Sông Hằng được xem là một trong những con sông nổi tiếng không chỉ
vì nó là một trong những con sông lớn nhất, dài nhất, mà vì nó là cội
nguồn của Ấn giáo (Hindu giáo), là tín ngưỡng thiêng liêng của gần một
tỷ người; không những thế, đây cũng là con sông được nhắc đến nhiều nhất
trong kinh điển Phật giáo.
1/ Vị trí và huyền thoại sông Hằng
Đất
nước Ấn Độ được chia làm ba vùng chính. Vùng thứ nhất là vùng núi
Himalaya, rộng từ 160 đến 320 km và trải dài khoảng 240 km dọc theo biên
giới phía Bắc và Đông của Ấn Độ. Nó bao gồm những dãy núi bao quanh
thung lũng Kashmyr, những dãy núi cao nhất thế giới. Vùng thứ hai là
vùng Bán đảo Ấn Độ nằm ở phía Nam đồng bằng sông Hằng, nó bao gồm những
khu duyên hải phì nhiêu; vùng này xưa là trung tâm để hình thành “Con
đường tơ lụa” bao gồm đường biển và đường bộ. Vùng thứ ba là vùng đồng
bằng sông Hằng, vùng này nằm song song với vùng núi Himalaya rộng từ 280
đến 400 km, hình thành bởi con sông Indus (Ấn Hà) chảy qua Punjab; phía
Nam của nó là sa mạc Thar, mênh mông chạy dài đến Pakistan.
Sông
Hằng bắt nguồn từ những đỉnh núi tuyết phủ ngàn năm thuộc dãy Himalaya
của vùng Garwhal, bang Cuttar Pradesh, có độ cao từ 3000 đến 4500 m so
với mực nước biển.
Ấn Độ rất ít sông ngòi, do vậy người Ấn rất
coi trọng các con sông. Với họ, dòng sông là người mẹ nuôi dưỡng và sinh
ra thức ăn cho sự sống. Có nhiều huyền thoại liên quan đến việc giáng
trần của Nữ thần sông Hằng được mô tả trong các sử thi của Ấn Độ như
Mahabharata, Devi Bhavata, Bhagawata Purana, v.v… Theo sử thi Bhagawata
Purana, sông Hằng được tạo ra từ việc đo ba thế giới trong ba bước chân
của thần Vishnu (thần Bảo vệ), móng chân trái của thần Vishnu đã chọc
thủng một lỗ trên Thiên hà chảy xuống dãy Himalaya hùng vĩ, sông Hằng có
từ ấy; nó bắt nguồn từ Thượng giới và có tên Vishnupani (theo chân
Vishnu).
Truyền thuyết về sông Hằng theo sự khẩn cầu của vua
Bhagiratha là hấp dẫn nhất. Vua Bhagiratha bị một đạo sĩ độc ác dùng ánh
mắt giận dữ thiêu đốt sáu mươi ngàn tổ tiên của vua thành tro bụi và
chỉ có nước trên Thiên hà mới cứu được linh hồn của họ. Vua đã thành tâm
khẩn cầu thần Shiva (thần Tái tạo) cứu giúp. Thương tình vị vua nhân
từ, thần Shiva để dòng Thiên hà chảy qua mái tóc của Ngài và cũng xuống
hạ giới, nhờ thế mà trái đất không bị vỡ vụn bởi sức mạnh kinh khiếp của
nó. Thiên hà chảy xuống dải Himalaya, nơi dòng sông uốn khúc để khóa
chặt vị đạo sĩ gian ác kia và chảy vào bình nguyên Ấn Độ, rồi chảy ra
đại dương. Ở đó, nó tiếp tục chảy xuống địa ngục để tạo lại hình dáng
cho tổ tiên của vua. Như thế sông Hằng được mệnh danh là dòng sông của
ba cõi: Thiên đường, trần gian và địa ngục.
2/ Tín ngưỡng của sông Hằng theo Ấn giáo
Đất
nước Ấn Độ được bao bọc bởi phần lớn núi non và sa mạc sông ngòi rất
ít. Trong khi ấy, sông Hằng là con sông lớn, lại chảy giữa lòng đất Ấn,
vun bồi phù sa màu mỡ, bồi đắp hằng năm để tạo thành một đồng bằng rộng
lớn, một bình nguyên thoáng mát, trù phú, cung cấp lương thực cho hàng
trăm triệu người dân. Đây là một trong những nguyên nhân khiến người dân
Ấn yêu quý, kính ngưỡng và dần dần thần thánh hóa dòng sông. Sông Hằng
không những là “vùng đất hứa” cho người dân xứ Ấn mà còn thu hút người
dân các nước khu vực như Afganistan, Mông Cổ, Thổ Nhĩ Kỳ, Ả-rập, v.v…
đến sinh sống đông đúc dọc theo hai bên bờ. Chính sự gặp gỡ của người
bản xứ và người nhập cư đã làm cho nền văn hóa Ấn Độ càng đa dạng và
phong phú hơn. Cho đến nay, số người sống ở đồng bằng sông Hằng đã hơn
ba trăm triệu người và đã được ghi vào sách Kỷ lục thế giới về mật độ
dân cư sống đông đúc nhờ vào nguồn lợi của dòng sông.
