Hai Phật tử da trắng đóng góp quan trọng
trong việc phục hưng Phật giáo ở Ấn Độ và sau đó ở Á Châu. Người thứ
nhất là “Đại tá’ Henry Steel Olcott, người cùng sáng lập ra hội Thông
Thiên Học thế giới với Madam Helena Petrova Blavatsky, gốc Nga. Cả hai
chưa biết nhiều về giáo lý Đức Phật mà chỉ chú ý tới những hiện tượng
‘thần bí’. Sau nội chiến Nam Bắc ở Mỹ, dù xương sống tôn giáo ở Mỹ là
Tin Lành, hiện tượng cầu hồn và ‘đối thoại’ với người ở bên kia ‘cõi âm’
khá phổ biến, có lẽ là một như cầu để làm nhẹ nỗi đau của thân nhân của
các chiến sĩ trận vong. Hiện tượng gọi là ‘ngoại cảm’ không liên hệ,
nếu không muốn nói là tương phản, với giáo lý vô ngã của đạo Phật, nhưng
được ngay cả các nhật báo lớn ở Mỹ đề cập và ‘nghiên cứu’ về các ‘hiện
tượng tâm linh’ huyền bí. Và có huyền bí nào hơn các nhà tu khổ hạnh
yogi râu tóc bạc phơ sống trong các hang động ở Tây Tạng trên dãy Hy Mã
Lạp Sơn, có thể đạt tới trình trạng ‘xuất hồn’ đi trên mặt nước. Chỉ
thiếu có chuyện biến nước thành rượu!
Colonel Olcott gặp Madam Blavatsky (bà
thích được gọi tắt là HPB) tại một trang trại ‘nghe đồn’ là có nhiều hồn
ma bóng quế và được các nhà ‘ngoại cảm’, tức là các bà đồng bóng, tụ
tập nghiên cứu. Các báo Mỹ ở New York cho đây là một sự lừa bịp trắng
trợn, nhưng trình độ dân trí lúc bấy giờ, nhiều người vẫn bán tín bán
nghi. Đại tá Olcott quyết định tự mình điều tra. Mối hội ngộ này đã làm
nẩy nở một sự hợp tác ‘tinh thần’ nhiều năm trong quá trình phục hưng
Phật giáo. Vào ngày 17 tháng 11 năm 1875 Hội Thông Thiên Học
(Theosophical Society) được thành lập, mục đích nhằm nghiên cứu ‘luật lệ
điều hành vũ trụ’, thành lập một Cộng Đồng Huynh Đệ không phân biệt
chủng tộc, giới tính, giai cấp’ để nghiên cứu tôn giáo, triết lý và khoa
học hiện đại! Quan trọng hơn nữa mục đích của Hội nhằm nghiên cứu những
hiện tượng ‘không giải thích’ được trong thiên nhiên và khả năng tiên
tri của con người. (1) Hội Thông Thiên Học gần gũi với hội Sấm Trạng
Trình, Bà Chúa Xứ hay Đức Thánh Mẫu hơn là một hội Phật học!
Sau khi bị các nhà phê bình tôn giáo Mỹ chỉ trích tác phẫm Isis Unveiled của bà là
thứ rác rưới đáng vứt bỏ, HPB có ý định muốn đem Hội Thông Thiên Học
gia nhập Hội Tam Điểm (Masonic), một đối thủ của Thiên Chúa Giáo ở Tây
phương. Duyên nghiệp giữa hai nhân vật này với Phật giáo còn nhiều khi
cả hai quyết định làm chuyến phiêu lưu qua Ấn. HPB và Olcott đến Ấn vào
năm 1879 và vì bị nghi ngờ có liên hệ đến các nhân vật trong phong trào
quốc gia Ấn, họ bị mật thám Anh theo dõi. Trong một thời gian ngắn, cả
hai không đạt được tiến bộ đáng kể nào trong việc truyền bá Thông Thiên
Học trong giới trí thức thực dân Anh cũng như Ấn, cả hai quyết định qua
Sri Lanka (bấy giờ là Ceylon), nơi Phật giáo hưng thịnh nhờ nổ lực
truyền bá đạo Phật của con trai hoàng đế Asoka. Ceylon bị các nhóm thực
dân Bồ Đào Nha và Hoà Lan thống trị trước đó và các thừa sai Thiên Chúa
đã tìm cách cải đạo tập thể dân chúng Ceylon như tại Nam Mỹ và Việt Nam,
nhưng đa số dân chúng vẫn giữ lòng tin vào chánh pháp, trừ một thiểu số
trong sắc tộc Tamils. Các giáo sĩ Tin Lành tuy không hung hăng như các
thừa sai Thiên Chúa, nhưng lúc cặp bài trùng này đến Ceylon, trên toàn
quốc chỉ có 4 trường học được xem chịu ảnh hưởng của Phật giáo trong khi
có 805 trường ‘đạo’. Khi hai người tới thành phố ven biển Galle vào
ngày 25 tháng Năm 1880, các hàng ngàn thuyền nhỏ treo cờ xí phất phới và
hàng ngàn Phật tử với trang phục mặc trong các ngày đại lễ trãi thảm
‘trắng’ đón hai người. Giống như trường hợp kỳ diệu của Hoàng Đế A Dục
ngày xưa, ngày 25 tháng Năm, HPB và Đại Tá Olcott quỳ dưới chân một nhà
sư Tích Lan trong một ngôi chùa làm lễ thọ Tam Quy Ngũ Giới bằng tiếng
Pali. Họ là hai công dân Mỹ (HPB mới nhập tịch Mỹ vào năm trước) đầu
tiên chính thức thọ tam quy ngũ giới theo nghi thức Phật giáo.
Tuy nhiên nhận thức về Phật giáo của hai
Phật tử Tây Phương đầu tiên vẫn còn có ‘vấn đề’. HPB nghĩ Phật giáo là
hệ thống tín ngưỡng ‘tâm truyền’ (esoteric) có trước thời Vệ Đà (!), còn
Đại tá Olcott thì nghĩ Phật giáo tương tợ như ‘túi khôn’ của Áo Nghĩa
Thư (Upanishads). Đại tá nói “Phật giáo của chúng tôi nghĩ không phải là
tín ngưỡng mà chỉ là một hệ thống triết lý”. (2) Dù là nhận thức của
cặp Phật tử này có chính thống hay không, họ cũng được mời giảng pháp ở
các chùa có hàng vạn Phật tử tham dự. Hội Thông Thiên Học được thành lập
ở Colombo trở thành môi trường xúc tác trong việc thành lập hàng trăm
trường Phật giáo khác và có ảnh hưởng quyết định trong việc phục hồi
Phật giáo ở Ấn độ Lá cờ ngũ sắc do Olcott thiết kế dưới sự đồng ý của vị
vị sư cả Tích Lan sau này trở thành biểu tượng cho sự thống nhất Phật
giáo thế giới. Tác phẩm Buddhist Catechism do Olcott viết nhằm giáo dục cho trẻ con đã được dùng giảng dạy trong các trường Phật giáo ở Tích Lan.
Tình trạng Phật giáo ở Ấn và Tích Lan
cũng tiêu điều. Trừ một số ít vị chân tu, các vị sư Sinhalese hầu hết đã
bỏ truyền thống ngồi Thiền. Tăng già chỉ còn nghiên cứu và tụng kinh và
giữ giới, hy vọng ‘kiếp sau’ sinh vào một cõi khác tốt hơn. Chỉ còn một
ít các chân tu ở Miến Điện còn giữ thực tập truyền thống Thiền quán.
Quần chúng Phật tử thì rất ít biết về giáo lý do đó không đủ khả năng
phản biện những luận điệu phỉ báng mà các nhà truyền giáo Tin Lành cố
tình vo tròn bóp méo. Vào thế kỷ 12 ở Ấn Độ, sau khi 10 ngàn tăng già bị
quân Hồi giáo Thổ Nhĩ Kỳ tàn sát, và nhất là thiếu việc tham dự của
quần chúng trong việc hành trì, nên Phật giáo hầu như không còn dấu vết
gì, trừ mấy thánh tích tiêu điều hoang phế.
Olcott quyết định viết Buddhist
Catechism (Cũng như Bible, Catechism là từ ngữ của Ky Tô) giới thiệu các
quan niệm căn bản trong Phật giáo. Để sửa soạn cho tác phẩm này, Olcott
đã đọc hàng ngàn trang sách nghiên cứu Phật giáo bằng Anh Ngữ và Pháp
ngữ. Nhờ thế hiểu biết về Phật giáo của Olcott bắt đầu có vẻ chính thống
hơn, ông không còn nhắc đến những hiện tượng tâm linh huyền bí nữa cũng
như không còn giải thích Phật giáo dưới mầu sắc của Vệ Đà. Olcott đề
nghị dùng từ ngữ Buddha-Dharma thay cho Buddhism, vì ‘ism’ thường mang
tánh cách giáo điều, trong khi Phật giáo là tôn giáo ‘chống giáo điều’.
Nói theo Alan Watts, Phật giáo là tôn giáo khô ng tôn giáo (a religion
of no religion).
Một may mắn khác cho Phật giáo Tích Lan
là sự hiện diện của một viên thẩm phán trẻ tuổi Anh được bổ nhiệm làm
việc, Rhy-Davids. Ông thường được yêu cầu giải quyết các tranh chấp luật
pháp về những tranh chấp liên hệ đến tôn giáo. Rhys-Davids quyết định
học tiếng Pali để có thể đọc được giới luật Vinaya, để tránh những quyết
định vi phạm đến luật lệ truyền thống. Vị giáo thọ, sư cả Unnanse
Yatramulle, không những dạy Rhys-Davids Pali mà còn khuyến khích ông học
kinh điển Phật giáo. Thán phục kiến thức và phong thái giản dị của vị
giáo thọ này, Rhys-Davids tìm cách thu thập tam tạng Pali lúc đó còn lưu
trữ trên lá bối. Khi trở lại Anh vào năm 1881, ông thành lập hội Pali Text Society.
Hội này sưu tầm những sách viết về Phật giáo ở các thư viện Âu Châu và
kinh điển viết bằng Pali ở Tích Lan và phiên âm ra mẫu tự La Tinh. Phu
nhân của ông, Bà Carolyn Rhys-Davids là một cánh tay đắc lực trong việc
sưu tầm các Thánh điển Đông phương (Sacred Books of the East), sau này do Max Muller biên tập và xuất bản.
Dựa vào kinh điển Pali, các học giả Âu
Châu thường xem Tích Lan là quê hương của một dòng Phật giáo nguyên thủy
‘tinh khiết’ nhất ở Á Châu- gần gũi nhất với những gì Đức Phật dạy các
đệ tử đầu tiên, trong khi xem Phật giáo Đại Thừa, nhất là đạo Phật Trung
Hoa, bị vướng mắc trong các triết lý siêu hình và tập tục mê tín. Kinh
điển hệ Pali của Nam tông phản ảnh tinh hoa những lời dạy của Đức Phật,
vừa có tánh cách khoa học, duy lý và đầy nhân tình. Theo họ, Phật giáo
Bắc tông cũng giống như giáo Hội Thiên Chúa La Mã tràn ngập nghi lễ và
thần thánh (Bồ Tát) và do giới ‘tư tế’ (Tăng già) kiểm soát và điều
khiển. Còn Nam tông giống như thệ phản Tin Lành, thường duy lý và chú
trọng đến đạo đức. Việc các nhà nghiên cứu Tây phương đầu tiên chú trọng
đến Phật giáo nguyên thủy để phát hiện ra tinh hoa của đạo Phật là một
điều dễ hiểu.
