Vào thế kỷ thứ VI trước kỷ nguyên tây lịch, chính nơi đây đã
xảy ra sự kiện trọng đại và chỉ xảy ra một lần duy nhất trong Hiền
Kiếp đó là sự giác ngộ Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác của Bồ Tát
Thái Tử Sĩ Đạt Ta (Siddhāttha) dòng họ Thích Ca (Sakyā), dưới cội cây
Pippala, hay còn được gọi là cây Bồ Đề. Và từ một sự kiện trọng đại
nhất mà trải qua nhiều đại kiếp mới xuất hiện trên thế gian, quý giá
gấp trăm ngàn lần so với loài hoa linh thoại ngàn năm trổ hoa một
lần, đó là người con Phật chúng ta có được diễm phúc tôn thờ đấng đại
giác Thích Ca Mâu Ni nói riêng hay nhân loại thừa hưởng được một
chân lý tuyệt vời, một niềm phúc lạc vô biên ngay tại cõi đời này nói
chung.
Giá trị nhất trong khu thánh địa này chính là ngôi Đại Tháp và cội
cây Bồ Đề thiêng, nơi đức Phật thành đạo vẫn còn tồn tại mãi theo
dòng chảy thời gian. Cho dù cuộc đời có đổi thay bao lần, sự cố tình
tàn phá của những kẻ đối nghịch, sự biến thiên thăng trầm trong vũ
trụ, thì những gì liên quan đến cuộc đời đức Phật vẫn còn lý do để
tồn tại, để được biết đến như một báu vật trong tiến trình phát triển
văn minh và văn hoá nhân loại. Vì lẽ đó, vào ngày 27 - 6 - 2003,
UNESCO, một tổ chức văn hoá, xã hội, giáo dục của liên hiệp quốc
chính thức công nhận Bồ Đề Đạo Tràng trong danh sách di tích văn hoá
thế giới. Mặc dù đó cũng là niềm vinh dự lớn lao nhưng không là vấn
đề quan trọng mà quan trọng nhất là chân giá trị Phật giáo, đạo Phật
đã đóng góp được gì cho thế giới cho nền văn minh nhân loại, cho hạnh
phúc của con người thì sự công nhận muộn màng đó có nghĩa lý gì đối
với bề dày lịch sử của Phật giáo chúng ta!
Hiện nay, khu Bồ Đề Đạo Tràng có diện tích khoảng 3 hecta đất, bao
gồm nhiều thánh tích quan trọng như tháp Đại Giác, cội Bồ Đề, Bảo
Toà Kim Cang, bảy nơi đức Phật ngự sau khi thành đạo, quần thể tháp
cổ..... Và dường như Bồ Đề Đạo Tràng khu là thánh tích còn nguyên vẹn
nhất so với tất cả những thánh tích khác liên quan đến Phật giáo.
2. Tháp Đại Giác
Mặt chính tháp Đại Giác. Ảnh:
Tâm Bửu
Đại Tháp hay còn gọi là Tháp Đại Giác (Mahabodhi) nằm giữa khu
đất trũng thấp hơn so với mặt đường khoảng 10m. Tuy vậy, từ xa
chúng ta vẫn thấy ngọn tháp cao sừng sững, vươn lên khỏi các ngọn cây
cổ thụ. Cho nên nếu nền tháp ngang bằng mặt đường thì chiều cao của
tháp còn cao hơn nhiều so với chiều cao hiện tại. Với sự trũng xuống tại
ngọn Tháp Chính (Main Stupa) người ta mới nói lên được ý nghĩa
giác ngộ của Phật tại cõi đời này như hoa sen trong bùn hôi tanh mà
vẫn ngoi lên khỏi mặt nước những đoá sen tinh khiết, thơm tho làm đẹp
cuộc đời cả hương và sắc.Theo các nguồn tài liệu sử học, Bảo Tháp
được vua A Dục xây dựng vào khoảng hơn 2 thế kỷ sau khi Phật nhập
Niết Bàn, tức khoảng thế kỷ thứ III trước Tây Lịch để tưởng niệm nơi
Thành Đạo của Phật Thích Ca. Hiện vẫn còn nhiều tranh cãi về lịch sử
của ngôi Bảo Tháp này. Theo lịch sử Phật giáo thì khoảng 218 năm sau
ngày đức Phật nhập diệt, vua A Dục đã đến đây chiêm bái và đảnh lễ.
Sau đó Ông đã cho xây tháp để tưởng niệm nơi Đức Thế Tôn thành đạo.
Căn cứ theo niên đại của những đồng tiền vàng trong số những di vật
được chôn trước Kim Cang Tòa, chúng ta được biết ngôi đại tháp ngày
này được xây dựng lại vào thế kỷ thứ II sau Tây Lịch, được tái tạo
ngay trên nền tháp cũ do vua A Dục xây dựng và đặc biệt là ngôi tháp
lẫn Kim Cang Tòa và cây Bồ Đề vẫn giữ nguyên vị trí cũ không thay
đổi. Tháp này được quốc vương Bengal cho trùng tu vào thế kỷ VII,
nhưng đến thế kỷ XII lại bị quân Hồi giáo phá hủy. Mãi đến thế kỷ
XIV, các vương triều của xứ Miến Điện cho trùng tu lại, nhưng sau đó thì
thiên tai, lũ lụt đã nhận chìm và kể từ đó khu thánh tích này bị
chìm vào quên lãng. Vào năm 1861 ngôi đại tháp được nhà khảo cổ người
Anh tên Alexander Cunningham phát hiện và đã tu sửa một lần. Đến năm
1875 vua Mindoon Min đã chịu toàn bộ kinh phí tiếp tục cho việc
trùng tu đại tháp này. Hiện nay ngôi đại tháp có kiến trúc
tương tợ hình kim tự tháp, vuông bốn cạnh và nhọn dần lên đỉnh, mỗi
cạnh tại chân tháp có độ dài khoảng 15m, chiều cao là 52m. Bốn gốc
đại tháp có bốn ngọn tháp nhỏ, kiểu dáng thu gọn từ đại tháp. Xung
quanh thân tháp có nhiều hoa văn và mỗi hốc tường từ chân tháp lên
đỉnh đều có tôn trí tượng đức Bổn Sư và chư vị Bồ Tát, đặc biệt là
hình ảnh Bồ Tát Quán Thế Âm theo truyền thống Kim Cang Thừa Tây Tạng.