Người Ấn
giáo tin tưởng một cách mạnh mẽ rằng, nước sông Hằng có thể giúp họ rửa
sạch mọi tội lỗi; tắm và uống nước sông Hằng có thể trừ mọi tật bệnh,
mang lại hạnh phúc và sức mạnh. Khi chết, nếu được ném xác hay tro cốt
xuống sông Hằng, linh hồn sẽ được lên thiên giới. Từ đó, đã tạo nên tín
ngưỡng tắm, rước nước, uống nước, nguyện cầu trên sông Hằng. Đặc biệt là
những nghi lễ đốt xác và ném tro xác xuống dòng sông… Vì thế, sông Hằng
được mệnh danh là dòng sông thiêng, dòng sông huyền bí.
Ở thượng
nguồn, vùng Garwhal được xem là nơi linh thiêng nhất, là cội nguồn
của Ấn giáo. Nơi đây có cả một cộng đồng giáo sĩ, thầy tu, ẩn sĩ thuộc
Ấn giáo đầy màu sắc lạ lùng và huyền bí.
Ở bình nguyên, hằng năm,
vào dịp lễ chính, tháng một đến tháng hai, hàng triệu người Ấn giáo từ
khắp mọi miền trên xứ Ấn tìm cách hành hương về các nơi “Thánh địa” như
Bernares, Haridwar, Alahabad, v.v… để tắm gội, cầu nguyện, cúng tế,
v.v… bất chấp những gian nan, nguy hiểm trên cuộc hành trình. Người Ấn
giáo tin rằng dù có chết trên đường hành hương hay chết trên dòng sông
Hằng cũng là may mắn giúp họ được mau siêu thoát. Và họ cho rằng, hành
hương về sông Hằng là hành trình “Đi tìm cái sinh trong cõi tử”.
3/ Một thoáng sông Hằng
Vào
một buổi sáng sớm cuối Đông trên đường chiêm bái các Thánh tích Phật
giáo, sau khi chiêm bái vườn Lộc Uyển, chúng tôi viếng thăm sông Hằng
tại Bernares (thuộc Veranasi). Mới năm giờ sáng, nhiệt độ lúc này rất
lạnh, khoảng 10 độ C; nhưng trong sương sớm, từng đoàn người từ cụ già
đến trẻ em với những cái lu, cái vò đội trên đầu hay những cái bình, lọ,
ca trên tay cùng hướng về sông Hằng để tắm và nước về. Trời vẫn chưa
sáng hẳn, bước theo từng bậc tam cấp xuống dòng sông, chúng tôi thấy
những cụ già đứng run cầm cập dưới dòng nước lạnh, da đen thui, vốc từng
cụm nước lên cầu nguyện và uống rồi can đảm ngụp đầu xuống tắm. Một bé
trai còn ngái ngủ mặc một chiếc quần cộc, da gà nổi lên, tay chân thun
lại vì lạnh, đứng ở mé nước không dám bước xuống, bị người bố đến bồng
lên dìm xuống dòng nước “đá”. Đứng trên bờ có cả áo lạnh trên mình, tôi
cũng nổi da gà, niềm tin của người Ấn thật mạnh mẽ!
Chúng tôi
thuê một chiếc xuồng đi dọc theo sông Hằng để ngắm cảnh trong vòng một
tiếng đồng hồ. Đến giữa dòng, chúng tôi thả hoa và đèn mua vội trước khi
xuống xuồng; chúng quyện vào nhau với những hoa và đèn khác cùng lung
linh nhẹ trôi trên dòng sông thật đẹp. Không biết những người khác
nguyện cầu gì, chúng tôi chỉ nguyện cho thế giới hòa bình, chúng sanh
sớm gặp được Chánh pháp. Ngồi trên xuồng, nhìn lên bờ sông Hằng cao vút
gần cả trăm bậc tam cấp mới đến mặt đường, hàng trăm ngôi đền Ấn giáo cổ
kính cùng những lò thiêu xác mọc san sát bên nhau, có cả những giàn
thiêu xác được bố trí gần mặt nước; phía bên kia bờ là một dãi cát trắng
mịn mênh mông kéo dài xa tít… Đến bây giờ, tôi mới thật sự chứng kiến
được hình ảnh “hằng hà sa số” mà đức Phật thường ví dụ trong kinh.
