôi chùa bên bờ hồ và lấy tên con rồng đặt cho tên cho tự
viện. Chỗ này ngày xưa là vườn xoài do 500 vị thương gia đã mua đến
mười triệu tiền vàng để cúng dường cho một vị Bồ Tát. Sau khi Bồ Tát
nhập diệt, một vị vua thời xa xưa của nơi này tên là Sakraditya đã
cho xây dựng một ngôi già lam. Tuy nhiên, trong khi khởi công Ông đã
vô tình làm bị thương một con rắn chúa. Lúc đó một nhà tiên tri Ni
Kiền Tử đã tiên đoán rằng khoảng 1.000 năm sau, nơi này sẽ là một địa
điểm phát triển cùng cực. Những hàng Tăng sinh tại đây sẽ thành đạt
vẻ vang, tuy nhiên, vì lời thề của con rắn chúa mà máu của nhiều
người sẽ đổ ra tại đây”. Như vậy sự suy tàn của Na lan Đà đã được dự
đoán trước của các nhà tiên tri, hay đó là một quy luật mà đức Phật
dạy, mọi vật ở đời không có cái gì bền chắc mãi mãi, hết thạnh rồi
suy, sanh trụ dị diệt, không có một bàn tay thần thánh nào có thể chống
lại được với quy luật ấy.
Mặc dù đã bị sự phá huỷ của đoàn quân Hồi giáo, và hằng bao thế kỷ
bị vùi lấp trong sự lãng quên nhưng những bức tường gạch đổ nát ở Na
Lan Đà vẫn còn toát lên được vẻ hùng tráng nguy nga của thời vàng
son Phật giáo, vẫn thể hiện được tính bất hủ của chân lý không bị
phai mờ theo năm tháng, dù hiện tại chỉ còn vang trong ký ức và sự nuối
tiếc của hàng trí giả và những người có thiện chí đối với Phật giáo
nói riêng và văn hoá nhân loại nói chung.
Hiện trạng của Na Lan Đà là những bức tường thành nghiêng đổ liên
kết nhau rất dầy trong một chu vi đã được khai quật khoảng 10 hecta
đất. Chúng ta vào bên trong bằng một cổng tương đối rộng khoảng 4m và
được xác định là cổng chính của trường đại học ngày xưa. Các tài
liệu khảo cổ cho rằng, các dãy phòng tu viện trung bình khoảng 4
tầng, bởi bị vùi lấp sâu trong lòng đất và bị phá hủy nên chúng ta chỉ
nhìn thấy khoảng 1 – 2 tầng, mỗi tầng đều có cống rãnh và lỗ thoát
nước rất tốt nên không khi nào bị đọng nước cả. Tổng cộng khu đại học
Na Lan Đà có 11 tu viện nối tiếp nhau và 5 chánh điện đủ để cho toàn
thể sinh viên lưu trú và mọi thứ sinh hoạt lễ nghi khác...Mỗi tu
viện có chiều dài khoảng 500 m, chiều ngang khoảng 250m, hầu hết có
kiến trúc giống nhau: phòng dành cho giáo thọ sư, phòng thọ trai, khu
nhà trù, giếng nước, phòng đôi cho tân sinh viên, phòng đơn dành cho
cựu sinh viên, khu nhà vệ sinh, chính giữa là giảng đường.... Nhìn
chung, mọi tiện nghi cho việc sinh hoạt tại khu Na Lan Đà rất tốt,
chủ yếu nhằm đáp ứng cho một mục đích duy nhất là giáo dục mà thôi.
Trong khuôn viên phế tích Na Lan Đà chúng ta thấy những cái hốc nhỏ
thờ Phật đôi khi có những bức tượng chỉ còn bàn tọa, hoặc chỉ là dáng
dấp đức Phật tọa thiền được kết nối từ những miếng gạch nung cũ mục
in trên vách. Bên cạnh đó chúng ta còn thấy kiến trúc hoa văn bằng
những hình tượng Phật nho nhỏ trông rất xinh xắn và dễ thương còn sót
lại trên một vài bức tường hay đầu cột cũ. Có những bức tường đang
bị xói mòn và sụt lở, ban bảo vệ cũng xây thêm những bức tường phụ để
chống đỡ. Càng đi tham quan nhiều nơi trong khu phế tích này, chúng
ta càng ngưỡng mộ và tiếc nuối cho một trường đại học quy mô từ cơ
sở vật chất đến nội dung đào tạo, mà không dễ gì tìm thấy ở bất cứ
một quốc gia nào trên thế giới trong thời trung cổ. Mặc dù đại học Na
Lan Đà được chính phủ xây dựng lại vào tháng 11 năm 1951, do Ngài J.