Quan điểm của Pali Text Society đúng hay
sai là chuyện khác, nhưng hạnh nguyện của Olcott là đoàn kết các tông
phái Phật giáo duới một lá cờ, theo nghĩa đen cũng như nghĩa bóng.
Olcott nghĩ là một phong trào Phật giáo thống nhất sẽ có khả năng giúp
các nước theo Phật giáo có thêm quyền lực chính trị hơn là quan tâm đến
vấn đề kinh điển hay giáo lý. Lá cờ Phật giáo được ông vẽ kiểu và năm
1889 dưới sự hướng dẫn của sư cả Sumangala, phản ảnh có quyết tâm này.
Tác phẩm Buddhist Chatechism đề cập đến những điểm tinh yếu mà
các môn phái đều có thể chấp nhận. Tác phẩm này được dịch ra tiếng Nhật
và Sankrit và hầu hết các ngôn ngữ Âu châu. Olcott hy vọng tất cả các
môn phái đều chấp nhận là cờ này như một biểu trưng cho lòng tin của
Phật tử và phục vụ mục tiêu tương tự như biểu tượng Thập Giá cho các tín
đồ Ky Tô. (3) Và trong lễ Phật đản năm 1889, lần đầu tiên là cờ Phật
giáo tung bay trên tất cả mọi ngôi chùa và tư gia tại Tích Lan và Olcott
tự hào đây là lá cờ ‘đẹp nhất’ trong số các cờ quốc tế. Nếu Olcott còn
sống đến năm 1963, ông có lẽ còn thêm chữ ‘linh thiêng’, khi Phật tử
Việt Nam đồng thanh nhấn mạnh “cờ Phật giáo không thể bị triệt hạ” trong phong trào chống chánh sách kỳ thị tôn giáo của chánh phủ Diệm.
Vận động phục hưng Phật giáo của Olcott
lan tận bên Nhật. Năm 1988 Nhật gởi một sứ giả sang Colombo mời Olcott
sang Nhật. Noguchi phát biểu trước hội nghị hàng năm của Thông Thiên Học
họp ở Adyar là họ mong Olcott đến Nhật để “phục hồi hy vọng cho người
già, làm tăng can đảm trong tim thanh niên, để chứng tỏ là các sinh viên
được đào tạo trong các trường đại học và cao đẵng của chúng tôi hay
những sinh viên du học ở các nước Mỹ và Âu Châu là, khoa học Tây phương
không phải là không sai lầm và không thể thay thế cho tôn giáo (truyền
thống) tự nhiên của chúng tôi”. (4) Olcott chấp nhận lời mời và Phật
giáo Tích Lan tổ chức một buổi tiễn biệt trọng thể chưa bao giờ có. Tăng
thống Sumangala cầu nguyện tam bảo gia hộ cho sứ mạng của Olcott thành
công. Điều ngoạn mục nhất là tăng thống gởi cho Ủy Ban Phật giáo Nhật
một bức thư biểu lộ tình pháp hữu giữa Phật giáo Tích Lan và Nhật. Đây
là cuộc giao tiếp đầu tiên sau nhiều thế kỹ lạnh nhạt giữa hai tông phái
Nam và Bắc tông.
Khi đến Nhật Olcott khám phá tông phái
bảo trợ chuyến sang Nhật là Tịnh Độ (Shin shu). Để thể hiện mục tiêu
đoàn kết tôn giáo, Olcott yêu cầu ban bảo trợ phải mời thêm các đại diện
của các tông phái khác. Hố chia rẻ của các tông phái Nhật Bản rất sâu
xa nhưng cuối cùng họ cũng phải nhượng bộ để thành lập một ủy ban liên
tôn Phật Giáo Nhật. Trong buổi gặp mặt đầu tiên, Olcott đọc bức thư của
Tăng thống Tích Lan đã được phiên dịch ra tiếng Nhật cho các đại biểu
trong ủy ban.
Trong 3 tháng tiếp đó Olcott trình bày
chừng 75 lần Pháp thoại và theo ước tính của ông, có chừng 187 ngàn phật
tử Nhật tham dự. Phật tử Nhật yêu cầu ông lập lại nghi lễ thọ Tam Quy
Ngũ Giới bằng tiếng Pali. Khi Olcott trở về Tích Lan vài tháng sau đó,
có ba nhà sư Nhật theo ông để học tiếng Pali và tìm hiểu Phật Giáo Nam
Tông. Thực ra trước đó hai năm đã có một nhà sư Nhật trẻ khác đến Tích
Lan học đạo, Soyen Shaku. Ông sau này là đại biểu của Nhật trong Hội
nghị Phật giáo thế giới, Một đệ tử của Soyen Shaku, vài chục năm sau đã
gây một phong trào thực hành Thiền tại Mỹ. Người đó là Đại Sư D.T.
Suzuki.
Khi HPB qua đời và Thông Thiên Học bị
các nhóm học giả thân Ấn giáo thao túng, Olcott nẫy ra ý tưởng thành lập
Hội Liên Hữu Phật giáo (Budhist League). Ông kêu gọi các đại diện Phật
giáo các nước họp tại Adyar. Năm 1890 các đại biểu Phật Giáo Tích Lan,
Miến Điện và Nhật thảo luận trong vòng 2 tuần lễ về dự thảo giáo lý
chính của Phật giáo (Xem Chương Phật Giáo dước góc độ Hiện Đại) Soyen
nhận xét là giáo lý Đại thừa còn nhiều điểm hơn là 14 điều do Olcott đề
nghị. Olcott sau đó còn phải nổ lực thuyết phục các tông phái khác như
Zen, Bạch Liên , Tào Động và Thiên Thai chấp nhận.
Người Hộ pháp không nhà
Tuy nhiên thành quả lớn nhất của hai
Phật tử da trắng đầu tiên và hội Thông Thiên Học là đã nuôi dưỡng một
nhân vật đóng vai trò chính yếu trong việc hồi sinh Phật giáo ở Tích Lan
và Ấn độ, cư sĩ Anagarika Dharmapala, nghĩa đen là người Hộ Pháp không
nhà.
Thế danh của ông hộ pháp này là David
Hewavitarne, sinh vào ngày 14 tháng 9 năm 1864 có cơ duyên tiếp xúc với
Olcott và Madam Blavatsky lúc mới 16 tuổi. Dù là Phật tử thuần thành,
David được gởi theo học một trường đạo (và có tên thánh là David!). Cũng
như các ‘trường đạo’ tại các thuộc địa khác, học sinh phải tham gia
thánh lễ hàng ngày và dĩ nhiên phải học kỹ thánh kinh. Tuy nhiên nhờ
kiến thức về thánh kinh này, nhờ tinh thần phân tích, Dharmapala có dịp
nhìn thấy những mâu thuẫn và phi lý trong thần học Ky Tô. Có lần chàng
học sinh trẻ này bị phạt vì dám lấy một ngày nghỉ để dự lễ đản sinh của
Đức Phật. Một lần khác chính David chứng kiến cảnh các tín đồ cuồng tín
Tin Lành, vẽ thập giá trên trán, tấn công một đám rước lễ Phật giáo diễn
hành ngang trường. David sau đó không chịu trở lại học các trường đạo.
Với sự đồng ý và bảo trợ của cha và gia đình, David xin gia nhập hội
Thông Thiên học và được Madame HPB đỡ đầu.
Dharmapala đi từ làng này sang làng khác
và càng ngày càng thấm thía những bất công do chế độ thực dân gây ra.
Về mặt kinh tế và xã hội, các thành phần ‘cải đạo’ theo ngoại bang (phần
lớn là Tamils) chiếm địa vị ăn trên ngồi trước. Về mặt tinh thần, các
giáo sĩ thừa sai tìm mọi cách bứng gốc rễ văn hóa của sắc tộc Sinhalese
tại Ceylon, nơi đã hãnh diện về truyền thống Phật giáo hàng ngàn năm,
nhờ những nổ lực hoằng pháp của các giáo đoàn do con trai của hoàng đế A
Dục thành lập. Năm 1886, David Hewavitarne quyết định từ bỏ các mục
tiêu quyền lợi trần thế và quyết đem cả đời mình để phục vụ người khác.
Dharmapala có nghĩa là ‘hộ pháp’ và Anagarika là kẻ không nhà. Những gì
mà nhà ‘hộ pháp không nhà’ truyền giảng là một thứ tôn giáo quốc gia
nhắm thức tỉnh quần chúng khỏi tình trạng ù lì của đám đông bị áp bức,
đã phải chịu đựng nghèo khó hàng mấy thế kỷ. Ông đã tiêm vào đầu óc dân
chúng Tích Lan khả năng tự trọng và hãnh diện về tôn giáo truyền thống
(5)
Một công lớn nữa của Dharmapala là hồi
phục Phật Giáo Ấn Độ, hay ít nhất là thắng tích Bồ Đề đạo tràng. Ông qua
thăm Ấn lần đầu vào năm 1891 với một nhà sư Nhật đang ở Tích Lan học
đạo. Cả hai đọc tác phẩm Ánh Sáng Châu Á (The Light of Asia) của
Edwin Arnold. Tác phẩm này đã in 80 phiên bản khác nhau và số phát hành
từ nửa triệu bản đến một triệu bản. Thi phẩm này trình bày căn bản giáo
lý của Đức Phật như Tứ Diệu Đế và Bát Chánh Đạo nhờ đó không ai có thể
trình bày Đạo Phật một cách sai lạc có ác ý. Arnold viết những bài báo
cảnh báo về sự điêu tàn của các thánh tích như Bồ đề Đạo Tràng Gaya và
vuờn Lộc Uyển ở Sarnath nơi Phật thuyết pháp lần đầu tiên. Arnold viết
trên the London Telegraph: “Tôi đã chứng kiến tượng Phật cao chừng
một thước còn nguyên vẹn đang bi chôn vùi dưới đống rác. Các trụ đá
Asoka, những di vật khảo cổ lâu đời nhất rãi rác làm đá trãi đường và
làm trụ chống nhà bếp của Mahant (ông ‘chủ’ mới của thánh địa)”.
Bài báo của Arnold làm hàng triệu Phật tử cảm động và được mọi người lưu
ý ngay. Sau khi thảo luận với tăng thống Sumagala, Arnold và Olcott tập
hợp cộng đồng Phật tử quốc tế làm kiến nghị Nữ Hoàng mua lại Bồ Đề Đạo
Tràng và phục hồi thánh tích này.
Đạo Phật hầu như đã biến mất ở Ấn Độ
từ thế kỷ 12 hay 13 sau khi đoàn kỵ mã Hồi giáo Thổ giết hơn 10 ngàn
tăng già và thiêu hủy hầu hết các chùa chiền. Ấn giáo lẳng lặng ‘đồng
hoá’ Phật giáo bằng cách xem Đức Phật là hóa kiếp lần thứ 3 hay thứ 4
của thần Vishnu. Nơi Đức Phật thành đạo, Gaya, biến thành nơi thờ phượng
của Ấn giáo. Quì trước tượng Phật cổ, Dharmapala nguyện là sẽ tìm mọi
cách hồi phục đạo tràng Gaya và những thánh tích khác cho Phật giáo cũng
như phục hưng đạo Phật tại Ấn Độ. Trong nổ lực thực hiện mục tiêu này
ông thành lập hội Maha Bodhi (Đại Giác Ngộ) và xuất bản Tập San Maha
Bodhi. Những thánh tích hiện nay được phục hồi và mỗi năm có hàng vạn
người chiêm bái là nhờ công của người Hộ Pháp không nhà này.