Tháp có nhiều tầng, riêng tầng trệt chu vi khoảng 5 mét vuông,
phía trước chỉ có duy nhất một cửa ra vào, xung quanh không có cửa sổ
hay lỗ thoát khí, tường thành rất dày gần một mét. Bên trong có
tượng Bổn Sư ngồi kiết già trang nghiêm với tư thế xúc địa ấn, mặt
quay về phía cửa ra vào. Hàng ngày có hàng ngàn người từ khắp nơi
trên thế giới trở về thăm viếng, đảnh lễ và cúng dường. Ngoài sự cúng
dường tài vật hoa quả, những người Phật tử thuần tín còn cúng dường
những bộ kim y để đắp lên tượng Phật. Vì nội điện chật hẹp lại có quá
nhiều người chờ đợi nên ít khi nào chúng ta được ngồi lâu làm lễ
tưởng niệm và ngắm nhìn chân dung của Phật. Từ bên trong cho đến bên
ngoài khu đại tháp lúc nào cũng có những đoàn thể hoặc cá nhân tham
quan, tụng kinh, lễ bái, tọa thiền hoặc đi kinh hành xung quanh đại
tháp và cây Bồ Đề trong không khí trầm ấm, thanh tịnh, thiêng liêng
với lời kinh nguyện cầu, tiếng lâm râm tụng chú ... mà không bị loãng
bởi bất cứ một tạp âm nào. Một điều kỳ diệu đối với bất cứ ai được
một lần dừng chân nơi đây, hoặc lễ bái, hoặc tụng kinh hoặc kinh hành,
hoặc khởi lòng chánh tín đối với đức Phật chúng ta đều có chung một
cảm giác an lành, một niềm hoan hỷ trào dâng, đó chính là sự gia trì
của đức Phật cho hàng đệ tử của Ngài hay bất cứ những ai có một chút
nghĩ tưởng đến ân đức của Phật. Vì vậy trong kinh Pháp Hoa
đức Phật đã thọ ký cho mọi người có duyên với Ngài sẽ thành Phật cho
dù đó là đứa trẻ ngịch cát hay những người lòng tán loạn cũng biết
nghĩ tưởng đến Ngài: “ Nhược nhơn tán loạn tâm, nhập ư tháp miếu
trung, nhất xưng nam mô Phật, giai dĩ thành Phật đạo. Du chí đồng tử
hí, tụ sa vi Phật Tháp, giai dĩ thành Phật đạo”. Nghĩa là: Nếu
người lòng tán loạn, vào trong tháp miếu thờ Phật, chỉ cần xướng lên
một câu niệm Phật, (họ) đều đã (có nhân tố) thành Phật. Cho đến trẻ
con đùa giỡn, gom cát xây tháp Phật, đều đã (có nhân tố) thành Phật.
Một dịp may hiếm có đối với chúng tôi chính là đến Bồ Đề Đạo Tràng
vào dịp chư tăng ở các nước Thái Lan, Miến Điện, Tích Lan.... trở về
đây tụng đọc tam tạng thánh điển trong mười ngày, kể từ ngày 12/ 2 –
23/2/2008. Chính vì điều này nên Bồ Đề Đạo Tràng đã đẹp lại càng
thêm rực rỡ bởi đèn trang trí khắp nơi, hoa kiểng được trưng bày thật
trang nhã từ góc tường cho đến những nơi thờ cúng trong thánh tích,
trông thật tuyệt vời và hoành tráng. Nhất là về đêm nơi Bồ Đề Đạo
Tràng càng thêm lộng lẫy, thiền vị gây cho con người một niềm say mê,
yêu thích, trút được bao nỗi niềm sầu muộn, khổ đau, dứt tất cả ưu
tư và hoài nghi khi một lần được đảnh lễ hay ngắm nhìn kim thân của
đấng cha lành, một trong những đấng cứu thế có mặt sớm nhất trong
lịch sử tôn giáo thế giới.
3. Linh thọ Bồ Đề
Linh Thọ Bồ Đề phía sau tháp Đại Giác. Ảnh: Tâm
Bửu
Chúng ta được biết đức Phật thành đạo dưới cội cây Pippala,
loại cây linh thiêng trong tín ngưỡng truyền thống Ấn Độ bởi họ tin
tưởng rằng loài cây này có nhiều thần linh trú ngụ. Vì đức Phật giác
ngộ dưới cội cây Pippala nên chúng ta lấy sự kiện đó đặt tên cho
loài cây này là Bồ Đề, nghĩa là cây giác ngộ. Chính tại dưới gốc cây
này, đức Phật đã phát lời thệ nguyện: “Nếu không đạt thành chánh
giác, dù cho thịt nát xương tan, ta quyết không đứng dậy rời khỏi chỗ
ngồi này”.