Kashyap đề xướng, cách khu phế tích Na Lan Đà khoảng 2 km, là viện
nghiên cứu ngữ học Pāli và Phật học cho các sinh viên từ khắp nơi
trên thế giới, nhưng nó chỉ là danh nghĩa, không phản ánh được uy thế
và uy mô của Na Lan Đà ngày xưa. Tuy nhiên, chính nơi đây đã đào tạo
ra một số danh Tăng Việt Nam thời cận đại như Hoà thượng Minh Châu,
người được chính phủ Ấn Độ mời dạy về Pāli và đạo Phật, Hoà thượng
Huyền Vi, Hoà thượng Thiện Châu ....
3. Tháp tôn giả Xá Lợi Phất (Sāriputta)
Tháp tôn giả Xá Lợi Phất (Sāriputta). Ảnh: Tâm Bửu
Từ cổng chính đi vào phía tay trái, chúng ta thấy có một nền tháp
rất cao lớn đó là tháp của tôn giả Xá Lợi Phất (Sāriputta), một vị
thánh đệ tử trí tuệ đệ nhất trong mười đệ tử đặc trưng của Phật, được
Unesco liệt vào di sản thế giới. Tương truyền rằng, tháp này xây
dựng ngay trên nền nhà của Ngài, để kỷ niệm nơi Ngài đã sanh ra và từ
giã cõi đời. Kiến trúc ngôi tháp này rất đặc biệt, hầu như không giống
với bất cứ một kiến trúc nào trong các thánh tích Phật giáo. Xung
quanh có nhiều ngôi tháp nhỏ tạo nên một quần thể tháp rất kỳ đặc
trong khu Na Lan Đà (Nālandā). Tháp này được trùng tu ít nhất là bảy
lần, bắt đầu từ thời vua A Dục (Asoka). Hiện nay chúng ta chỉ thấy
nhiều đường ngang kẻ dọc, nhiều chỗ lồi lõm, thật khó xác định được
kiểu dáng hình vuông hay tròn, một số vị nghiên cứu thì cho là hình
tròn, trên thực tế thì chân nền tháp là nền gạch vuông. Xung quanh
đại tháp có nhiều bức ảnh phù điêu mô tả các sự kiện trọng đại trong
đời đức Phật. Dù thế nào chúng ta cũng còn có một chút kỷ niệm về bậc
thánh giả, một bậc đại trí đã một thời lừng lẫy và uy nghiêm trong
giáo đoàn 1250 vị A La Hán vẫn còn được nhắc đến với lòng kính trọng
và ngưỡng mộ của người con Phật chúng ta và với những ai nghiên cứu
Phật giáo.
4. Huyền Trang kỷ niệm đường
Cổng ngoài khu tưởng niệm Ngài Huyền Trang Ảnh: Tâm Bửu
Trên đường đến Linh Thứu sơn thuộc thành Vương Xá, nay là
Rajgir, cách trường đại học Na Lan Đà khoảng 1500 m, đoàn chúng tôi
có viếng thăm nhà kỷ niệm Ngài Huyền Trang (Huyền Trang Kỷ Niệm
Đường) mặc dù ngoài trời mưa vẫn còn nặng hạt. Huyền Trang là tên của
một vị cao tăng Trung Quốc: Trần Huyền Trang, thuộc triều đại nhà
Đường. Với tài năng xuất chúng, thông minh đỉnh ngộ, vì không thỏa
mãn sự nhận thức của mình trong kho tàng kinh sách nội quốc mà nhất
là kiến thức Phật giáo nên Ngài quyết định sang Thiên Trúc tức Ấn Độ,
để tham học kinh luật. Vào thế kỷ thứ VII, năm 629, Ngài Huyền Trang
khởi hành qua Ấn Độ để tham học tam tạng kinh điển. Trải qua 16
năm du học trên xứ Ấn, Ngài đã từng tham học tại Na Lan Đà (Nālandā)
và được mời giảng dạy khoảng 5 năm. Ngài được học Duy Thức với đại
sư Giới Hiền (Silabhabra), hiệu trưởng trường này thời bấy giờ đã 120
tuổi. Chính vì niềm đam mê Duy Thức nên sau khi hồi hương Ngài đã
thành lập Tông Pháp Tướng để xiển dương tinh thần “tùng tướng nhập
tánh” của Duy Thức, và được xem như là sơ tổ tông Pháp Tướng tại
Trung Hoa.