Xuồng
đi được 15 phút thì mặt trời bắt đầu mọc, một khối cầu lửa đỏ ửng phản
xạ trong sương mai lung linh đang từ từ nhô lên bên kia dải cát dài xa
thẳm. Ngồi trên xuồng giữa trời nước mênh mông để thưởng thức “bình minh
trên sông Hằng”, cảnh vật thật tuyệt vời.
Anh chèo xuồng người
Ấn cho biết, bây giờ là mùa khô nên nước sông Hằng trong và trôi chảy
nhẹ nhàng, khi đến mùa mưa nước sông Hằng sẽ dâng cao hơn 10m so với
hiện tại, phủ cả vài chục bậc tam cấp thẳng đứng bên bờ và lấp cả những
dải cát dài mênh mông bên kia, dòng nước cũng sẽ đục hơn và chảy xiết
hơn. Trỏ tay xuống dòng nước, anh nói: “Dưới đáy sông là cả khối xương
người, trung bình mỗi ngày, chỉ riêng khúc sông này đã có hàng chục xác
người ném xuống, có xác đã thiêu thành tro, có xác chỉ cháy vài phần còn
cả xương sọ, xương sườn, xương chân… và thậm chí có xác chưa thiêu… đến
mùa nước lớn, tất cả sẽ được cuốn vào đại dương”.
Hết một giờ,
anh chèo xuồng đưa chúng tôi về bến cũ, bây giờ dòng người đổ về bến
đông đúc hơn; người tắm dưới sông cũng nhiều hơn. Gần bờ là các thiếu
phụ trong bộ Sari sặc sỡ múc nước. Trên bờ các tín đồ bày hoa hương thức
ăn ra cúng vái. Phía trên là các đạo sĩ đủ loại hình, có người mặc váy ở
trần, có người ngồi, có người đứng, có vị trét tro vào mặt cầm chĩa ba
hay cầm chuỗi, cầm đèn, v.v… Tất cả đều có những động tác riêng, múa
máy, nguyện cầu một cách bí ẩn. Trên bầu trời những bầy quạ đen ngửi
thấy xác người thiêu bay đến và sà xuống ăn những thức ăn các tín đồ để
lại… cảnh vật quá huyên náo và ồn ào. Chen chân một lúc, chúng tôi cũng
ra được bên ngoài; ở đây, lại là khu chợ “chồm hổm” nhóm giữa đường đủ
loại hàng hóa, rau quả, người, bò, chó, v.v… chen chúc nhau với đủ thứ
mùi hôi nồng nặc! Đã thế, chúng tôi lại bị níu chân bởi sự mời mọc của
các anh cò: cò các loại xe, cò bán các loại tơ, cò giới thiệu nhà hàng,
v.v… Cuối cùng chúng tôi cũng ra khỏi đám đông ồn ào, dùng điểm tâm qua
loa ở một quán bên đường rồi vội vã lên đường để kịp chiêm bái thánh
tích Bồ-đề Đạo tràng.
4/ Hình ảnh sông Hằng trong kinh Phật
Sau
khi chứng ngộ Vô thượng Bồ-đề, đức Phật đã đến Sarnath để chuyển Pháp
luân tại vườn Lộc Uyển. Sarnath thuộc vùng Veranasi và đây cũng được xem
là trung tâm điểm của đồng bằng sông Hằng. Như thế, bánh xe Chánh pháp
được vận hành đầu tiên nơi lưu vực sông Hằng. Sông Hằng thời ấy chắc rất
trong sạch và không ô nhiễm như bây giờ, hầu như trong các kinh của đức
Phật thuyết giảng đều có hình ảnh sông Hằng trong ấy. Cụm từ mà đức
Phật thường sử dụng nhiều nhất và đã trở thành thành ngữ của người Việt
Nam đó là “hằng hà sa số”. Mỗi khi muốn nói đến một con số lớn không
tính đếm được, đức Phật mượn hình ảnh “số cát sông Hằng” để mọi người dễ
hiểu. Hình ảnh ấy vừa thực tế, vừa bình dị, vừa thân thương đối với
người dân xứ Ấn. Trong kinh A-di-đà chỉ có vài chục trang nhỏ, rất ngắn,
thế mà hình ảnh sông Hằng đã được đức Phật nhắc đến cả chục lần qua
câu: “Hằng hà sa số chư Phật các ư kỳ quốc…”, hầu như người Phật tử Việt
Nam đều thuộc câu này.