Hình dáng của loại cây này rất dễ nhận diện nhờ vào chiếc lá hình
quả tim. Loài cây này rất phổ biến, chúng ta đi khắp nơi trên đất Ấn
chỗ nào cũng thấy bóng dáng của nó. Ngày nay loại cây này không còn
lạ gì trong mắt người Việt Nam, nhất là người Phật tử, cây Bồ Đề luôn
ẩn hiện trong lòng một cảm giác thiêng liêng, không phải bị ảnh
hưởng bởi tín ngưỡng Ấn Độ mà vì nó liên quan đến từ ngữ đặc trưng
trong Phật giáo: Bồ Đề - Giác Ngộ. Mặc dù vậy nhưng không có một cây
Bồ Đề nào trên đất Ấn hay trên mọi miền thế giới có giá trị từ tâm
linh đến lịch sử như linh thọ Bồ Đề tại Bồ Đề Đạo Tràng, vì nó chính
là hậu thân nhiều đời từ cây thủy tổ, cây đã từng che mưa đỡ nắng
trong suốt bốn mươi chín ngày đêm trước khi đức Phật giác ngộ.
Cội cây Bồ Đề này cũng chịu đựng biết bao sóng gió để tồn tại, như
chính con người chúng ta cũng phải chống chọi với biết bao gian khổ
để tìm sự sống cho mình. Dù là một loài cây nhưng phải hội đủ những
yếu tố cần thiết mà trong đó không thể thiếu được tình cảm của con
người dành cho nó. Nếu không có bàn tay yêu thương chăm sóc của con
người thì làm gì có cây Bồ Đề hôm nay để có một giá trị tín ngưỡng
thiêng liêng và sức lôi cuốn mãnh liệt đối với người con Phật hay
hàng triệu người từ khắp nơi trên thế giới đổ xô về Bồ Đề Đạo Tràng
để chiêm ngưỡng cội cây đặc biệt này.
Để thấy được tầm quan trọng của cây Bồ Đề tại Bồ Đề Đạo Tràng,
chúng ta cùng tìm hiểu đôi nét về lịch sử cây Bồ Đề này.
Cội Bồ Đề cách nay hơn 2500 năm che mưa nắng cho đức Thế Tôn ngày
nào không còn nữa. Giờ đây chỉ là cây kế thừa ít nhất là 5 đời được
tính từ cây thủy tổ theo tài liệu của tiến sĩ Schumann và khoảng 7 -
11 đời theo một số tài liệu nghiên cứu khác. Do đó có nhiều giả
thuyết khác nhau về lịch sử cây Bồ Đề, nhưng chúng ta biết chắc chắn
một điều là cội cây này vẫn là cháu chắt nhiều đời từ thủy tổ của nó.
Cây Bồ Đề nguyên thủy vẫn còn sống đến thời của vua A Dục (Asoka) và
được nhà vua xây rào bảo vệ. Bên cạnh đó Ông đã nhân rộng cây quý
này bằng cách chiếc nhánh của nó gửi tặng cho vua Tích Lan
(Devanampiya Tissa), trồng tại thành phố cổ Anuradhapura vào
năm 242 trước kỷ nguyên Tây lịch.
Vua A Dục chăm sóc cây Bồ Đề này rất cẩn thận. Hàng ngày vua đến
thăm cây Bồ Đề với cả lòng ưu ái và kính trọng xem như một báu vật
quốc gia vì quá sùng kính đức Thế Tôn. Do lòng ghen tỵ, quý phi diễm
lệ của A Dục tên là Tisyaraksita, đã hạ lệnh lén chặt cây Bồ Đề và
thiêu hủy nó, bởi bà tưởng rằng trong cây ấy có loại tiên nữ nào đã
làm mê muội nhà vua mà Ông phải dành nhiều thời giờ quan tâm đến cây
ấy hơn bà.
Vua A Dục đã trồng lại cây Bồ Đề từ nhánh cây được chiết ở Tích
Lan đem về. Lần này nhà vua chăm sóc cây rất cẩn thận, Ông cho xây
bức tường thành cao 3m để bảo vệ.
Việc phá hủy cây Bồ Đề lần hai do vua Sasanka xứ Ganda (Bengal),
trị vì khoảng năm 600 – 620, vì lý do tôn giáo. Vua Sasanka theo
ngoại đạo nên không thích Phật giáo. Ông đã truyền lệnh đốn cây
thiêng này đồng thời đem đốt toàn bộ gốc rễ làm cho tuyệt giống cây
này.
Đến cuối thế kỷ VIII vua Purnaverma của Maghada, người nối dõi
cuối cùng dòng vua Asoka, Ông đã trồng lại cội Bồ Đề. Vua thành
khẩn cầu nguyện và chăm sóc cây Bồ Đề cẩn thận, mong nó được tốt tươi
và phát triển nhanh. Ngoài ra, Ông còn cho xây bức tường cao khoảng
7,5m để bảo vệ, tránh đi sự phá hủy của kẻ xấu.