Tuy nhiên biến cố khiến Dharmapala thành
người đại diện cho phong trào phục hưng Phật giáo ở Đông và Đông Nam Á
là Quốc Hội Tôn Giáo Quốc Tế được tổ chức tại Chicago vào năm 1893. Chủ
tịch hội nghị này là Mục Sư J.H. Barrows nhờ đọc các bài báo của
Dharmapala trên tập san Maha Bodhi nên viết thư mời ông tham dự. Với hậu
thuẫn của Tăng Thống Sumagala, Dharmapala quyết định lên đường sang Mỹ
và mang theo hàng ngàn văn bản tam quy ngũ giới mà HPB và Olcott đã đọc
lúc quy y.
Phần lớn đại biểu hội nghị nhiều giáo
phái Tin Lành đang tranh chấp nhau, Thiên Chúa , Anh Giáo nhưng các tôn
giáo phi-Ky tô như Nhật, Ấn Độ (Hindu, Parsis, Silks và Jains), Thái
Lan, Ceylon. Lãnh sự Trung Quốc đại diện Khổng và Phật. Hội nghị nhằm
phản ảnh tinh thần khám phá của Columbus và nhiều thính đường được xây
dựng mới toang bên cạnh hồ Michigan. Anagarita Dharmapala được vinh dự
ngồi hàng ghế đầu bên cạnh Hồng Y Gibbon của Thiên Chúa, đại sư Swami
Vivekananda và được đọc diễn văn kết thúc trong ngày khai mạc. Với mái
tóc quăn đen để ngang vai, mắt sáng quắc tự tin nhìn thẳng vào thính giả
hội trường, giọng nói sang sảng của người truyền giáo, lứu loát trong
diễn đạt Anh Ngữ, Dharmapala chinh phục ngay được các đại diện như một
đại biểu thống nhất các tôn phái Phật Giáo đang gieo truyền Ánh Sáng Á
Châu vào thế giới văn minh Ky Tô. Nhiều người so sánh phong thái của
Dharmapala với chúa Jesus (6) Ngoài Dharmapala, có lẽ chỉ có đạo sĩ
Vivekenanda được các đại biểu khác chú ý và kính trọng nhất.
Dharmapala không bỏ lỡ dịp này để xác
nhận vị trí độc đáo của Phật giáo so với Ấn Giáo và Ky Tô giáo. Vì không
cóThượng đế, đấng Sáng tạo, nên Phật giáo không cần phải biện chính
bằng bất cứ một ‘phép lạ’ nào mâu thuẫn với khám phá khoa học và Phật
giáo chính là tôn giáo nối liền với khoa học. Dharmapala cũng phê bình
thái độ mập mờ của Ân giáo, xem Phật giáo như một phần của tôn giáo
truyền thống, trong khi giữa Ấn Giáo và Phật có nhiều sai khác không thể
nào ‘hòa giải' được: “Hai mươi lăm thế kỷ trước đây Ấn Độ đã chứng
kiến một cuộc cách mạng tri thức và tôn giáo nhằm lật đổ tôn giáo độc
thần, do các đẵng cấp giáo sĩ ích kỹ độc quyền tế tự để thành lập một
tôn giáo tổng hợp, một hệ thống đời sống và tư tưởng có tên thích hợp là
Dharma”(7)
Dharmapala và đại biểu Nhật, Soyen Shaku tìn được người ‘tri kỷ’, Dr Paul Carus, biên tập tập san The Monist và Open Court Press
trong việc giới thiệu đạo Phật vào Mỹ (Carus là một di dân gốc Đức).
Carus cũng tin rằng Phật giáo có thể ‘sống chung’ với khoa học hơn là
các tôn giáo độc thần khác như Ky Tô và Ấn Giáo. Carus mời Soyen dịch và
biên tập một số tác phẩm Đông phương. Soyen nhũn nhặn từ chối vì khả
năng Anh Ngữ của mình, thay vào đó giới thiệu một người học trò trẻ,
Daisetz Teitaro Suzuki, người đóng vai trò trọng yếu trong việc giới
thiệu Thiền vào đất Mỹ sau này. Vào ngày cuối của đại hội, một tin giật
gân được loan báo: Ông Charles T. Strauss, một thương gia gốc Do Thái
tại New York, quì trước Dharmapala, thọ tam quy ngũ giới do người hộ
pháp không nhà đọc bằng tiếng Pali. Strauss là người đầu tiên được nhận
vào cộng đồng Phật tử chính trên đất Mỹ.
Một chi tiết khác về Dharmapala là ông
vẫn sống và làm việc như một người cư sĩ (tương tự như cư sĩ Ambedkar,
người đã làm lễ quy y cho gần một triệu người Intouchables vào năm
1956). Vào những ngày cuối đời (1933) Dharmapala mới yêu cầu một tăng
đoàn Tích Lan làm lễ quy y cho ông vào năm 1931. Ông nguyện là sẽ trở
lại cõi ta bà ‘25 lần’ để truyền bá chánh pháp và phục hưng Phật giáo
tại Ấn độ. Hơn 15 năm sau, vào năm 1949, chánh phủ Ấn độ dành được độc
lập từ thực dân Anh đồng ý trả Bồ Đề Đạo Tràng và các thánh tích khác
lại cho Phật tử cai quản.
Khi Hồng Hạc bay về…
Sau đại hội, Phật giáo được xem như đại
diện tinh hoa của văn hóa Á Châu nói chung. Nhờ các tài liệu càng ngày
càng chính xác, kinh điển được dịch ra các ngôn ngữ Tây phương và chế độ
thực dân gần tới giai đoạn cáo chung, nên các luận điệu của các thừa
sai không còn ảnh hưởng như trong các thế kỷ trước. Nhà Hộ Pháp không
nhà Dharmapala nói Anh ngữ sành sõi, với phong thái của một đạo sĩ Đông
Phương theo trí tưởng tượng của người Mỹ, trình bày Phật giáo theo quan
niệm Tây phương đã khiến quần chúng tiếp nhận sứ điệp về Phật giáo một
cách thiện cảm. Trong bài diễn văn trong buổi lễ khai mạc Dharmapala đã
xác nhận vị trí độc đáo của đạo Phật: “Đấng tạo hóa không có vị trí nào
trong đạo Phật do đó đạo Phật không cần bịa đặt ra bất cứ huyền thoại
hay ‘phép lạ’ nào trái ngược với khám phá khoa học. Trong một bài diễn
thuyết thứ hai, ‘Món Nợ của Thế giới đối với Đức Phật’, Dharmapala tuyên bố: Đối tượng tư tưởng khai sáng hiện nay không còn nhắm về thần học nữa nhưng về triết lý và tâm lý.” (8)
Nhà xã hội học Arnold Toynbee tuy không
đến dự Hội nghị nhưng gởi một bức thư ủng hộ. Toynbee có một tiên đoán
quan trọng là, đối với những nhà lịch sử trong tương lai, một trong
những biến cố ngoạn mục nhất trong thế kỷ 20, là sự gặp gỡ giữa Phật
giáo và Ky Tô giáo. Sự giao lưu văn hóa này chưa biết sinh ra hợp lưu
nào, nhưng chắc chắn phải là ngoạn mục. (9)
Từ đầu thế kỷ đến chừng năm 1935, các
công trình nghiên cứu Phật giáo thường được chia làm 3 trường phái.
Trường phái thứ nhất do các nhà nghiên cứu Anh-Đức như T.W. Rhys Davids
và H.Oldenberg, thường dựa trên kinh điển Pali mà họ xem như phản ảnh
trung thực nhất giáo thuyết của đức Phật. Cho tới ít nhất năm 1914 các
nhà nghiên cứu này băn khoăn đi tìm dấu vết của một thứ Phật giáo
‘nguyên thủy’, ‘tinh khiết’ và ‘chân thật’. Khi các nhà ngôn ngữ khám
phá ra ngôn ngữ giảng pháp của Đức Phật là Maghadi, không phải là Pali.
Pali cũng chẳnh qua là một phương ngữ khác như Sanskrit, nên các học giả
Pali không còn cơ sở để khẳng quyết Phật giáo Pali là ‘nguyên thủy
nhất’.
Khoảng năm 1916 một nhóm nhà nghiên cứu
khác ở Nga, thường gọi là ‘trường phái Leningrad’ do Stcherbatsky,
Rosenberg và Obermiller nghiên cứu kinh điển để tìm ra một thứ Phật giáo
khách quan hơn là Phật giáo do các nhà nghiên cứu Âu châu ‘tái cấu
trúc’. Trường phái này nhìn Phật giáo theo góc độ khoa học và đã có công
giới thiệu những từ ngữ Phật học như Dharma cho những người không
chuyên môn. Tiếc thay trong kỳ hỗn mang của tình hình chánh trị tại cộng
hoà Sô Viết (cũ), không còn để lại vết tích gì đáng kể ngoài các tác
phẩm như The Buddhist Logic của Stcherbatsky và History of Buddhism của Obermiller
Trường phái cuối cùng mà các học giả
Việt nam biết nhiều là trường phái Pháp-Bỉ gồm các học giả như de la
Valleé-Possin, Sylvian Levi, Paul Demiéville và nhất là Etienne Lamotte.
Trường phái Pháp- Bỉ phân tích các nguồn về ngôn ngữ, triết lý, xã
hội…để tái cấu trúc giáo pháp và hiện nay được các học giả các trường
đại học Âu Châu chấp nhận như là nguồn có giá trị. (10)
Khi Hồng Hạc bay về…
Các công trình nghiên cứu có tánh cách
kinh viện chú trọng đến kinh điển Pali thường thiếu mức hấp dẫn đại
chúng và nhất là trong giới thanh niên càng phai nhạt khi con Hồng Hạc
bay về một quốc gia non trẻ. Con Hồng Hạc đó là D.T. Suzuki.
Suzuki là người phiên dịch cho Soyen
Shaku trong Hội Nghị Phật giáo Quốc Tế ở Chicago. Thuộc dòng Võ Sĩ Đạo
nhưng từ khi triều Minh Trị bãi bỏ độc quyền của giai cấp này, Suzuki
sống một thời thơ ấu hàn vi. Cha mất khi mới lên 6, nhờ mẹ tảo tần nuôi
con và nhờ anh trai tìm được một một chân dạy trẻ, ông cũng được học
xong tiểu và Trung học. Sau đó ông xin được một công việc dạy học ‘đủ
môn’, từ toán đến đọc viết và Anh Ngữ. Suzuki tự học tiếng Anh bằng sách
vỡ và sau này sang Mỹ, mới khám phá ra là mình đã dùng ‘ngữ pháp’ Nhật
để ‘viết tiếng Anh’!