Ngài đã để lại trong lòng vua chúa cũng như chư tăng Thiên
Trúc một ấn tượng về một nhân cách đặc thù và trí tuệ siêu việt, một
đức hạnh sáng ngời không chỉ đương thời mà còn lưu danh mãi cho đến
ngàn sau. Do đó, chính phủ Ấn Độ đã chấp thuận xây dựng nhà tưởng
niệm Ngài theo kiến trúc Trung Hoa. Mặc dù chỉ với danh xưng khiêm
tốn Kỷ Niệm Đường nhưng thực tế được thiết kế hết sức trang nhã,
hoành tráng, mới nghe qua chúng ta không thể nào hình dung được hết
vẻ uy nghi của nó, cho nên chúng ta có thể gọi là Huyền Trang Kỷ Niệm
Đền thì mới tương xứng với tầm vóc của nó. Sau khi qua cổng chính
nhìn vào chu vi khoảng 2 hecta đất, chúng ta thấy một lối đi thẳng
tắp, khoảng giữa lối đi có tạc tượng của một vị hành cước Trung Hoa
trên vai mang hành lý, kinh thư, tay cầm phất trần, đầu đội nón rộng
vành, chân di hài cỏ, phía dưới có tấm bia giới thiệu tóm tắt tiểu sử
của Ngài Huyền Trang. Xung quanh hoa cỏ được chăm sóc, cắt tỉa đẹp đẽ.
Bên tay phải cách 50 m có một tấm bia tưởng niệm Ngài Huyền Trang rất
lớn bằng đá quý, tay trái đối xứng cũng có ngôi tháp tương xứng,
giữa tháp có đặt một đại hồng chung rất to theo kiểu dáng Trung Hoa.
Khi vừa bước vào bên trong cổng chính được nghe một tiếng chông ngân
dài do người trực ở đó đóng, làm chúng tôi có cảm giác như mình vừa
đến một ngôi đại tự của Việt Nam hay Trung Hoa. Trước khi vào ngôi
nhà chính tôn thờ Ngài Huyền Trang chúng ta phải đi qua một cái sân
rộng. Ngôi nhà chính được kiến trúc theo mái cong nối dài nằm ngang
hình chữ nhật, giống như các ngôi chùa cổ Việt Nam, có hoa văn uốn
lượn theo chót mái và các chỗ cần thiết. Chính diện ngôi nhà có thờ
tượng cốt của Ngài Huyền Trang. Phía trước có trang hoàng đủ phương
tiện nghi lễ như: chuông, mõ, khánh và một quyển kinh Diệu Pháp Liên Hoa chữ
Hán. Xung quanh tường có rất nhiều hoa văn và những bức phù điêu,
đặc biệt hầu hết các bức phù điêu được khắc chạm mô tả về cuộc đời
của Ngài Huyền Trang từ Trung Quốc đến Ấn Độ, diễn tả lại quá trình
Ngài tu học với ai, từng làm gì và công đức đóng góp cho Phật giáo
của Ngài ra sao...
Quỳ trước dung nghi của bậc cao tăng chúng ta thấy mình quá nhỏ
bé, còn nhiều dở tệ, mình chưa đóng góp được gì cho Phật pháp, lòng
cảm thấy ngậm ngùi cho tâm trí của hạng phàm phu thời Mạt không thể
bì với các bậc cao tăng thạc đức tiền bối. Đó cũng chính là động lực
để khích lệ mình phải phấn đấu nhiều hơn nữa, phải phát tâm dõng
mãnh, phải hết lòng vì đạo, vì chúng sanh thì mới sánh được công đức
của quý ngài trong muôn một.
Rời Huyền Trang Kỷ Niệm Đường, trong lòng vẫn thầm phục một bậc
cao tăng siêu phàm thoát tục, một cái tên nghe sao mà thánh thoát, êm
dịu, chan hoà trong tình đạo tình đời. Tôi mỉm cười vì trong cõi
lòng bỗng vọng lên hai chữ Huyền Trang, Huyền Trang với bao niềm xúc
động trào dâng!