Sự phát triển và tươi tốt của cội cây thiêng này đến khi quân đội
Hồi giáo xâm chiếm Ấn Độ vào năm 1201 thì bị phá huỷ. Chính vì chiến
tranh tôn giáo của kẻ cuồng tín và cực đoan trong nhận thức, nên họ
đã phá hủy toàn bộ thánh tích Phật giáo, trong đó ngôi Đại Tháp và
cây Bồ Đề cũng chịu chung số phận hoại diệt dưới tay của kẻ xâm lăng
bạo tàn. Mặc dù vậy, chân lý vô thường sinh diệt của đạo Phật đã được
minh chứng qua sự kiện hồi sinh của cây Bồ Đề. Ngay nơi gốc cây đã
bị tàn phá, một chồi non đã nhú lên và phát triển nhanh chóng, cành
lá sum suê, như báo hiệu một niềm hạnh phúc đã trở về trên quê hương
Phật giáo. Nạn kiếp trôi qua, vạn vật cũng như con người trở lại sống
trong chuỗi ngày thanh bình, như chính thuở nào họ đã thừa hưởng
được cuộc sống hạnh phúc, an lành trong ánh đạo từ bi của Phật giáo.
Đến năm 1875, cây Bồ Đề bị khô chết và trong một cơn bão sau đó,
cội Bồ Đề đã bị cuốn phăng đi, kết thúc một giai đoạn cho sự tồn tại
và phát triển của cây này. Về sau cũng chính nơi đó chồi non lại tiếp
tục nảy nở và phát triển, sự sống vẫn được liên tục kế thừa từ mạch
sống của cây Bồ Đề tổ tiên. Cội Bồ Đề này đã lớn lên và phát triển
đến ngày nay, được tính trên 130 tuổi, cách tháp chính khoảng 5m. Mặc
dù trải qua nhiều lần sinh diệt, nhưng vị trí ngày hôm nay so với
gốc cây ban đầu vẫn không có sự thay đổi chuyển dịch, vẫn định vị như
gốc cây nguyên thủy mà hơn 2500 năm về trước nơi mà nhà khổ hạnh Sĩ
Đạt Ta đã giác ngộ thành Phật.
Theo định nghĩa thực vật học, cây Bồ Đề là "ficus religiosa" nghĩa là
biểu tượng cho trí tuệ và sự giác ngộ của Đức Phật, nên gọi là "cây
giác ngộ," hoặc thường được gọi là "cây Bồ Đề." Thực ra, các nhà thực
vật học xác tính tuổi thọ của loại cây này chỉ trên dưới 300 năm. Do
đó, nếu không có sự hủy hoại của những thế lực ngoại đạo hay lòng
hiềm thù cá nhân của một ai đó thì tự thân của loại cây này cũng phải
tự diệt tự sinh theo một quy luật của nó mà thôi. Cần biết thêm một
điều, cây Bồ Đề là cây có khả năng ký sinh, nghĩa là có thể sống và
phát triển trên một hốc cây mục nào đó, hoặc ngay nơi thân cũ của nó.
Hầu như quá trình kéo dài hàng ngàn năm cho sự tồn tại và phát
triển, thì các chồi non của chính nó, sẽ lấy dưỡng chất từ thân cây
mẹ nuôi dưỡng cây mới và cây cũ sẽ chết trong một hình thái bị bao
bọc và che kín dần của cây mới tức cây con của nó. Đó là quy trình
sống của loài cây đặc biệt này, loài cây có khả năng sống mãnh liệt
và dễ thích nghi dù bất cứ môi trường khắc nghiệt nào. Nơi nào có sự
sống thì nơi đó cây Bồ Đề có khả năng tồn tại, cũng giống như nơi nào
có chúng sanh nơi đó có mặt đạo Phật, nơi đó cần được cứu khổ.
4. Bảo Tòa Kim Cang (Vajrasana)
Bảo tòa Kim Cang là vị trí đức Phật ngồi nhập định 49 ngày đêm
dưới cội cây Bồ Đề, khoảng cách nằm giữa Đại Tháp và cội Bồ Đề. Theo
lịch sử Phật giáo thì tòa này được vua A Dục xây vào khoảng thế kỷ
thứ III trước Tây Lịch. Ngày nay tòa Kim Cang được bảo vệ trong một
hàng rào xi măng có lối kiến trúc cổ và thêm một hàng rào có trụ bằng
kim loại mạ vàng do Tích Lan xây dựng bao quanh rất trang nghiêm.
Thật ra, ngày xưa đức Phật không phải ngồi tịnh tu trên một bảo tòa
sang trọng và uy nghiêm như chúng ta được nhìn thấy từ các bức tượng
mà Ngài ngồi trên một bó cỏ khô được trải trên đất. Vị trí này đã làm
sáng ngời lên một chân lý từ một con người khổ hạnh vĩ đại trở thành
một vị Phật hiệu là Thích Ca Mâu Ni (Sākyamuni), giống như lời huyền
ký của quá khứ Phật Tỳ Bà Thi từ 91 kiếp về trước. Bằng sự nỗ lực
thiền định trong 49 ngày đêm, vào đêm cuối, khoảng canh đầu, tuệ giác
được sáng ngời lên trong tâm trí từ sự quán chiếu về lý duyên khởi,
Ngài chứng được Túc Mạng Minh, thấy rõ luân hồi tái sanh của chính
mình và chúng sinh từ vô lượng kiếp về trước đã từng sanh đi tử lại
như thế nào, đã từng làm loại chúng sanh nào trong quá khứ... Sang
canh giữa, Ngài chứng được Thiên Nhãn Minh, thấy rõ con đường tái sanh
của chính mình và tất cả chúng sanh trong tương lai nên còn gọi là
sanh tử minh. Đến canh cuối Ngài chứng được lậu tận minh, đoạn tận vô
minh, chấm dứt mọi nhân tố tái sinh, thấy rõ khổ nguyên nhân đưa đến
đau khổ và con đường đưa đến chấm dứt khổ đau. Khi sao mai vừa ló
dạng, Ngài thấu triệt toàn thể vũ trụ, giác ngộ hoàn toàn, chứng
đắc vô thượng chánh đẳng chánh giác, tức thành Phật, đã khởi nguồn
cho một đạo Phật xuất hiện trên thế gian. Bài kệ xướng lễ tóm tắt
trọn vẹn sự kiện đặc biệt này trong bốn câu: “Bồ đề thọ hạ, hàng phục
ma quân, nhất đổ minh tinh, đạo thành chánh giác”. Nghĩa là: dưới
cội Bồ Đề, nhiếp phục ma quân, thấy ánh sao mai, giác ngộ thành Phật.