Sau khi mẹ mất, ông về kinh đô Tokyo và
theo học đại học the Imperial University, tuy không theo một quy trình
nhất định nào để lấy bằng. Trong thời gian này ông ngẫm nghĩ về nghiệp
dĩ và thân phận của mình: tại sao cha lại mất quá sớm? tại sao cuộc đời
của mình toàn những nghịch cảnh. Gia đình thuộc giai cấp võ sĩ đạo và
thực hành Thiền Lâm Tế, nên không ai lấy làm lạ khi thấy ông thực hành
pháp thiền này. Ông tập thiền dưới sự hướng dẫn của thiền sư Setsumon,
nhưng vị thầy quan trọng nhất là Kosen, cha đẻ của Thiền Nhật Bản hiện
đại, người trước đây đã đến Tích Lan học. Suzuki không thọ giới mà cả
đời chỉ sống như một cư sĩ. Qua sự giới thiệu của Kosen, Suzuki qua Mỹ
làm việc với Carus, tác giả The Gospel of Buddha. Tập san
Monist do Carus làm chủ bút là nơi tập hợp nhiều triết gia lỗi lạc như
John Dewey, Bertrand Russell và MaxMuller. Chính trong thời gian làm
việc với Carus, Suzuki dịch tác phẩm The Awakening of Faith in the Mahayana (Tín Tâm Minh của Mã Minh), Kinh Tứ Thập Nhị Chương và soạn tác phẩm đầu tiên Outline of Mahayana Buddhism.
Suzuki trở về Nhật và lập gia đình với
một người phụ nữ Mỹ, bà Beatrice Erskine Land tại Nhật năm 1911. Sau đó
ông dời về đế đô Kyoto, dạy môn triết lý tôn giáo ở đại học Otani. Tên
ông trở nên quen thuộc với các nhà nghiên cứu Phật giáo trên thế giới
khi nhà xuất bản Rider tại Anh xuất bản bộ Essays in Zen Buddhism
(Bộ thứ nhất) (Do Trúc Thiên và sau này Tuệ Sĩ dịch ra Việt Ngữ), và
sau sau đó bộ Hai và bộ Ba. Năm 1936 ông lại làm chuyến Tây du ký lần
thứ hai. Với kiến thức phong phú và nhân cách quyến rũ, Suzuki đã thu
hút được nhiều học giả khác trên thế giới. Alan Watts nhận xét ‘ông
(Suzuki) là người thanh lịch và nhiều kiến thức nhất mà trước giờ tôi
chưa hề gặp”.
Vào thập niên 50 Suzuki đã trở thành một
thần tượng làm hứng khởi cả một thế hệ trí thức và văn nghệ sĩ trẻ đầy
tài năng và mở đầu cho phong trào gọi là Zen Boom. Các văn nghệ sĩ trong
Beat Generation như Allen Ginsberg, Jack Kerouac và Gary Snyder đều xem
Suzuki là thần tượng. Jack Kerouac trong buổi chiều ăn mừng xuất bản
tác phẩm Dharma Bums, đã gọi điện thoại xin gặp và được Suzuki
đãi một chén trà xanh. Kerouac hỏi: “Ý chỉ của Đạt Ma đông độ là gì?”
Suzuki không trả lời, Trước khi từ giã, Kerouac nói: “Tôi muốn ở lại với
ngài mãi mãi’. Những cuộc gặp gỡ ‘định mệnh’ là giữa Suzuki và một số
học giả Phật giáo sau này, trong đó có Phillip Kapleau. Chứng
kiến những thảm cảnh trong chiến tranh, và những cuộc giết người tập
thể, chàng thanh niên Kapleau diện kiến Suzuki tại thiền viện Kamakura.
Hình ảnh thanh tịnh giải thoát của Suzuki đã làm người sĩ quan trẻ này
trở lại Nhật 5 năm để vào tu tại một thiền viện. (11)
Năm 1953 Suzuki trở lại Mỹ và phát khởi
một thời kỳ thường gọi là Zen Boom, trăm đóa hoa Thiền nở rộ. Ông dạy
các lớp Triết lý Thiền vào buổi chiều tại đại học Columbia và sinh viên
phần lớn là họa sĩ, các nhà sáng tác nhạc, thi sĩ, các bác sĩ tâm thần,
giáo sư triết lý. Kapleau nhận xét: “ sự hiện diện của Suzuli gây nên
chất men của đời sống tân linh-trí thức ở New York vào đầu các năm 50.
Mặc dù chỉ là một học giả-cư sĩ đã 80 tuổi, không phải là tiếng nói sư
tử hống của một thiền sư, nhưng Suzuki đã thực hiện được những thành tựu
đáng kể. Một thân một mình, ông đã giới thiệu giai đoạn đầu tiên về trí
thức và thực tập Thiền ở Mỹ. (12) Tập san The New Yorker viết về
Suzuki vào năm 1957: “Ông là một học giả nổi tiếng và ăn nói lưu loát về
Phật giáo Thiền tông, chi nhánh có hàng triệu cư sĩ Nhật tu tập và đã
thu hút được nhiều nghệ sĩ, trí thức và tâm lý gia ở Tây phương…trong đó
có nhà xã hội học Arnold Toynbee, Aldous Huxley, Martin Heidegger, C.G.
Jung và Karen Horney. (13)
Một trong những ‘đồ đệ’ tâm linh của
Suzuki sau này dính líu tới lịch sử chiến tranh Việt Nam là Richard
Gard, lúc đó đang nghiên cứu luận án về Phật giáo. Gard là người lo thủ
tục để đưa Suzuki qua Mỹ dạy học tại Claremont Graduate School. Khi ‘vụ
Phật Giáo’ bùng nổ tại Miền Nam, và khi Thầy Quảng Đức tự thiêu ở ngã tư
Phan Đình Phùng và Lê Văn Duyệt ngày 11 tháng Năm năm 1963, Bộ ngoại
giao Mỹ và chính Kennedy ngỡ ngàng hỏi: “Họ là ai? Tại sao chúng ta
không biết gì về họ cả?”. Bộ Ngoại Giao Mỹ thành lập một đơn vị gọi Văn
Phòng Phật giáo Sự Vụ (Office of Buddhist Affairs) do Richard Gard phụ
trách. Khi tân đại sứ mới vừa được bổ nhiệm, Cabot Lodge, muốn biết về
Phật giáo, người trình bày cho Lodge không ai khác hơn là Gard. Theo
chương trình Gard chỉ được trình bày cho tân đại sứ 10 phút. Nhưng khi
nhân viên tuỳ tùng nhắc nhở, Lodge vẫy tay ra dấu cho người tùy tùng đi
chổ khác và nói ‘chuyện này quan trọng. Tôi cần nghe để hiểu thêm’.
Lodge tâm sự là ông cũng biết ít nhiều về Phật giáo nhờ một người anh em
họ đang tu tập như một Phật tử, người đó là William Sturgis Bigelow,
một chuyên viên trước đây đã cố vấn chánh phủ Mỹ về Phật giáo Nhật! Gard
đề nghị Lodge nên gặp các nhà lãnh đạo Phật giáo Việt Nam. (14) Tất cả
đều nhờ sự sắp xếp của Phật tử Richard Gard.
Một trong những học trò tâm đắc khác của
Suzuki là Robert Aitken. Khi chiến tranh vừa xảy ra Aitken đang làm
việc như là một kỹ sư xây dựng tại Guam, bị chánh quyền Nhật bắt vào
trại tập trung. Trong trại tình cờ Aitken được đọc tác phẩm Zen and English Literature
của R.H. Blyth. Năm 1944 Blyth đột nhiên hội ngộ Blyth trong trại tập
trung ở Kobe. Blyth gốc Anh trước đó được gởi đi Ấn Độ nhưng ông không
chịu được chế độ thực dân nên xin đổi sang Đại Hàn. Ông dạy Anh Ngữ cho
một trường do một người Nhật quản lý và năm 1940, dù lập gia đình với
một phụ nữ Nhật, ông vẫn bị đưa vào tại tập trung dành cho những kiều
dân của các nước thù nghịch. Khi được phóng thích, Aitken trở về Hawai
và theo học ngành văn chương và sau đó nghiên cứu tại đại học Berkeley,
California. Thoạt tiên ông theo học thiền thoại đầu với Senkazai, nhưng
sau đó với sự giúp đỡ của Suzuki, vào năm 1950 ông xin được học bỗng học
một năm ở Nhật. Aitken đã học được Thiền Tào Động ‘chỉ ngồi Thiền’ thay
vì lo giải đáp mấy công án. Vào năm 1953 Suzuki còn ảnh hưởng được một
vài nhân vật khác, đặc biệt là Linh mục Thomas Merton, một nhà huyền học
Thiên Chuá dòng Trappist. Merton sau này cùng với một số linh mục
trappists khác như anh em Berrigans tham gia phong trào chống chiến
tranh. Daniel Berrigans cùng Nhất Hạnh mạn đàm về bạo động trong chiến
tranh trong tác phẩm The Raft is Not the Shore xuất bản năm 1975 trước khi chiến tranh Việt Nam chấm dứt. (15)
Trong giai đọan nở rộ, ảnh hưởng rõ ràng
nhất của Thiền là phân tâm học. Trong hội nghị về Zen Buddhism and
Psychoanalysis (Thiền và Phân Tâm Học) vào năm 1957, Suzuki là một diễn
giả chính. Từ năm 1934 Carl Jung đã nhìn thấy Zen và Phân Tâm Học có
cùng một mối quan tâm, đó là chữa trị tâm linh (Spiritual healing) và
chuyển hóa tâm thanh tịnh. Cũng như tâm lý học, Thiền Phật giáo đề cập
đến Tâm (Mind) và Thức (Consciousness). Trong sự giao lưu này Suzuki đã
cố gắng dùng những thuật ngữ của tâm lý Tây phương để giải thích Thiền.
Trong khi Thiền là khoa về ‘tâm linh’, các phân tích tâm lý học có những
giới hạn riêng. Các nhà phân tâm học như Erich Fromm nhận xét là sau 2
ngày đầu của hội nghị, không khí đã thay đổi rõ rệt. Mọi người trở nên
chăm chú và tĩnh lặng hơn. Ảnh hưởng hỗ tương giữa Thiền Phật giáo và
Phân tâm học ngày nay đã đi một bước dài, phản ánh qua sự hợp tác giữa
Đức Đạt Lai Lạt Ma và các nhà thần kinh học trong các chương trình
nghiên cứu ảnh hưởng hỗ tương giữa não bộ và tâm thức. Suzuli ngưng
giảng dạy tại đại học Columbia và nghỉ hưu năm 1957.
Không phải người nào cũng thỏa mãn với
hình thái Thiền mà Suzuki giảng dạy cho trí thức Tây phương. Hồ Thích
chỉ trích là hình thái Thiền mà Suzuki quảng bá không phải là loại Thiền
mà người Nhật và Trung Quốc hiểu, và không dính líu tới gốc rễ lịch sử.
