Lâm Tỳ Ni, phạn ngữ là Lumbini, xưa kia là khu vườn 
xinh đẹp của kinh thành Ca Tỳ La Vệ. Hiện nay vị trí khu vườn này nằm 
trên phần đất của Nepal, tiếp giáp biên giới, chỉ cách Ấn Độ khoảng 30 
Km. Lâm Tỳ Ni , nơi đản sinh một Đức Phật, nằm dưới chân dãy Hy Mã Lạp 
Sơn, các sách thường ghi cách thành Ca Tỳ La Vệ cũ khoảng 15 km, rất có 
thể là đường chim bay, trên thực tế phải đi vòng bằng đường lộ nhựa 
khoảng 40km.
								
 1. Chùa Việt Nam, nơi hội ngộ loài chim quý
 
 
      Chim Hồng Hạc. Ảnh: Tâm Bửu  
Khoảng 9 giờ sáng, trên đường đến vườn Lâm Tỳ Ni, đoàn chúng tôi có  
viếng thăm Việt Nam Phật Quốc Tự, ngôi chùa Việt Nam, chùa quốc tế đầu
tiên trên đất Phật thuộc Nepal, do hòa  		thượng Huyền Diệu sáng 
lập. Hòa thượng là một tu sĩ Việt Nam đầu tiên  		kêu gọi Phật giáo các 
nước khôi phục lại thánh tích Phật giáo ở 		Nepal và Ấn Độ trong thời 
cận đại. May  		mắn thay, tại ngôi chùa này, lần đầu tiên tôi gặp được 
vài con chim hồng  		hạc đang đi trong khuôn viên chùa. Trước kia tôi 
chỉ biết được loài chim  		này qua tác phẩm Khi Hồng Hạc Bay Về,
tác giả Người Làm Vườn, tức  		bút danh của hòa thượng Huyền Diệu. Sau 
đó, vào năm 2005 tôi có dịp  		chiêm bái đất Phật một lần, kính viếng 
hòa thượng nhưng cũng không có cơ  		hội gặp loài chim quý hiếm này. Hôm
nay, tại khuôn viên chùa chúng tôi  		nhận thấy có khoảng ba con hồng 
hạc đang đi lang thang trong ao nước  		cạn. Không thể bỏ qua cơ hội, 
chúng tôi ghi một vài hình ảnh thực về  		loài chim này. Chúng cao 
khoảng 1,6m, chân khẳng khiu như cò, nhưng lớn  		gấp trăm lần cò, cổ 
cũng vậy. Đặc biệt là vùng cổ có viền đỏ, vì vậy mọi  		người gọi chim 
này là chim hồng hạc (chim hạc cổ đỏ). Chúng rất dạn dĩ,  		hiền lành, 
không thấy sợ người, chắc quen ở chùa có nhiều khách hành  		hương thăm 
viếng và ngắm nhìn chúng. Nó cũng có những vũ điệu đặc trưng  		như loài
chim công hay những loại chim khác. Khi chúng tôi đến 		thấy chúng dạo 
những vũ khúc rất tự  		nhiên, rất sinh động. Chúng thích đời sống ẩm 
ướt, cho nên trong khuôn  		viên chùa có vũng nước to, cạn để dành riêng
cho chúng sinh hoạt hàng  		ngày. Sau khi quan sát và ghi hình lưu 
niệm, đoàn chúng tôi vào bên  		trong lễ Phật, tham quan quanh khu vực 
chùa và tiếp tục lên đường đến  		vườn Lâm Tỳ Ni, cách chùa khoảng 3km.
 