Lúc đó vào ngày rằm tháng 12 âl, Ngài vừa tròn 30 tuổi theo Bắc
Truyền và Nam Truyền vào ngày trăng tròn Vesak, tức khoảng rằm tháng
tư âl, Ngài được 35 tuổi.
5. Bảy nơi đức Phật ngự sau khi thành đạo
Nơi Phật thiền hành vào tuần thứ
ba sau khi giác ngộ. Ảnh: Sưu tầm
Xung quanh khu đại tháp có những tấm bảng xác định vị trí bảy nơi
mà đức Phật đã ngồi để suy tưởng chánh pháp và chuẩn bị cho con đường
hoằng pháp của mình.
Tuần đầu tiên sau khi giác ngộ, Ngài vẫn ngồi yên tịnh tại vị trí
cũ để thọ hưởng sự tịch tịnh giải thoát mà Ngài đã khổ công tìm kiếm,
chút nữa là phải bỏ mình để trả giá cho cuộc tìm cầu chân lý vĩ đại
này.
Tuần thứ hai Ngài rời khỏi cội Bồ Đề di chuyển đến hướng Đông Bắc
cách cội Bồ Đề không xa để ngắm nhìn lại nó suốt cả tuần không hề
chớp mắt nhằm tỏ lòng tri ân cội cây này đã che mưa đỡ nắng cho Ngài
suốt thời gian qua.
Tuần thứ ba, Ngài thiền hành tại dãy Chankramenar, dọc theo
hành lang phía Bắc của đại tháp. Trên hành lang này có khối đá dài
khắc biểu tượng hoa sen, chính là những đóa hoa kỳ diệu hiện ra đỡ
chân đức Phật khi Ngài kinh hành lui tới trong phạm vi này.
Tuần thứ tư, tại đền Ratnagraha, đức Phật đã ngồi thiền để suy
tưởng về những pháp cao thượng. Lúc đó toàn thân Ngài phóng ra những
luồn hào quang năm màu rực rỡ: xanh, vàng, đỏ, trắng, cam. Từ sự kiện
đặc biệt này, ông Henry Steel Olcott đã lấy năm màu này phối hợp cho
lá cờ Phật giáo, trở thành màu đặc trưng tiêu biểu cho lá cờ Phật
giáo quốc tế.
Sau đó đức Phật đã đến ngồi dưới tàng cây Nigrodha vào tuần lễ
thứ năm. Ngày nay vị trí này đối diện với đại tháp gần cổng ra vào.
Trong lúc đang ngồi thiền định có một vị Bà La Môn đến hỏi Phật: “Này
tôn giả Cồ Đàm, làm thế nào để trở thành một Phạm thiên và những
điều kiện nào để trở thành Phạm Thiên?”. Đức Phật đáp: “Này Bà La Môn,
người nào đã xa lánh mọi điều xấu xa tội lỗi, không còn ngã mạn, đã
thanh lọc mọi ô nhiễm, thu thúc lục căn, thông suốt các pháp học,
sống đời phạm hạnh thiêng liêng, người ấy được coi là Phạm Thiên. Đối
với người ấy không còn có sự bồng bột, dầu vẫn đang ở bất cứ nơi nào
trên thế gian”.
Vào tuần thứ sáu đức Phật ngồi thiền tại bờ hồ Mucalinda thuộc
hướng Nam của đại tháp. Lúc ấy mưa to sấm chớp nổi lên, rồng chúa
Mucalinda hiện ra lấy thân quấn xung quanh thân Phật và dùng đầu làm
tàng lọng che cho Phật khỏi bị mưa gió làm ướt.
Tuần thứ bảy, đức Phật ngồi thiền định dưới cội cây Rajayatana. Lúc
đó có hai vị thương gia Tapussa và Bhallika người Miến Điện đi
ngang qua thấy đức tướng trang nghiêm của Phật, hai vị này khởi tâm
cung kính nên dâng bánh bột gạo và mật cúng dường Ngài. Đức Phật đã
ban tặng cho hai vị thí chủ này những lời cầu chúc an lành cùng với
một nhúm tóc của Ngài để làm kỷ niệm. Hai vị này được xem là hai vị
cư sĩ đầu tiên cúng dường đức Phật sau ngày thành đạo.
Sau tuần thất thứ bảy này đức Thế Tôn tư duy về pháp mà Ngài vừa
chứng ngộ, đồng thời quan sát căn tánh chúng sinh để chuẩn bị cho
cuộc chuyển bánh xe chánh pháp, vì lợi lạc cho chư thiên và loài
người.