Hồ Thích là một sử gia nên muốn biết Thiền xuất hiện thế nào và biến
chuyển ra sao, Suzuki xem Thiền vượt không và thời gian và vì là một
phương pháp trị liệu ‘tâm linh’ phổ biến. Thiền cần phải được ‘bắt giữ’
từ bên trong không phải là một sự kiện ‘lịch sử’ bên ngoài và nhất là
phải hành Thiền nếu muốn hiểu Thiền. Thiền dù xuất phát từ Phật giáo,
nhưng không phải chỉ dành cho Phật tử, mà có thể liên hệ đến bất cứ
truyền thống tâm linh nào. (16) Conze có nhận xét là Thiền được phát
sinh và thực hành để đạt tới mức ‘vô niệm’ như Lục Tổ Huệ Năng phát biểu
trong bài kệ “Bổn lai vô nhất vật’ và công án Vô là công án lớn nhất
trong Thiền. Hoàn cảnh văn hóa Tây phương sau thời kỳ khai sáng là văn
hóa hoàng hôn của những thần linh, như tựa một tác phẩm của Nieztsche,
và văn hóa Ky Tô- Do Thái đã lạc mất truyền thống huyền nhiệm tâm linh
và đang đứng trên bờ vực thẳm của chủ nghĩa hư vô. Thiền đáp ứng với tâm
trạng của giới trí thức (và thanh niên trong phong trào Beats) và không
ai ngạc nhiên khi thấy Thiền phát triển nhanh chóng ở Mỹ. Lối biện luận
nghịch lý, sắc tức thị không, không tức thị sắc, vô không phải là hữu
mà cũng không phải là vô rất lôi cuốn với trí thức Tây phương lúc nào
cũng duy lý. Wez Nisker nói đùa là Thiền đã lật ngược câu tuyên bố của
Descartes: thay vì ‘tôi suy nghĩ nên tôi hiện hữu’, Thiền tuyên bố ‘tôi
suy nghĩ nên tôi không hiện hữu!’. Tưởng là đùa nhưng có thể là thực, ai
biết được. Bồ Đề Đạt Ma ngồi im lặng ngó vách đá 9 năm, một trong những
tổ Thiền tông Việt nam là ‘Vô Ngôn Thông’. Một chỉ trích khác là thiền
Lâm Tế chú ý đến công án thoại đầu nên dễ dẫn tới trình trạng có những
người chưa ngồi Thiền mà vẫn nói Thiền và muốn người khác gọi mình là
Thiền Sư! Những tác phẩm liên hệ đến thiền Tào Động thường được trình
bày một cách kém cõi và bằng một thứ Anh Ngữ ‘ba rọi’ nên không được
người Tây phương tiếp nhận. Tào Động chủ trương ngồi Thiền đã ‘just
sitting’. Thực hành xong rồi muốn nói gì thì nói! Tôi chợt để ý tới một
thuật ngữ quảng cáo của Nike ‘Just Do It’. Người quảng cáo tiếp thị này
có lẽ thực hành Thiền Tào Động!? Quý độc giả và tôi còn ở trong thế giới
ta bà, nên còn người viết và người đọc Thiền! Nói láo mà chơi nói láo
chơi. Khi nào chưa chịu để bàn toạ trên gối, theo dõi hơi thở và cảm
thọ, tất cả đều đáng ‘vất xuống sông’! Just Do It! Bàn luận công án
thoại đầu lam chi cho mất thì giờ.
Phát triển đột phát của Thiền còn có thể
giải thích bằng lý do liên hệ đến lịch sử và địa lý chánh trị. Một phần
nước Mỹ kề cận Châu Á, nhất là chế độ đặc biệt của lãnh thổ Hawaii và
cuộc chạy đua tìm vàng ở bang California vào thế kỷ 19. Những Phật tử da
trắng cũng đã sớm thành lập các Thiền đường ở San Francisco ngay từ năm
1928 và ở Los Angeles vào năm 1929 và First Zen Institute ở New York
vào năm 1931. Mục tiêu chính yếu của Suzuki là truyền bá Zen cho trí
thức Tây Phương dĩ nhiên là ông cần một hình thái Zen thích hợp với tâm
cảnh người Tây phương. Những tên như Lâm Tế hay Tào Động không quan
trọng gì mấy, chỉ trừ khi muốn đem đạo Phật trồng trong chậu như một thứ
cây cảnh.
Như tựa một quyển sách của thầy Huyền Diệu, khi hồng hạc bay về… đất Mỹ, vùng đất mới trù phú và cởi mở hơn đã khởi đầu cho thời kỳ chuyển luân lần thứ tư.
Sau Nguyên Thủy, Đại Thừa và Kim cương thừa, Phật giáo Mỹ với tinh thần
khoa học của thời hiện đại và văn hóa Ky Tô-Do Thái khi giao lưu với
Phật giáo sẽ sản sinh một thứ ‘tân thừa’ nào? Lời tiên đoán cuả Toynbee
sẽ được đáp ứng đến mức nào?
Beat Zen: từ hippies phản chiến
Beat Generation là từ ngữ dùng cho một
nhóm văn nghệ sĩ nổi tiếng vào thập niên 50. Các nghệ sĩ có ảnh hưởng
chính là thi sĩ Ellen Ginsberg, Jack Kerouac, Gary Snyder. Mặc dù Jack
Kerouac nhận xét hóm hỉnh là ‘ ba người không thể làm ra một thế hệ’
nhưng trong vòng một hai thập niên nhóm đã gây ảnh hường rộng lớn, không
những trên bình diện nghệ thuật, cung cách sống, lề lối tư duy mà còn
lan rộng đến lĩnh vực chính trị, nhất là quan hệ đến phong trào chống
chiến tranh Việt nam và liên hệ đến mục tiêu của chương này, phổ biến
ảnh hưởng của Phật giáo, nhất là Thiền Tông ở Mỹ. Bài thơ Howl của Ginsberg, hai tác phẩm On the Road và Dharma Bums
của Kerouac và những bài thơ dịch Hàn San (Cold Mountain) của Garry
Snyder đã là những dấu mốc của thế hệ Beat. Nhân vật khai dựng phong
trào Beat là hai sinh viên ở đại học miền Đông nước Mỹ, Columbia
University, nhưng về sau hưởng ứng phong trào “Go West’, Beat ‘dời đô’
về California với sự tham dự của một nhóm sinh viên văn nghệ sĩ ở đây
trong đó có Garry Snyder. Kerouac giới thiệu cụm từ the Beat Generation
vào năm 1948 có nghĩa là một thế hệ ‘mệt mõi’, ‘thua cuộc’ (beaten down’
hay bị đánh mất), và cuối cùng đồng ý với từ ngữ Beat. Từ ngữ sau này
đồng nghĩa với người lữ hành không nhà (homeless bohemien), rồi thành
thế hệ thanh niên nổi loạn hippies, nhưng khác với hành ảnh của James
Dean, hippies nổi loại có nhiều lý do và khi chiến tranh Việt Nam leo
thang đến cực điểm, hipies trở thành sinh viên phản chiến Vietniks. Về
phương diện tôn giáo họ là những Dharma Bums, giúp cho Thiền
bùng nổ hay bùng nở tại Mỹ. Nói như một tác giả trên Wikipedia, tác giả
Dharma Bums giúp Phật giáo trở nên quen thuộc tại Mỹ. (17)
Năm 1982 Ginsberg tóm tắt những ‘ảnh hưởng quan trọng’ của Beat Generation như sau:
- Giải phóng khỏi những trói buộc truyền thống: giải phóng tâm linh,
tình dục hay là những trào giải phóng phụ nữ, giới tính, da mầu như
phong trào dân quyền của Martin Luther King hay ngay cả phong trào da
đen như Black Panther…
- Giải phóng kiểm soát tư tưởng (qua hình thức kiểm duyệt)
- Giải hoặc những huyền thoại về các loại cần sa ma tuý và các loại LSD…
- Phong trào âm nhạc da mầu (Jazz) và thanh niên (Rock and Roll) như nhóm Beatles và Bob Dylan sau này.
- Tạo một ý thức về môi sinh (Gaia- Fresh Planet)
- Chống đối ảnh hưởng của guồng máy khổng lồ quân sự-kỹ nghệ
- Thành hình một ý thức mới về tôn giáo tương ứng với văn minh hiện đại
- Khuynh hướng ‘vô tổ chức’ bột phát thay vì khuồn khổ cứng nhắc trong
văn chương và triết lý (ảnh hưởng của Thiền) Tôn trọng văn hóa bản
địa.(18)
Chương này chỉ chú trọng mối liên hệ
giữa Beat Movement và sự bùng nở của Thiền tại Mỹ và những hoạt động
chống chiến tranh của thanh niên Hippies Mỹ, từ Dharma Bums tới sinh
viên biểu tình chống chiến tranh, do guồng máy quân sự- kỹ nghệ ở Mỹ
điều khiển.
Sau thế chiến thứ Hai, Mỹ đã trở thành
cường quốc số một, đóng vài trò lãnh đạo các nước đồng minh Âu Châu cũ.
Nhưng chiến tranh lạnh làm căng thẳng mối liên hệ giữa hai khối Tư bản
và Cộng sản. Về kinh tế Mỹ chưa có thời nào phồn thịnh đến thế. Mức sống
của một người dân bình thường còn hơn những ông hoàng bà chúa của thế
kỷ trước. Chủ nghĩa tư bản biến hình thành chủ nghĩa tiêu thụ. Phần lớn
thanh niên trong thập niên 60 từ chối bị giam hãm trong.một hệ thống làm
việc, sản xuất, tiêu thụ, làm việc sản xuất, tiêu thụ’ (19) Chủ nghĩa
kinh tế Keynes áp dụng hữu hiệu sau thế chiến dần dần bị thay thế bỡi
chủ thuyết neo-cons; ý niệm công ích và công dân thay thế cho tư lợi và
người tiêu thụ. Các nước Âu châu ảnh hưởng bởi truyền thống công bằng
nên trên thực tế là một thứ chủ nghĩa xã hội trá hình, xem chánh phủ có
nhiệm vụ phục vụ công ích cho dân chúng. Kinh tế, văn hóa và chính trị
giữa Mỹ và đồng minh Âu Châu càng ngày càng xa cho đến gần đây cựu bộ
trưởng quốc phòng Mỹ Rumsfelt gọi các nước không chịu tham gia chiến
tranh Iraq là ‘Âu châu cũ”. Thực ra các nước ‘Âu châu cũ’ đã từ chối
tham gia vào chiến tranh Việt Nam do tổ hợp Quân Sự và Kỹ Nghệ Mỹ giật
dây. Không có một người lính nào của Pháp, Anh hay Gia Nã Đại chịu đến
Việt nam để bảo vệ tiền đồn thế giới tự do!
Chiến tranh lạnh cũng có cái giá của nó:
tuân phục chánh sách của chánh phủ về chánh trị và khuôn mẫu xã hội và
văn hóa. Dân chúng Mỹ đã hưởng tiện nghi trước giờ chưa từng có, nhà
nước chỉ đòi hỏi ‘hy sinh’ nho nhỏ: tuân phục ‘ý’ của chánh phủ. Nếu
không, chánh phủ có thể dùng một chánh sách truy lùng phù thủy như
McCarthyist, hay một câu mà Bush nhắc đền trước khi khởi đầu chiến tranh
Iraq: ai không theo ta là chống ta. Năm 1953 Tổng thống Eisenhower ra
sắc lệnh 10450, ra lịnh chánh phủ phải cách chức những người nào ‘nhẹ
nhàng’ khi đối phó với cộng sản, cũng như những người nào ghiền cần sa
và ma túy, có khuynh hướng tình dục bất thường, những người bị bệnh tâm
thần, ngay cả những hội viên hội khỏa thân (20)
Một điều quan trọng nữa là thế hệ thanh
niên thuộc thời kỳ hay gọi là tiền- và thế hệ Boomers, sinh ra vừa trước
và sau thế chiến hai, đã không còn tin tưởng vào tôn giáo định chế và
nhất là không còn tin vào Chúa của Ky Tô và Do Thái giáo. Như Wes Nisker
thú nhận, thế hệ của ông là thế hệ ‘rối loạn’, một thế hệ ‘không nhà’
về phương diện tâm linh (spiritual homelessness). (21) Đối với họ Chúa
chỉ là một nhân vật bịa đặt như ông già Nô-en và xem thế hệ cha mẹ tin
tưởng vào huyền thoại tôn giáo là chuyện buồn cười và lố bịch.