Trong các kinh Trường Bộ, Trung Bộ, Tăng
Chi Bộ… khi đề cập đến tín ngưỡng của những người cho rằng tắm và uống
nước sông Hằng sẽ trừ mọi tội lỗi, tật bệnh và khi chết nếu được ném xác
vào dòng sông thì linh hồn sẽ siêu thoát, đức Phật dạy: Nếu nước sông
Hằng là thiêng liêng thanh tịnh, có khả năng rửa sạch mọi tội lỗi của
con người, giúp con người siêu thoát thì các loài tôm, cua, cá, sò,
thuồng luồng… sống ở dòng sông đã được siêu thoát cả rồi. Nước sông Hằng
cũng như nước các sông khác chỉ trừ được cấu bẩn của thân, không thể
nào trừ được tội lỗi con người; càng không thể giúp con người siêu
thoát. Tội lỗi từ tâm sanh, chỉ có việc tu tập thanh lọc tâm mới trừ
được tội lỗi.
Kinh Thủy tịnh hành thuộc Tương Ưng Bộ kinh (Samyutanikaya) kể rằng:
Một
hôm, Tôn giả Ananda vào thành Xá-vệ khất thực, Tôn giả gặp một người
Bà-la-môn tên Sangavara, người có lòng tin rằng, tắm nước sông Hằng sẽ
được thanh tịnh; do vậy, ngày hai buổi sáng và chiều, ông đến sông Hằng
để tắm. Vì thương tưởng Bà-la-môn này có niềm tin lệch lạc, Tôn giả
Ananda trở về thưa đức Thế Tôn, xin Ngài đến hóa độ Bà-la-môn và những
người trong thôn ấy. Hôm sau, đức Thế Tôn vào thành Xá-vệ gặp vị
Bà-la-môn ấy, và hỏi:
“Này Bà-la-môn, nhắm đến lợi ích gì mà
người là nhà Thủy tịnh hành tin tưởng nhờ nước được thanh tịnh, chiều
sáng sống theo hạnh tắm nước”.
Bà-la-môn đáp: “Nơi đây, Tôn giả
Gotama, ban ngày tôi tạo nghiệp ác thì buổi chiều tắm để gột sạch; ban
đêm tạo nghiệp ác thì buổi sáng tắm để gột sạch… Tôn giả Gotama, vì nhắm
đến lợi ích ấy mà tôi là nhà Thủy tịnh hành, tin tưởng nhờ nước được
thanh tịnh, chiều sáng sống theo hạnh tắm nước”.
Đức Thế Tôn dạy:
“Này Bà-la-môn, chánh pháp là ao hồ, giới là bến nước không nhớp nhúa,
được thiện nhân ca ngợi. Ấy là nơi bậc minh trí tắm thân thể sạch sẽ,
chứng qua bờ bên kia”.
Vốn có túc duyên nhiều đời, Bà-la-môn
Sangarava liền tỏ ngộ, xin quy y: “Thật vi diệu Tôn giả Gotama, mong Tôn
giả Gotama nhận con làm đệ tử cư sĩ từ nay cho đến chết, con xin trọn
đời quy y” (Thích Thiện Châu dịch).
Ngày nay, tín ngưỡng sông
Hằng vẫn còn rất mạnh trong lòng người Ấn giáo, chỉ nhìn qua những cảnh
người già, trẻ con dìm mình trong dòng nước băng giá tê cả người; nhìn
những người Ấn giáo uống nước dơ bẩn bên cạnh xác người chết, tro người,
rác rến, v.v… ta cứ tưởng đó là sự thiêng liêng vì không thấy họ sợ sệt
hay bệnh tật gì cả.
Nhưng có biết đâu rằng hiện nay dòng sông đã
bị ô nhiễm trầm trọng. Theo thống kê hằng năm, sông Hằng đã phải tiếp
nhận hàng nghìn lít chất thải độc hại từ các nhà máy thuộc da và gần một
tỉ lít nước thải sinh hoạt; đã thế, sông Hằng còn tiếp nhận hàng vạn
xác chết, tro người… trong mỗi năm. Sông Hằng đã bị liệt vào một trong
những con sông nhiễm độc hàng đầu thế giới; nó gây nên rất nhiều tật
bệnh, cướp đi hàng trăm ngàn sinh mạng của người dân, đặc biệt là bệnh
dịch tả và thương hàn. Giải pháp để làm sạch sông Hằng vẫn còn là bài
toán nan giải cho chính phủ hiện nay, vì “phép vua thua lệ làng”.
Sông
Hằng vẫn lặng lẽ êm trôi giữa lòng xứ Ấn; sông Hằng như một người mẹ
bao dung, nhẫn nhục; như Tạng thức A-lại-da hàm tàng mọi chủng tử dù đó
là những chủng tử tươi đẹp như hoa hương hay bất tịnh xấu xa như tro
xương xác người. Những ai đã từng đến sông Hằng ít nhiều cũng lưu dấu
những ấn tượng khó phai: Ấn tượng của thiên đàng thiêng liêng huyền bí
hay ấn tượng của địa ngục ồn ào, nhiễm ô.■
Nguồn Tập San Pháp Luân 32