6. Sông Ni Liên Thiền (Niranjara)
Lòng sông Ni Liên Thiền
(Niranjara). Ảnh: Tâm Bửu
Cách Bồ Đề Đạo Tràng khoảng 200 m về hướng Đông có một con sông cạn
chạy dài dọc theo hướng Đông Bắc - Tây Nam hiện nay được người dân
địa phương gọi là sông Lilajan, tức là sông Ni Liên Thiền
(Niranjara), nơi mà có vài sự kiện trọng đại liên quan đến cuộc đời
của đức Thế Tôn được diễn ra trước khi đắc đạo. Trải qua sáu năm khổ
hạnh tại rừng Uruvela, thân thể đã kiệt quệ chỉ còn da bọc xương
nhưng Ngài vẫn chưa nhận ra được đạo giải thoát. Đức Phật đã diễn tả
lại cảm giác của mình và cả sự thất vọng cũng như nghi ngờ trong
đường lối tu khổ hạnh được nhắc đến trong kinh Trung Bộ: “Bất
cứ Sa Môn, Bà La Môn nào từng có những cảm thọ đau đớn, khốc liệt,
khủng khiếp cũng không thể vượt qua khổ thọ này của ta. Tuy thế, với
khổ hạnh vô cùng khắc nghiệt này, ta vẫn không đạt được tối thượng
cứu cánh của nỗ lực trượng phu, đó là tri kiến thù thắng, trí tuệ của
bậc thánh. Vậy có thể có đạo lộ nào khác đưa đến giác ngộ hay
chăng!?”
Sau khi sức cùng lực kiệt, không còn có thể đứng vững hay dời bước
chân của mình được nữa, Ngài được nàng Su Dà Ta dâng cúng bát cháo
sữa rất kịp lúc. Sau khi dùng bát cháo sữa xong, cảm thấy cơ thể khỏe
mạnh trở lại, Ngài đã nhận ra đạo lộ của bậc thánh chính là con
đường trung đạo và Ngài đến bờ sông Ni Liên Thiền ném bát sữa xống
dòng nước với lời khấn nguyện rằng: “Nếu ta sẽ đạt được giác ngộ rốt
ráo thì cái bát này hãy trôi ngược dòng sông”. Quả nhiên, khi cái bát
vừa chạm mặt nước thì nó liền trôi ngược dòng. Lúc ấy Ngài khẳng
định rằng con đường mình chọn là đúng đắn và quyết chắc rằng sẽ thành
Phật. Ngài bước xuống dòng sông này tắm rửa sạch sẽ và vượt qua bên
kia bờ tìm chỗ hạ thủ công phu theo con đường mà mình vừa nhận ra.
Trên đường đến nơi quyết định chọn làm chỗ công phu bằng cả bầu nhiệt
huyết cuối cùng, Ngài có nhận bó cỏ Kusa do chàng thanh niên chăn bò
dâng cúng để làm tòa ngồi tu dưới cội cây Tất Bát La (Pippala), tức
linh thọ tại Bồ Đề Đạo Tràng hôm nay. Cũng từ việc nhận bát cháo sữa
của nàng Sujāta và tắm rửa, đức Phật đã bị năm người bạn đồng tu khổ
hạnh xem thường và họ đã bỏ đi đến vườn Lộc Uyển xứ Ba La Nại tiếp
tục con đường khổ hạnh, cách Khổ Hạnh Lâm (Uruvela) khoảng 200 km.
Trước mắt chúng ta dòng sông Ni Liên Thiền không có nhiều nước,
lòng sông bằng phẳng, rất nhiều cát và độ sâu khoảng 5 tấc nước từ
đáy sông. Vào những mùa khô dòng sông này có những đoạn không còn một
chút nước nào. Và chúng ta có thể đoán chắc rằng, lòng sông này cạn
không phải qua thời gian bị đất cát lắp bồi mà từ mấy nghìn năm về
trước nó vẫn như thế, bởi vì đức Phật đã vượt bộ ngang con sông này
để đến Bồ Đề Đạo Tràng.
Hiện nay, Chính phủ Ấn Độ bắt ngang sông này một cây cầu, nên
chúng ta rất dễ dàng qua lại các khu thánh địa xung quanh vùng Bồ Đề
Đạo Tràng. Từ trên cầu chúng ta có thể nhìn thấy được một số thánh
tích như, chót tháp tại Bồ Đề Đạo Tràng, núi tượng đầu nơi đức Phật
từng tu khổ hạnh.... và cuộc sống cũng như nếp sinh hoạt của toàn thể
cư dân quanh vùng, đâu đó cũng phản ánh được thực tại của đời sống
người dân nông thôn trên toàn lãnh thổ Ấn Độ.