Thế hệ này cũng sống trong một thời đại
có quá nhiều ‘cách mạng’ về khoa học, xã hội, tình dục, giới tính, dân
quyền… Thuyết tương đối và sau này là phong trào ‘hậu hiện đại’ đã khiến
cho những ý niệm như ‘có thực’, ‘đúng’ hay ‘tốt’ chỉ là những điều ước
đoán và thanh niên chấp nhận thái độ sống ‘gì cũng được’ (Whatever!).
Đối với họ thế giới và cuộc đời dường như bị kiểm soát bởi luật bất định!
Những cái gọi là nguyên tắc đạo đức chỉ là cấu trúc xã hội, không có gì
là tuyệt đối. Những khám phá về vũ trụ đã hạ bệ vai trò của con người
xuống…vượn và những điều vừa được khám phá về khoa di truyền cho thấy
con người chia xẻ hầu hết những genomes của các loài vi khuẩn. Những
khám phá về kỹ thuật trong nửa thế kỷ sau của thế kỷ 20 như bom nguyên
tử, thuốc ngừa thai, transistor, lasers vân vân khiến con người càng… xa
nhà để đi lạc vào những ngôi làng thế giới (global village). Các thanh
niên Mỹ và nói chung thanh niên Tây Phương trở thành tỵ nạn tâm linh. Phần
lớn quay đầu tìm về đạo học huyền nhiệm Đông phương, nhất là Ấn giáo và
Phật giáo Thiền tông. Wes Nisker đi tìm con đường tâm linh từ lúc 12
tuổi khi không còn tin vào sự hiện hữu của ông già Nô-en và…Chúa. Và bắt
đầu con đường tâm linh bằng một câu hỏi giản dị: Tôi là ai? Đối với
người Phật tử câu hỏi này khá quen thuộc: ‘Tâm của con đâu, đưa ra để ta
an tâm cho!”
Trong khi phong trào hậu hiện đại Tây
phương bắt đầu bằng những phản ứng như triết lý-phản triết lý, văn
chương-phản văn chương, các thanh niên Mỹ cũng bắt đầu nổi loạn để thoát
khỏi cái mà Nisker gọi là sự ‘cô đơn sâu thẵm’. Khi biết là Chúa không
hiện diện, họ muốn đi tìm một điểm tựa tâm linh mà họ không thể gọi tên.
Văn hóa của thế hệ thanh niên Mỹ có thể gọi là văn hóa-phản văn hóa.
Các nhà tư tưởng thời Khai Sáng đã cướp quyền của Chúa (nếu chúa hiện
hữu!) và dựa vào quyền lực của lý trí và chuyển giao lý trí cho khoa
học. Các thế hệ tiếp đó phải đối diện với hố thẵm hư vô. Đâu là ý nghĩa
của đời sống? Một quốc gia non trẻ như Mỹ với nhiều nhà suy nghĩ tự do
nhờ lối suy tư ‘dân chủ’ ‘tự do’ và ý niệm ‘cá nhân’ của Alexis de
Tocqueville trong Democracy in America. Quá nhiều chọn lựa nên
dễ lạc đường! Các nhà kinh tế thì quảng bá cho chũ nghĩa thực dụng: làm
việc cần mẫn theo đạo đức Tin lành, sung túc là ân sủng của Chuá, càng
tiêu thụ nhiều càng tốt, cái gì ở Mỹ cũng lớn hơn và tốt hơn, để phục vụ
nhu cầu tiêu thụ, càng cần tăng mức sản xuất: từ tư bản (cổ điển) sang
tiêu thụ (tân cổ điển). Tâm trạng mà các nhà tâm lý gọi là ‘tự kỷ’
(Narcissism) khiến ‘nhiều người trong chúng tôi đi tìm Trí Tuệ trong
truyền thống Á Châu, thoát cái ngã tự kỹ đến một cái ngã liên hệ trong
hệ thống duyên khởi chằng chịt’ (22) Và người ta chứng kiến cảnh tượng
các thanh niên Mỹ thuộc thế hệ Boomers đổ xô trong cuộc hành trình về
phương Đông. Jack Kerouac thấy một viễn kiến về thế hệ tương lai của
thanh niên Mỹ trong Dharma Bums : “Tôi có một viễn kiến về một
cuộc cách mạng trong tương lai. Hàng ngàn, và có thể hàng triệu thanh
niên, với ba lô trên vai, đi lang thang khắp nơi, lên núi cầu nguyện,
làm các trẻ em cười, làm người già vui thích, làm thiếu nữ hạnh phúc,
làm các phụ nữ già còn hạnh phúc hơn. Tất cả hành giả này là những thiền
sư mộ đạo điên cuồng” (Zen lunatics) (23)
Tác giả bài nầy đã ghi lại hiện tượng
Đông Du Ký này trong bài điểm sách Bắt Trẻ Đồng Xanh (bản dịch của Phùng
Khánh): Một số thanh niên, trí thức, khao khát đi tìm ánh sáng Phương
Đông. Tác phẩm On the Road của Jack Kerouac phản ảnh phong trào thanh niên lên đường thời đó: một ba lô rugsack trên vai, một ít tiền, đưa ngón tay cái chỉ lên trời xin quá giang đi khắp nước Mỹ, đi qua biên cương nước Mỹ, tới Ấn Độ, Tây Tạng, Sri Lanka, Nepal, Nhật và Đại Hàn để “tầm đạo và học đạo.”
Thế hệ Beat có lối sống hoàn toàn ngược
lại với những kỳ vọng của một xã hội Mỹ sau thế chiến: phóng túng ngoài
mọi khuôn khổ ‘đạo đức’, tóc dài váy ngắn là một hình thức phản kháng,
tìm những cảm giác ‘siêu thực’ psychedelic qua cần sa và nhất là LSD, rày đây mai đó On the road.
Thay vì chấp nhận chủ nghĩa cá nhân narcissim và tư lợi, họ chia xẻ tài
sản với nhau kể cả tình dục. Nisker gọi đùa đó là một thứ Socialist
Zen! Trong Dharma Bums, Kerouac, Snyder và một số hippes khác vừa làm tình tập thể vừa bàn chuyện văn chương triết lý và ngồi thiền! Họ là những American Bohemians (Hobo)
mặc áo hoa màu sặc sỡ, chơi nhạc Rock and Roll và twist loạn cuồng. Họ
đã đặt nền móng cho ‘cách mạng’ về văn hóa và sự phục hưng tâm linh ở Mỹ
trong nửa sau của thế kỷ 20 (24) Họ là thế hệ đã mất-lost generation-
thế hệ bị thất bại-Beat Generation, những nhà tâm linh bị gạt ra ngoài
lề, hay tự động đứng ngoài lề, của một xã hội chỉ chú trọng vật chất
lạnh lùng. Họ là những nhà đạo học huyền nhiệm, ngây thơ đi tìm một viễn
kiến tâm linh riêng. Họ là thế hệ Phật tử Mỹ đã đưa vào từ ngữ Phật
giáo vào ngôn từ Mỹ như Karma, dharma, nirvana và mantra. Mỗi người theo
triết lý Á Châu huyền nhiệm riêng. Trong số 4 nhà sáng lập Beat
Generation, Allen Ginsberg bị cuốn hút bởi truyền thống Hindu sặc sỡ
nhiều mầu sắc. Đến thập niên 70 vẫn còn những thanh niên thiếu nữ theo
Ranakrisna nhảy múa, đánh trống chập chõa ngoài đường phố. Nhờ ba cuốn
Thiền Luận và nhân cách của Suzuki, phần lớn các nghệ sĩ khác bị cuốn
hút bỡi Thiền, nhất là Thiền Lâm Tế của Nhật.
Nhưng trong thập niên 60 và 70 các
Hippies trở thành Flower Child, tham dự phong trào phản chiến, mặc áo
hoa mầu sặc sỡ, đem hoa cài đầu và cài vào họng súng của các vệ binh
quốc gia Mỹ. Trong các cuộc biểu tình chống chiến tranh Ginsberg đã tụng
thần chú Om trước hàng ngàn sinh viên tham dự. Đây không phải là một
ứng lại chiến tranh Việt nam, vì trong bài thơ mở đầu cho phong trào
Beat vào năm 1955. trong bài thơ Howl tại phòng triễn lãm Six Gallery ở San Francisco Ginsberg, đã cực lực tố cáo thần chiến tranh qua tên Moloch:
Moloch, đầu óc chỉ là máy móc
Moloch, máu chảy trong người là tiền
Moloch, 10 ngón tay là 10 đạo binh
Moloch, ngực chứa đầy chất nổ.
Bài thơ này được đọc trước sinh viên
trong buổi ra mắt Beat vào năm 1954 ở San Frnscisco. Mười năm sau, Mỹ
tăng gia chiến tranh ở Việt nam và Ginsberg trở thành phát ngôn viên của
phong trào phản chiến. Những nhà đạo học thi sĩ như William Blake,
Thoreau và Whitman, thần tượng của nhóm Beat, trước đó đã là những người
chống lại tổ hợp Quân sự-Kỹ nghệ. Có rất nhiều thanh niên Mỹ quay về
hướng Phật giáo không phải vì triết lý trừu tượng về nát bàn, mà là
chính vì chiến tranh Việt Nam. Vào giữa thập niên 60 đến đầu thập niên
70, Việt Nam là trọng tâm của nhiều thanh niên, dù chiến đấu cho chánh
phủ hay chống chiến tranh. Mỗi đêm trên truyền hình, công chúng thấy
cảnh dội bom của không lực Mỹ xuống ruộng làng của một quốc gia phần lớn
là nông dân ở bên kia của trái đất, với những cảnh tượng kinh hoàng và
mỗi đêm họ nghe truyền hình, nghe thấy con số tổn thất của lính Mỹ càng
nhiều thêm, mà chánh phủ không đưa ra biện chính rõ ràng. Thành phần ‘ôn
hòa’ thì đâm ra bất bình với chánh phủ, và khi thấy cảnh tượng leo
thang chiến tranh, sẽ gia nhập hàng ngũ của thành phần Hippies và cực
đoan, hay ít nhất là phong trào chống chiến tranh. Theo lời kể của Wes
Nisker, có nhiều bạn của anh thú nhận là họ tham gia phong trào chống
chiến tranh chỉ vì trước đó chứng kiến hình ảnh tự thiêu của bồ tát
Quảng Đức (25)
Những người có ác cảm với Hippies cho là
họ sống truỵ lạc, vô ‘luân lý’ hoặc là những thành phần chính trị ‘cực
đoan’ phản chiến, tuy nhiên hiểu động cơ đàng sau lối sống nổi loạn này,
ngưòi trong cuộc như Nisker có thể khẳng định là hippies, những Hobo
không nhà đã tạo ra một môi trường cho sự phục hưng tâm linh của Mỹ. Phong trào Hippies là một hiện tượng tâm linh,
không phải chỉ là một phong trào văn hoá, chính trị hay xã hội. Cũng
như những nhà cải cách xã hội trước đây, họ có thể họ là những người ngây thơ không tưởng nhưng không thể nào phủ nhận những nổ lực của họ đi tìm một viễn kiến mới cho khủng hoảng tâm linh lúc bấy giờ.