 2. Vườn ngự uyển Lâm Tỳ Ni (Lumbini), nơi Phật đản  		sanh
 
 
      Quang cảnh vườn Lâm Tỳ Ni.  
Ảnh: Sưu tầm 
Lâm Tỳ Ni là một trong bốn thánh tích được xem 		như quan trọng nhất 
của Phật giáo, gọi  		là tứ động tâm. Tứ động tâm gồm: Lâm Tỳ Ni thuộc 
Ca Tỳ La Vệ (Kapilavatthu),  		Bồ Đề Đạo Tràng (Bodhgaya) thuộc Ma  		
Kiệt Đà (Magadha), Lộc Uyển nơi chuyển  		pháp luân xứ Ba La Nại 
(Benares), và  		Câu Thi Na (Kushinagar) thuộc cộng hòa  		Malla (bang 
Bihar ngày nay), nơi đức Phật nhập Vô Dư Niết Bàn. Bốn thánh  		tích 
trọng đại này được cô đọng trong bốn câu rất dễ nhớ:
“Đản sanh Ca Tỳ  		La
Thành đạo Ma  		Kiệt Đà
Thuyết pháp Ba  		La Nại
Niết Bàn Câu Thi  		Na”.
Lâm Tỳ Ni, phạn  		ngữ là Lumbini, xưa kia là khu vườn  		xinh đẹp 
của kinh thành Ca Tỳ La Vệ. Hiện nay vị trí khu vườn này nằm  		trên 
phần đất của Nepal, tiếp giáp  		biên giới, chỉ cách Ấn Độ khoảng 30 Km.
Lâm Tỳ Ni , nơi đản sinh một Đức  		Phật, nằm dưới chân dãy Hy Mã Lạp 
Sơn, các sách thường ghi cách thành Ca  		Tỳ La Vệ cũ khoảng 15 km, rất 
có thể là đường chim bay, trên thực tế  		phải đi vòng bằng đường lộ 
nhựa khoảng 40km.
Theo phong tục  		Ấn Độ, người con gái sắp đến ngày sinh nở phải trở 
về quê mẹ, hoàng hậu  		Ma Da cũng không ngoại lệ. Trên đoạn đường về 
quê, khi ngang qua khu  		vườn Lâm Tỳ Ni, bà cảm thấy tâm trạng thư thái
nhẹ nhàng, niềm vui lâng  		lâng khó tả giữa những tiếng chim đủ loại 
reo hót trên các cành cây như  		đón chào bà, một thánh mẫu đang mang 
thánh thai. Ánh bình minh tỏ rạng,  		những tia nắng hồng ban mai xuyên 
qua các cành cây cổ thụ để lại những  		vệt sáng dài trên cỏ, làm long 
lanh những giọt sương dường như còn đang  		say ngủ  trong buổi sáng êm ả
đẹp trời. Trong lúc đang say sưa ngắm nhìn  		cảnh vật quanh khu vườn, 
giữa bao kì hoa dị thảo, bỗng nhiên bà cảm thấy  		nhiệm vụ thiêng liêng
của người mẹ bắt đầu xảy ra và phải xảy ra tại nơi  		này. Bà liền với 
tay nắm cành cây vô ưu để vững vàng trong giây phút  		chuyển dạ đột 
ngột. Bà liền cho thị nữ căng màng, trải một nơi nằm tạm  		thời cho giờ
phút thiêng liêng, sự chờ đợi nức lòng của cả chư thiên và  		loài 
người, hay đúng hơn chính là sự mong mỏi của vua Tịnh Phạn và toàn  		
dân kinh thành Ca Tỳ La Vệ. Bà hạ sinh một hoàng nam khôi ngô tuấn tú,  
một đấng trượng phu xuất cách được biểu hiện ngay từ lúc sơ sinh. 
Tương  		truyền rằng, khi sinh thái tử, lúc đó trái đất rung chuyển bảy 
lần, nhạc  		trời rềnh vang cả hư không, muôn chim bay lượn khắp trời, 
cây cối trong  		vườn xinh tươi hẳn lên và đức Bồ Tát hạ sinh từ hông 
phải của mẹ, bước  		đi bảy bước, mỗi bước đều có hoa sen đỡ chân. Ngài 
dõng dạt tuyên ngôn:  		“Thiên Thượng Thiên Hạ, Duy Ngã Độc Tôn, Vô 
Lượng Sinh Tử, Ư Kim Tận  		Hỷ”[1] - Trên trời dưới trời, sự giác 
ngộ là trên hết. Mọi trói cột của sanh  		tử, đời này đoạn diệt hết.
Sau đó, đoàn tùy  		tùng đưa bà hồi kinh, trước sự đón rước mừng vui,
reo hò của thần dân  		trong kinh thành. Và người vui mừng tột độ không
ai khác hơn là vua Tịnh  		Phạn, một người đã ngày đêm khẩn cầu để có 
được hoàng nam xứng đáng kế  		thừa vương vị. Lúc ấy vào ngày trăng tròn
tháng 		Vesak Ấn Độ, tương đương rằm tháng tư  		âm lịch, năm 623 (hoặc
624) trước kỷ nguyên Tây lịch.
Hiện nay, tại  		vườn Lâm Tỳ Ni vị trí quan trọng nhất đang được xây 
kín lại để chống xói  		mòn và hư hoại. Bên trong là những nền gạch cũ 
mục, một vài chỗ phải  		được chống đỡ để khỏi bị sụp đổ. Những vết tích
cổ xưa như dấu chân vẫn  		còn in trên đá, được xác định là vị trí lúc 
Đức Phật đản sinh. Trên bờ  		tường gạch kề bên dấu chân Phật, cách mặt 
đất khoảng 3m có một bức phù  		điêu rất xinh đẹp khắc hình hoàng hậu Ma
Da trong tư thế đứng đang đưa  		tay vịnh cành cây vô ưu, phía trước có
hình thái tử đản sinh và xung  		quanh có những thị nữ đang đứng hầu.
Quang cảnh xung  		quanh Lâm Tỳ Ni ít nhiều cũng có bàn tay chăm sóc 
của con người. Bên  		cạnh nền gạch cũ còn sót lại, một vài cây xanh 
vươn mình che bóng mát  		khiêm tốn trong khoảng trống giới hạn; vài 
khóm hoa cùng đua sắc màu  		trong bầu trời xuân tươi đẹp. Bao nhiêu đó 
cũng làm cho khu thánh địa  		Lâm Tỳ Ni gợi lên được sức sống tiềm ẩn, 
cố chờ đợi sự huy hoàng sẽ được  		lập lại tại khu thánh địa này, nơi 
đánh dấu sự ra đời của bậc vĩ nhân.
 3. Trụ đá Vua A Dục (Asoka)
         