7. Nơi kỷ niệm nàng Su Già Ta (Sujāta)
Nơi kỷ niệm mục nữ Su Già Ta
(Sujāta). Ảnh: Tâm Bửu
Nơi kỷ niệm mục nữ Su Già Ta
(Sujāta). Ảnh: Tâm Bửu
Đoàn chúng tôi có ghé thăm một ngôi làng tên là Su Già Ta
(Sujāta), cách Bồ Đề Đạo Tràng khoảng 5km. Tại nơi này có một ngôi
trường làng dành cho học sinh nghèo cũng tên là Su Già Ta thuộc đạo
Hindu. Bên cạnh trường học có một ngôi mộ cổ bằng gạch nung rất lớn,
đường kính khoảng 20m, cao khoảng 10m, được rào bảo vệ xung quanh,
hình dáng giống như tháp Trà Tỳ của Phật, được các nhà khảo cổ khai
quật vào năm 2002. Người ta cho rằng, ngôi mộ này là tháp tưởng niệm
nàng Su Già Ta, do vua A Dục xây dựng trên ngôi nhà cũ của nàng. Từ
địa điểm này, đi bộ ngang qua một cánh đồng nhỏ khoảng 1, 5 km, chúng
tôi đến một ngôi đền nhỏ thờ nàng Su Già Ta, người thôn nữ năm xưa
đã dâng bát sữa cúng dường đức Thế Tôn trước ngày thành đạo, một
trong hai bữa ăn được đức Phật cho là công đức lớn nhất trong suốt
cuộc đời hoằng hóa của Ngài. Ngôi đền này do Phật giáo Miến Điện xây
dựng để tưởng niệm người thôn nữ ấy vào năm 1983. Bên trong, trên bệ
thờ chỉ có hình tượng đức Phật và tượng người con gái đang quỳ dâng
sữa cho đức Thế Tôn, đây là hình ảnh mà chúng ta được biết qua các
tranh ảnh nghệ thuật Phật giáo ở Việt Nam. Chuyện được kể rằng: Tại
ngôi làng nhỏ sát cạnh khu rừng có gia đình một anh chăn bò, cô vợ
tên Tu Già Ta (Sujāta). Nàng rất sung sướng vừa mới sinh được cháu
trai đầu lòng. Cô dùng sữa thơm ngon nhất vắt từ những con bò của
anh chồng chuẩn bị nấu một bữa ăn thịnh soạn để mang vào rừng dâng
cúng đền ơn cho những vị thần đã giúp cho cô sinh được một đứa con
khỏe mạnh.
Khi vào trong rừng, cô thấy sa môn Tất Ðạt Ða đang ngồi ở đó.
Thân hình của đạo sĩ trông ốm gầy và yếu đuối, nhưng nét mặt của Ngài
vẫn trong sáng và dung nghi toát lên vẻ phi thường. Nàng Su Già Ta
nhìn sa môn với sự ngạc nhiên, cô thầm bảo: “Xưa nay ta chưa bao giờ
thấy nhân vật nào phước tướng như thế, có thể Ngài chính là vua của
các thần cây ở đây!” Và nàng mang thức ăn đặc biệt ấy đến dâng cúng
cho Người. Từ sự kiện này người ta tạc hình tượng một người thôn nữ
đang quỳ dâng sữa cúng dường đức Thế Tôn.
Hướng ngược lại sau lưng ngôi đền này, cũng có bệ thờ hình một
người con gái dáng vẻ quý phái với một người hầu gái dang quỳ dâng
sữa cho đức Phật. Hình ảnh thứ hai này được giải thích như sau:
Nàng là con gái của một điền chủ tại làng Senānī, gần
Uruvelā. Nàng vốn từng cầu nguyện với một vị thần cây rằng nếu sinh
được con trai nàng sẽ dâng cúng cháo sữa cho vị thần ấy. Khi nguyện
ước được thành tựu nàng bèn sai một tỳ nữ có tên là Punna sửa soạn
nơi dâng cúng. Người hầu gái của nàng Su Già Ta ngang qua khu rừng,
nhìn thấy dung nghi lạ thường của nhà khổ hạnh Sĩ Đạt Ta, nghĩ rằng
đó là vị trời hay các bậc thánh, nên chạy về nhà báo cho chủ hay để
chuẩn bị bữa ăn cúng dường. Vì thế sau khi chuẩn bị xong nàng Su Già
Ta cùng với người hầu của mình đến tận nơi để dâng cúng đức Phật.
Dựa vào sự ghi chép này nghệ nhân đã tạc tượng hai người con gái quỳ
dâng sữa cúng dường đức Phật.
Dù sao, sự kiện người thôn nữ tên Su Già Ta dâng cháo sữa
cúng dường nhà khổ hạnh Sĩ Đạt Ta trước khi thành đạo là một sự thật
lịch sử mà không ai có thể phủ nhận, là những điều mà chúng ta lấy
làm tiền đề cho phước đức của phương pháp bố thí, là nền tảng cho
lòng nhân ái và đại từ bi, được thể hiện cao đẹp trong đời sống nhân đức
của người Phật tử, là phép tu đầu tiên trong lục độ vạn hạnh, Bố Thí
Ba La Mật của chư Bồ Tát muốn phát đại thệ nguyện để làm lợi ích cho
tất cả chúng sanh trên cõi đời này.
8. Núi Tượng Đầu và Khổ Hạnh Lâm
Núi tượng đầu nhìn từ
xa. Ảnh: Tâm Bửu
Khu khổ hạnh lâm. Ảnh: Tâm Bửu
Núi tượng đầu cách Bồ Đề Đạo Tràng khoảng 8 km bằng lộ xe, nơi mà
xưa kia đức Phật với nhóm năm anh em Kiều Trần Như (Kondañña) cùng
tu khổ hạnh trong rừng Uruvela, nên khu rừng này còn có tên là khổ
hạnh lâm, tức khu rừng của những người tu khổ hạnh. Từ xa quan sát,
chúng ta thấy trên đỉnh núi này có những mô đá nối dài giống như hình
hai con voi đang nằm đâu đầu với nhau, nên người ta gọi tên núi này
là núi tượng đầu (núi đầu voi).