Nhưng tại sao Phật giáo, nhất là Zen,
lại nổi bật giữa ngôi rừng triết lý Đông phương? Một lý do hiển nhiên là
nhờ vai trò của Suzuki, khiến những cánh sen Zen nở rộ. Thứ hai, không
như Ấn giáo có trăm ngàn thần linh, Phật giáo, nhất là Zen, không có một
thần linh nào. Chỉ có tứ vô lượng tâm mà Tây phương dịch là Big Sky
Mind. Trong hội chợ âm nhạc ở Monterey, California vào năm 1967, một
tượng Phật cao 3 thước được dựng ở cổng ra vào. Mổi người tham dự được
tặng một hoa orchid và chủ đề của hội là “Hoà bình, Tình Yêu và Hoa”.
Theo Nisker, cảnh sát không bắt giữ ai vì được các thiếu nữ mỹ miều tặng
hoa và hôn. Khi hội chợ bế mạc, hầu hết cảnh sát được cài hoa trên mũ.
(26)
Trên bình diện triết lý/tôn giáo, thế hệ
Beat Generation đã được tư tưởng khai sáng nhắc nhở, những huyền
thoại/thần linh chỉ là những câu chuyện ‘văn chương’. Các nhà đạo học Mỹ
trước đó như Whitman và Thoreau đã thấy ‘một hạt bụi’ trong thiên thu,
nên đã thích ứng với túi khôn của Ánh Châu trong hoàn cảnh xã hội Mỹ.
Những người sáng lập Thiền Beat đều tốt nghiệp đại học hay hậu đại học,
thấy được ngõ cụt của Triết lý Tây phương và Thiền đã mở ra những khoảng
trống thênh thang. Triết lý Thiền đơn giản, nghịch lý, khôi hài và bí
nhiệm. Không có gì đề chứng tỏ, để đạt được. Vô chứng diệc vô đắc, dĩ vô sở đắc cố. Ngay cả những nhà nghiên cứu Phật giáo như Alan Watts cũng phê bình là Beat Zen chỉ là một ‘mốt’ thời trang nhất thời,
trong khi đó có những người qua Nhật học chỉ muốn tìm một đạo sư để có
những giấy chứng nhận treo tường, những người mà Watts gọi là Square
Zen. Watts còn nhắc tới Zen, hàm ý là loại Zen trung thực. Vấn đề là ai có đủ tư cách để gọi người khác hay mình là Thiền sư ‘trung thực’?
Một yếu tố khác quyến rũ thanh niên thời đó và Phật giáo không có giáo điều.
Các nhà tư tưởng Tây phương thường có quan điểm rắn chắc cố định như tư
bản, xã hội, Marxist, thần học Ky tô, Tin Lành hay chủ nghĩa quốc gia.
Thủ lãnh hippie Abbie Hoffman được hỏi kiến về chủ nghĩa, trả lời là tất
cả những isms đều là những giáo điều cứng nhắc. Trong khi Phật giáo,
nhất là Thiền, chủ trương bất nhị, không phải hai mà cũng không là một,
mẫu thuẫn, nghịch lý, điên rồ. Triệu Châu khi nói con chó có Phật tính
khi nói không. Núi có khi không là núi, sông có khi không là sông. Những
người vào cửa Thiền theo lối ngang vào tắt, không biết Thiền dựa kinh
điển nào. Thoạt nhin giống như thái độ ‘vô chánh phủ’ (anarchist) thích
hợp với tâm cảnh nổi loạn của giới trẻ.
Bốn mươi năm sau khi nhìn lại hứng khởi
và ảnh hưởng của Beat Generation, ngưòi phát pháo cho phong trào văn
hóa- phản văn hóa, khi quán chiếu thâm sâu về lý tưởng từ bi Bồ tát đối
với mọi chúng sinh, Ginberg nhận ra rằng, lý tưởng này tương phản với
mọi tư tưởng chánh trị của phe tả cũng như phe hữu. Một thế giới càng
ngày càng giống luật rừng xanh, ngưòi nào mạnh nhất là những người sống
sót như trong giả định của Darwin, ai mạnh hay bền sức sẽ sống sót trong
quá trình chọn lựa tự nhiên. Ginsberg nhận xét về xã hội giàu có như
Mỹ, đại diện cho xã hội tiêu thụ khác, tài sản càng ngày càng dồn trong
tay thiểu số, thiếu cái mà các thiền sư Beat gọi là ‘công lý kinh tế’.
Ginsberg tự hỏi, làm thế nào có thể bảo toàn một thế giới văn minh khi
mọi người khác ngoài các nước phát triển, đang sống vất va vất vưỡng,
nếu không muốn nói là chết đói?! Con đường mà các thiền sư Beat chọn lựa
trong thập niên 60 và 70 là con đường ‘giải phóng’. Ginsberg xác nhận
là ‘Phật giáo với lượng trí tuệ vô biên có thể đóng góp cho những những
vấn đề lưỡng nan về kinh tế và chính trị’. Ông kết luận dứt khoát: Phật
giáo là VÀNG RÒNG (pure gold) (27)
Chân dung hippies phức tạp, có thể là
một người sống phóng túng, muốn phá tung khuôn khổ chật hẹp về tôn giáo,
đạo đức hay xã hội, trụy lạc với cần sa và psychedelic, phản chiến hay
một người đi tìm lời giải đáp cho khủng hoảng tâm linh. Thế nhưng vào
các thập niên này, biểu tượng dễ thấy nhất về tôn giáo của một người
hippie là Đức Phật. (27)
Kiểm điểm lại những người tham dự Beat chính yếu ta mới hiểu tại sao. Jack Kerouac là tác giả của Dharma Bums và Scriptures of the Golden Eternity,
với lý luận như thể là của Long Thọ. Nhiều người cho Kerouac là
Nagarjuna Mỹ! Snyder theo học Zen 10 năm ở Nhật, về nước tiếp tục cặm
cụi làm thơ và dịch thơ. Tập thơ Hàn San được giải Pulitzer. Phillip
Kapleau với 2 tác phẩm về Thiền, Three Pillars of Zen và Zen Dawn in the West,
đã trở thành 2 tác phẩm cổ điển về Thiền. Sharon Salzberg và Joseph
Goldstein hiện dạy Thiền Vipassana cho phật tử Mỹ; Daniel Goleman viết Destructive Emotions
và hiện đang hợp tác với Đức Đạt Lai Lạt Ma trong công trình nghiên cứu
sự liên hệ giữa não bộ và ý thức. Robert Thurman dịch kinh Duy Ma Cật và tác giả Inner Revolution, giáo sư về Phật giáo Tây Tạng tại đại học tại Amherst College và
trong nhiều năm là thông ngôn riêng của Đức Đạt Lai Lạt Ma. Robert
Aitken, tọa chủ thiền viện Diamond Shanga ở Hawaii, tác giả Taking the Path of Zen và The Mind Clover. Wes Nisker tác giả The Big Bang, the Buddha… được
dùng làm nguồn chính nghiên cứu trong chương này. Jack Korfield, Joanna
Macy…. chỉ kể một ít tên liên hệ đến nghiên cứu của tác giả. Ở Anh
Shangharaksita thành lập Western Buddhist Order và hiện là một phòng
trào hoằng pháp quy mô nhất ở Tây phương. Stephen Batchelor tác giả Buddhism Without Beliefs phản ảnh quan điểm mới của Phật tử Tây phương, hiện vẫn còn được tranh luận.
Khi chim sắt bay trên trời
Vào thế kỷ thứ 9, một nhà ‘tiên tri’ Tây Tạng, Padmasambhava tuyên bố: Khi
nào chim sắt bay trên trời, và ngựa chạy trên bánh xe, dân Tây tạng sẽ
lưu lạc tứ tán như một đàn kiến trên thế giới. Và Dharma sẽ truyền bá
trên đất của người da Đỏ. Thường sấm chỉ là vũ khí chánh trị như
sấm của Vạn Hạnh hay Trạng Trinh và thường chỉ được bàn sau khi mọi sự
đã xảy ra. Nhưng sự kiện lịch sử là dân Tây Tạng lưu lạc bốn phương trời
và Phật giáo Tấy tạng càng ngày càng sáng ngời trên quê hương người da
Đỏ, thường được biết bằng tên Hiệp Chủng Quốc
Lúc hoàng hôn ngày 17 tháng Ba năm 1959,
Tendzin Gyatso, Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14, giả dạng làm một nông dân,
lén ra khỏi Cung điện mùa Hạ và thoát khỏi vòng vây của vệ binh Trung
Quốc tại thủ đô Lasha. Ngài được một toán kỵ mã Tây tạng đón trên bờ
sông Kyichu và đưa ngài qua rặng Hy Mã Lạp Sơn chập chùng vào Ấn Độ. Khi
mà Trung Quốc đóng cửa biên giới, có hàng trăm ngàn người Tây Tạng vượt
biên qua Ấn.
Ấn là quê hương của Đức Phật và Phật
giáo Tây Tạng liện hệ mật thiết với Phật giáo Ấn. Vào thế kỷ thứ 7 Phật
tử Ấn đã xây dựng tu viện Tây tạng đầu tiên và cả 4 tông phái Tấy Tạng
để có thể liên hệ về các tổ sư Ấn. Tam tạng kinh điển ở Tây Tạng dịch
trực tiếp từ tiếng Phạn nhờ thế mà một số kinh điển vẫn còn sống sót
được sau khi quân Hồi giáo Thổ Nhĩ Kỳ tàn sát 10 ngàn tăng già và san
bằng Đại học Nalanda ở bắc Ấn. Nơi dung chứa tàn tích Phật giáo, Lhasa
hiện cũng bị tiêu hủy dưới bàn tay, mỉa mai thay, của con cháu các Phật
tử đời Đường.
Nửa thế kỷ đã trôi qua. Kim Cương Thừa
hiện nay còn phát triển ở Tây phương còn hơn các thừa khác. Với sự hỗ
trợ của các trí thức (như Robert Thurman ở Mỹ và Matthieu Ricard ở
Pháp), văn nghệ sĩ (quá nhiều để kể tên nhưng hình ảnh Richard Gere nổi
bật nhất) đối với quần chúng Phật tử thế giới, đức Đạt Lai Lạt Ma đã
nghiễm nhiên trở thành biểu tượng của Phật giáo. Sách vở về Phật giáo
Tây tạng được xuất bản nhiều hơn bất cứ một thừa nào khác. Đó là một
hiện tượng đáng suy ngẫm khi thấy Kim Cương thừa ở một quốc gia cô lập
giữa rặng núi trùng điệp Hy Mã Lạp Sơn đã thích ứng với văn hóa và tôn
giáo Ky Tô- Do Thái.
Một thiền sư Việt Nam khiêm tốn
Đoạn trên chúng tôi có nhắc đến mối liên
hệ kỳ thú trong vụ Phật Giáo, đó là việc Đại sứ Cabot Lodge có một
người anh em họ là Phật tử, Sturgis Bigelow. Năm 1963 Bigelow là một
chuyên viên đặc trách tôn giáo tại bộ ngoại giao và ông cũng là một Phật
tử Beat. Khi đến Việt Nam nhậm chức, từ phi trường Lodge đi thẳng đến
toà đại sứ và thăm một nhà sư tỵ nạn tại đó. Người đó không ai khác hơn
là Trí Quang. Lodge có lẽ được thông tin từ người anh em họ nên sau này
đã tỏ có cảm tình với các nhà lãnh đạo Phật giáo Việt nam. Hình ảnh tự
thiêu của thích Quảng Đức giữa ngã tư Phan Đình Phùng và Lê Văn Duyệt,
hai tay chấp ấn được đài truyền hình đưa đến tận mỗi nhà người dân Mỹ.