 
      Thạch trụ vua A Dục.  Ảnh: Tâm  		Bửu
 Lâm Tỳ Ni, vườn ngự uyển với bao kì hoa dị thảo, đẹp  		đẽ lạ thường
hôm nào không còn nữa, giờ đây chỉ còn lại một vài cây cỏ  		lác đác 
quanh khu vực và một vài phế tích được tìm thấy bởi các nhà khảo  		cổ. 
May mắn thay cho người con Phật chúng ta, cho những người muốn tìm  		
hiểu về sự thật Phật giáo, một thánh tích dù không còn nguyên vẹn, nhưng
nó đã chứng thật với lịch sử, vẫn hiên ngang với trời đất, vẫn tự 
hào  		với tất cả mọi tôn giáo được tô vẽ bằng huyền thoại. Đặc biệt 
nhất là  		trụ đá của vua Asoka, một vị vua Phật tử đã làm rạng danh 
Phật pháp  		trong suốt triều đại của ông, khoảng thế kỷ thứ III trước 
kỷ nguyên Tây  		lịch. Nhờ những thạch trụ và các dòng chữ còn ghi lại 
trên bia ký, mà  		mọi người còn biết được vị trí chính xác của các 
thánh tích Phật giáo,  		đồng thời cũng là những bằng chứng xác thực cho
Phật giáo ngày nay và  		mãi đến ngàn sau. Nội dung của bia ký được 
khắc trên trụ đá này bằng chữ  		Brahmi, đại khái như sau: “Vào năm thứ 
20 kể từ khi vua Piyadassi (vua A  		Dục) đăng quang, chính ông thân 
hành đến đây để chiêm bái, cúng dường.  		Bởi đức Phật Thích Ca, thánh 
nhân của dòng Sakyā được sinh ra nơi này.  		Ông cho dựng trụ đá để đánh
dấu nơi đản sinh của Phật. Dân làng tại Lâm  		Tỳ Ni được giảm thuế, 
chỉ đóng một phần tám sản phẩm thu hoạch”.
Đoàn chúng tôi làm lễ trước thạch trụ, tưởng niệm đến  		sự kiện đản 
sinh của đức từ phụ Thích Ca hơn 2500 năm về trước, nguyện  		cầu cho 
thế giới hòa bình, chúng sinh an cư lạc nghiệp và nguyện Phật  		pháp sẽ
được trùng hưng nơi Ấn Độ, cái nôi của Phật giáo khắp cả năm  		châu.
 4. Hồ nước và cội Bồ Đề
            		Cách  		trụ đá khoảng 50 m có một cái 
hồ nước vuông, bên cạnh hồ nước có một cây  		Bồ Đề rất lớn. Được tương 
truyền rằng, tại đây hoàng hậu Ma Da đã tắm  		trong hồ nước này sau khi
lâm bồn. Chúng tôi thiết nghĩ, hồ nước này xưa  		kia chỉ là hồ đất, 
nhưng nay được xây dựng lại bằng xi măng và có các  		cấp bậc đi xuống 
đáy hồ một cách dễ dàng. Nước hồ trong xanh và mặt hồ  		yên tĩnh nên 
luôn phản chiếu các cảnh vật xung quanh, dù cách xa như  		ngôi nhà bao 
bọc khu khai quật phế tích hay những cành lá Bồ Đề vươn dài  		trên bờ 
hồ đều phản chiếu một màu xanh biếc dưới bầu trời trong yên ả.  		Ngồi 
dưới tàng cây Bồ Đề râm mát bên bờ hồ, chúng ta cảm thấy thật dễ  		chịu
và nên thơ làm sao! Rất tiếc, chúng tôi không phải nhà thơ nên  		không
thể xuất vài vần thơ làm kỷ niệm. Và rồi thời gian không cho phép  		
nán lại lâu hơn nữa, đoàn chúng tôi tiếp tục lên đường đến Câu Thi Na  	
(Kusinagar), nơi đức Thế Tôn nhập Vô Dư Niết Bàn.
 [1]
 Kinh  				Trường A hàm I.