Đức Phật đã trải qua sáu năm trường gian khổ tại khu rừng này. Sự
tinh tấn miệt mài thực hiện con đường khổ hạnh được những người bạn
đồng tu đương thời phải thán phục và thần tượng một hình ảnh vĩ đại
đáng để noi gương. Ngài nghĩ có thể đạt đến sự giác ngộ bằng cách khổ
luyện, chế ngự mọi cảm thọ, kìm hãm mọi nhu cầu của thân xác, với
niềm hy vọng rằng một khi đã làm chủ được ham cầu của thân xác
thì tâm sẽ được giải phóng khỏi sự thống trị của vật chất để đạt đến
mức độ giải thoát cao siêu. Quá trình tu khổ hạnh đưa đến cho
ngài một kết quả thật thê thảm, một thân xác tiều tụy, héo mòn gần
như không còn chút sức lực để có thể duy trì được mạng sống lâu hơn
nữa. Đức Phật đã mô tả lại điều này trong kinh Trung Bộ: “Vì
ta ăn quá ít mỗi ngày, nên cơ thể ta hết sức gầy yếu. Tay chân ta
như các lóng tre khô đầy khúc khuỷu. Hai bàn tọa của ta trở thành
giống như mống trâu, xương sống với cột tủy lồi ra trông giống chuỗi
hạt. Xương sườn ta lộ rõ như rui cột của một ngôi nhà đổ nát. Đồng tử
của ta nằm sâu trong hố mắt thăm thẳm long lanh giống như ánh nước
long lanh từ đáy giếng sâu. Da đầu ta khô héo nhăn nheo như trái mướp
đắng được cắt đem phơi nắng khô héo. Nếu ta muốn sờ da bụng thì ta đụng
nhằm xương sống vì hai thứ đã dính sát vào nhau. Nếu ta muốn đi đại
tiện hay tiểu tiện thì ta ngã úp mặt xuống đất. Nếu ta chà xát tay
chân thì đám lông hư mục rụng xuống trong tay ta”. Giờ đây chúng ta
không thể hình dung được rằng xưa kia đức Thế Tôn vẫn duy trì mạng
sống với một thân thể da bọc xương như thế. Khi đọc qua đoạn kinh
trên, chúng ta cứ ngỡ rằng đó là một bộ xương khô biết di động mà
thôi!
Tượng Phật khổ hạnh thờ trong
hóc đá, kỷ niệm nơi Ngài ngồi tu. Ảnh: Tâm Bửu
Chúng tôi đến thạch động, nơi mà nhà khổ hạnh Sĩ Đạt Ta đã ẩn cư
sáu năm tu hành. Thạch động nằm lưng chừng núi, không cao lắm, cách
mặt đất khoảng 120 mét. Bên ngoài thạch động có khoảng trống rộng, có
thể dung chứa được vài chục người, mọi người có thể tập trung để
hành lễ. Muốn vào bên trong chúng ta phải chui qua một cái cửa bằng
đá khoảng 1,2 m chiều cao, ngang khoảng 7 tấc. Bên trong rất tối chu
vi nhỏ hẹp, khoảng 3m chiều ngang, 5m chiều dài, cao khoảng 2m, trong
đó có một bệ đá, trên bệ đá thờ tượng Phật khổ hạnh, thân xác ốm gầy
chỉ còn da bọc xương. Nhìn hình ảnh này chúng ta rất cảm động khi
nhớ lại những tháng ngày gian khổ của đức Thế Tôn, Người đã vì đạo,
vì muốn tìm đường cứu khổ chúng sanh mà phải quên mình. Nhiều người
òa khóc thành tiếng, hoặc trào lệ từng giọt lăn dài trên má, thì thầm
trong miệng những lời xót xa hoặc chắt lưỡi, hít hà khi quỳ lạy
trước tôn dung của Ngài. Thật là một hình ảnh đầy ấn tượng không chỉ
đối với người con Phật mà đối với bất cứ những ai biết suy nghĩ yêu
thương đồng loại, biết nghĩ đến nỗi buồn nhân thế.
Ngày hôm nay cuộc sống mọi người nơi đây cũng phản ánh được phần
nào đời sống khổ hạnh của Phật, bởi có quá nhiều người nghèo đói đang
sinh sống, phần lớn họ nhờ vào những đồng tiền van xin nơi lòng
thương hại của khách hành hương ban bố. Và có thể nói, chưa có nơi
nào trên suốt đoạn đường đi tham quan có số lượng người nghèo khổ và
ăn xin nhiều như khu Khổ Hạnh Lâm này. Chúng tôi có cảm giác mảnh đất
lịch sử đầy kỷ niệm này, không chỉ làm nao lòng chúng ta bởi sáu năm
trường khổ tu của Phật, mà cả một quãng thời gian dài hàng mấy nghìn
năm sau đó chỉ để chứng kiến từng hơi thở mệt mỏi và giọt nước mắt
khổ đau, những mảnh đời bất hạnh, làm cho ai cũng phải chạnh lòng
buông tiếng thở dài khi tận mắt chứng kiến: thế kỷ XXI vẫn còn tồn
tại một cuộc sống thiếu văn minh, thiếu vật chất, thiếu những điều
kiện tối thiểu, và thiếu cả tình thương, sự quan tâm chia sẻ của mọi
người. Chúng tôi thiết nghĩ bao giờ có trái tim từ bi như đức Phật
mới thật sự dung chứa và san sẻ hết bi kịch này.
Theo DPNN