Dù chấp nhận và ủng hộ cuộc tranh đấu của Phật giáo, nhiều người dân Mỹ
cũng không hoàn toàn hiểu động tác ‘bạo động’ này. Vào năm 1966 khi thầy
Thiên Ân đến Mỹ dạy ở International Buddhist Meditation Centre ở Los
Angeles, Thầy giải thích cho các thiền sinh đó là một việc làm khẩn cấp.
Thấy kể trong chiến dịch nước lũ vào đêm 20 tháng 8 năm 1963, có 20
ngàn tăng ni và trí thức trên toàn quốc bị nhốt vào tù. Chính Thầy Thiên
Ân cũng nhiều lần bị bịt mắt trong khi di chuyển từ nhà tu này sang nhà
tù khác. Thầy Thiên Ân Thích Quảng Đức được phật tử và dân chúng tôn
thờ như bồ tát và chính nhờ những tăng ni tự thiêu sau đó mà Thấy mới
được thả ra một ngày trước khi phái đoàn điều tra của Liên Hiệp Quốc đến
Việt Nam. Sự ủng hộ của các phật tử Mỹ đối với phong trào Phật giáo và
sau này cuộc vận động hòa bình của Phật giáo Việt nam rất đáng kể. Thiền
viện San Francisco và thiền viện Rochester Zen Centre đã làm lễ cầu an
cho những nạn nhân chiến tranh và quyên góp tiền bạc cho hoạt động cứu
trợ. Tại New York thiền sư Boris Erwitt biểu tình trước trụ sở Liên Hiệp
Quốc, được các cơ quan truyền thông đưa lên bản tin chính buổi chiều.
Vào cuối thập niên 60 khi chiến tranh tăng gia khốc liệt, nhóm Beat như
Gary Snyder, Richard Parker và dĩ nhiên Ginsberg và nhiều hội viên của
San Francisco Meditation Centre đã tự còng tay vào hàng rào Hải Quân và
ngồi Thiền chống chiến tranh Việt nam. Ở Hawaii Robert Aitken cũng tham
gia vào phong trào phản chiến. Nhóm bất bạo động trong phong trào phản
chiến trong hội liên hữu và hòa giải Phật giáo hợp tác với Thầy Nhất
Hạnh trong chiến dịch vận động hoà bình. (29) Nhìn lại, Phật giáo Việt
nam mang ơn nhiều cá nhân và tập thể, trong đó có những người như Bác sĩ
Erich Wulff và các hippie Mỹ!
Trong số những thiền sư để lại dấu ấn
trong lịch sử phát triển Phật giáo ỡ Mỹ, Rick Fields nhắc tới Thầy Thiên
Ân, một nhà sư và một học giả. Thầy Thiên Ân đến Mỹ năm 1966 như một
giáo sư thỉnh giảng về Ngôn ngữ và Triết lý Đông Phương tại đại học
UCLA. Theo dự tính Thầy sẽ về nước một năm sau đó. Khi sắp hết hạn kỳ
một số học trò của Thầy mang các mẫu di trú và nói: ‘Ở Việt Nam có rất
nhiều Thầy có khả năng dạy Phật pháp trong khi ở Mỹ có rất ít, Thầy về nước ai dạy chúng con?”
Thầy bắt đầu các lớp học tại một căn nhà
thuê ở downtown Los Angeles, Hollywood. Thầy đã từng du học ở viện đại
học uy tín nhất ở Nhật, Đại học Wasada, và là một thiền sư thuộc dòng
Lâm Tế như Suzuki. Thầy rất hiền lành và rất dễ gặp. Thầy sẵn sàng làm
bất cứ một điều gì giúp đệ tử với một nụ cười bao dung, dù là khi Thầy
ngồi thiền, đổ rác hay đang dạy học. (30)
Thầy cho phép tứ chúng đều được thọ
giới. Có những người thọ giới như tăng ni, cạo tóc, sống một cuộc đời
độc thân như Tỳ kheo hay Tỳ kheo ni. Thầy cũng thọ giới cho những nam và
nữ cư sĩ có gia đình và xem vai trò của cư sĩ cũng quan trọng ngang với các tu sĩ trong việc truyền bá Phật giáo ở Tây phương.
Rick Fields dẫn một nhận xét của đệ tử Thấy:
Mối đam mê và quan tâm của Thầy là
Phật giáo và Phật tử Mỹ vì Thầy thấy Mỹ như là nơi có thể chấn hưng và
tích tụ chánh pháp và hy vọng trong tương lai sẽ mang Phật giáo từ Tây Phương trở lại Đông Phương ,
khi Á Châu sẵn sàng để tiếp nhận chánh pháp trở lại. Nhưng sau 1975
Thầy không do dự một chút nào khi khuyến khích đệ tử lập những chương
trình giúp đỡ thuyền nhân. Điều này có nghĩa là nhân lực và
tài lực trong việc giảng dạy của trung tâm bị phân tán. Nhưng Thầy là
hiện thân của lòng từ bi, cho nên Thầy làm bất cứ một điều gì mà Thầy
xem là bổn phận của mình. (31)
Thầy và các đệ tử tổ chức các trung tâm
định cư, gây quỹ mua nhà tạm trú cho tỵ nạn, xây niệm Phật đường để tạo
trung tâm sinh hoạt văn hóa cho người Việt tỵ nạn trong các ngày lệ
truyền thống. Một thuyền nhân nói là ông không bao giờ nghĩ là mình còn
có thể giáo dục con cái theo truyền thông Phật giáo. Cách xa đất nước
hàng vạn dặm, các thuyền nhân đã tìm thấy Chùa Phật Giáo Việt Nam như một quê nhà mới.
Vào tháng 9 năm 1980, Thầy Thiên Ân cảm
thấy trong người không khoẻ, Bác sĩ khám phá Thầy bị bướu não. Sau khi
được phẫu thuật và tạm hồi phục, Thầy lại lao đầu vào công việc. Trong
buổi chiều ngày 21 tháng 11 năm 1980 thấy gọi sư cô Karuna vì Thầy thấy
bệnh trạng trở nên nguy kịch. Thầy thị tịch vào buổi sáng ngày 23 tháng
11 năm 1980. Hàng ngàn Phật tử Việt nam ở Mỹ và Phật tử Mỹ đã mất vị Tổ Phật giáo Việt Nam đầu tiên ở Mỹ
và Phật tử Mỹ mất một vị thầy có khả năng đáng kính mến. Có hàng trăm
xe nối đuôi nhau tiễn Thầy từ giã cõi vô thường. Sư cô Karuna được cử
làm trụ trì Trung Tâm Buddhist Meditation Centre và thầy Mãn Giác được
cử làm Hội Chủ Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ.
Tác phẩm How the Swans Came to the Lake, Rick Fields cho một tựa đề nhỏ ‘A Narrative History of Buddhism in America’.
Một chuyện kể khách quan có tính cách lịch sử, nhưng trong số những
người đóng góp trong lịch sử truyền thừa Phật giáo Mỹ, chưa ai nhận được
một lời ngợi khen nào ‘chủ quan’ và ‘cảm động’ như lời của sư cô
Karuna:
Trong tương lai nếu chúng ta nhìn
lại lịch sử truyền thừa Phật giáo tại Mỹ, chúng ta thấy Phật giáo Việt
nam- một Phật giáo(nhập thế- có ảnh hưởng sâu đậm trong trong lịch sử
phát triển Phật giáo tại Mỹ. Một trăm năm sau, tôi nghĩ rằng các sử gia
sẽ nói ‘Hãy nhìn đây, một quốc gia nhỏ bé đã mang đếncho chúng ta một vị
Thầy gây ảnh hưởng sâu đậm trên Phật giáo Mỹ theo một cách mà chúng ta
không bao giờ nghĩ là có thể xảy ra được’. (32)
Chỉ tiếc là vẫn còn một số vẫn muốn
trồng Phật giáo như một thứ cây kiểng, vẫn hoằng pháp cho Phật tử Việt
Nam hay Mỹ một loại vàng giả, thay vì cung cấp những bầu trời cao rộng-
Big Sky Mind- như Suzuki và Thầy Thiên Ân đã từng làm.*
Chú thích
(1) Rick Fields. How the Swans Come to the Lake. Shambala Publications, 1981, Colorado, USW, tr .90
(2) Sđd, tr 97.
(3) Sđd, tr 106.
(4) Sđd, tr 107.
(5) Rahula, Walpola. Zen & The Taming of the Bull. Towards the Definition of Buddhist Thought. Gorgon Fraser, London, 1978, tr 124
(6) Rick Fields, sđd, tr 126
(7) Sđd, tr127.
(8) Sđd, như trên…
(9) Jean-Francois Revel & Matthieu Ricard. The Monk and the Philosopher. (translated from the French by John Canti), Thorsons (HaperCollins Publishers), London, 1998, tr148.
(10) Edward Conze. Thirty Years of Buddhist Studies. Munshiram Manoharlal Publishers, New Delhi, 2000. tr 3.
(11)Phillip Kapleau. Zen: Dawn in the West. Rider, London, 1980 tr 264.
(12) Sđd, tr 265
(13) Tricycal, Winter 1991, tr 7.
(14) Rich Field, Sđd, tr 255.
(15) Nhat Hanh & Daniel Berrigan. The Raft is not the Shore. Orbit Books, New York, 2001 (reprint)
(16) Conze, sách đã dẫn, tr 28.
(17) Wikipedia. đề mục Beat Generation, không có số trang.
(18) Wikipedia, bài đã dẫn.
(19) Jack Kerouac. Dharma Bums. Penguin Classics Deluxe Edition. Trong phần giới thiệu của Ann Douglas, tr Xiii
(20) Tricycle Fall 1995, Carole Tonkinson, Buddhism & The Beat Generation, tr 59.
(21) Wes Nisker. The Big Bang, the Buddha and the Baby Boom. HarperSanFrancisco, New York, 2003. tr IX.
(22) Sđd, tr 22.
(23) Tricycle, Fall 1995, Rick Fields trích lại từ Dharma Bums, tr 82.
(24) Wes Nisker, sách đã dẫn.
(25) Sđd, tr 40-41
(26) Sđd, tr 48
(27) Tricycle, Số Mùa Thu 1995, tr 70-71
(28) Nisker, sđd, tr 44.
(29) Rick Fields, sđd, tr 256.
(30) Sđd, tr 353.
(31) Sđd, tr 355
(32) Sđd , tr 357
* Để chia xẻ vinh dự mà Phật tử Mỹ đã ca
ngợi Thầy Thiên Ân, xin độc giả cho phép tôi được tự khai: tôi thọ tam
quy ngũ giới với Thầy Thiên Ân vào Tết năm 1964 tại chùa Linh Sơn Đà
Lạt. Thầy chở tôi và một vài thầy nữa trên chiếc xe Peugeot cũ kỹ lên Đà
Lat ăn tết và cho tôi làm lễ quy y vào sáng ngày Mồng Một Tết năm Giáp
Thìn, với sự chứng kiến của anh Huỳnh Bá Huệ Dương, lúc đó là đoàn
trưởng đoàn sinh viên Phật tử Sài Gòn. Thầy ban cho tôi pháp danh là
Quảng Trí.