Lúc bấy giờ tôi chỉ đi
thăm thú các nơi trong chùa mà không để ý đến cảnh vật chung quanh chùa lắm ,
khi về nhà mới đọc cuốn sách được tặng.
Thật vô cùng thú vị khi
đọc đến đoạn huyền thoại về thiền sư phải ăn rong để sống và rong đó được vớt
tại con sông trước chùa , tôi vội vàng chạy xe lên lại chùa và đi tìm con sông
.
Thật bất ngờ trước chùa
và chung quanh chùa không có con sông nào cả , hỏi thăm các cư dân ở trong vùng
họ bảo ở đây không có sông mà chỉ có khe và suối nhỏ. Tự nhiên ,trong tôi,
giòng sông trở thành một thúc bách ám ảnh trong một thời gian khá dài . Giòng
sông là một ẩn dụ . Sông , suối hay khe đây? với 300 năm biết bao vật đổi sao
dời , sông biến thành suối hay khe cũng là chuyện thường tình . Ba trăm
năm trước núi rừng Thiên thai đầy cọp dữ với những cây cao cỗ thụ với những
tàng thông bạt ngàn , khu rừng rậm ở đây là phần đất bìa của dãy Trường Sơn .
Đứng trên núi Ngự Bình có thể định vị đỉnh núi Thiên Thai và các hòn núi đá bên
cạnh nó xanh ngắt nhưng bây giờ trống trơn , xói mòn có nơi nhà cửa san
sát.
Tôi trở vào chùa lúc đó
hoàn hôn đã xuống và ở đâu đó trong ngôi chùa vẩn còn âm vang những câu nói về
giòng sông này.
Sách Ô Châu Cận Lục của
Dương văn An năm 1555 , trong bài tựa ông viết : " kể từ thời mở nước Việt
ta , do hoạch dịch tự sách trời, ngoài bốn thừa tuyên thì người Chấu Ái khẳng
khái hiếu nghĩa tinh thần hiếu học , Châu Hóa ta tiếp liền xứ Quãng…Xét miền Ô
Lý nước ta nối liền với cõi Nam hoang vu… Tuy nhiên khảo cứu tận nguồn đất này
, thì trước đời Lý Trần , vẫn là bờ cõi của Chiêm Thành , về đời Hồ Lê mới là
quận huyện của triều đình … "
Trong Đại Nam nhất thống
chí, theo Hán Thư thì Nhật Nam là Tượng Quận nhà Tần xưa năm Nguyên Đỉnh thứ I
đổi làm quận Nhật Nam , Tỵ Ảnh và Chu Ngô là 2 trong 5 thành của quận Nhật Nam
đến đời Hán là ứng với châu Ô và châu Lý của Chiêm Thành thời bấy giờ
Trong Đại Việt Sử Ký
Toàn Thư , quyễn VI trang 91 cho biết năm 1306 Hai châu Ô, Lý đựơc vua Chiêm
Thành là Chế Mân dâng để làm lễ dẫn cưới công chúa Huyền Trân , năm sau (1307)
hai châu này được đổi tên là Thuận Châu (nửa nam tỉnh Quảng Trị hiện nay); và
Hóa Châu (toàn tỉnh Thừa Thiên - Huế hiện nay) 2 châu này được vua Trần Anh
Tông giao sai Hành Khiển Đoàn Nhữ Hải đến vỗ yên dân vùng này. Thuận Hóa dần
dần trở thành nơi gặp gỡ và giao lưu hai nền văn hóa, tín ngưỡng rất khác nhau
. Dân Đại Việt chịu ảnh hưởng văn hóa và tín ngưởng của người Hoa , trong khi
dân bản địa là Chiêm Thành có một nền văn hóa Ấn - Hồi.
Dưới sự nam tiến mạnh mẽ
đạo Phật đã nổi bật lên là một tôn giáo mới .
Vào thời các chúa
Nguyễn, xứ Thuận Hóa đã có vô số chùa chiền và thảo am.
Thiền sư Liễu Quán, từ
phủ Phú Yên đi theo thuyền buôn ra Thuận Hóa vào năm 1690 , khai sơn thảo am
Viên Thông vào khoảng năm 1697 phía nam dưới chân núi Ngự Bình , sau đó
vào khai sơn thêm một thảo am ở chân núi Thiên Thai gần đó vào năm 1708 ,
trong Đại Nam Nhất Thống Chí quyễn 2 , trang 126 mô tả ngọn núi này như sau :
Núi Thiên Thai ở phía tây bắc huyện Hương Thủy hình thế cao vót , phía tây
trông ra cánh đồng bằng , cạnh núi có chùa, gọi là chùa Thiên Thai Nội (
Thuyền tôn ) , ngọn núi vòng quanh ôm chầu vào chùa, phong cảnh tuyệt đẹp…
" , núi Thiên Thai nổi tiếng có nhiều cọp dữ , ở địa phương có câu ca
" núi Thiên Thai , mười hai con cọp''. Thiền sư đã ăn rong , uống nước
suối để sống , quyết chí tu hành cho đến khi đến đắc đạo.
MÔN PHÁI LIỄU QUÁN
Nếu ở Ðàng Ngoài thiền
sư Chân Nguyên được xem là nhân vật then chốt để phục hưng Phật Giáo , thì ở
Ðàng Trong thiền sư Liễu Quán cũng được xem là vị thiền sư lãnh đạo công cuộc
phục hưng Phật Giáo.
Thiền sư Liễu Quán là
người làng Bạc Mã, huyện Ðồng Xuân, tỉnh Phú Yên, sinh năm 1670 (Nguyễn Lang ,
Thích Tín Nghĩa )( TT Thích thiện Siêu , TT Khế Chơn , viết ngài sinh năm 1667
) từ một gia đình nghèo. Thiền sư mồ côi mẹ từ hồi lên sáu tuổi. Năm mười hai
tuổi người đi chùa Hội Tôn với cha. Gặp thiền sư Tế Viên, người xin ở lại
chùa để học đạo. Được cha ưng thuận. Làm chú tiểu ở chùa Hội Tôn, người được
thiền sư Tế Viên thương yêu. Ở chùa, ngoài việc nấu nước, nhặt rau thì học
chữ Hán, hai thời khóa tụng, luật sa di và những kinh điển dễ học. Chín năm
sau, thiền sư Tế Viên thị tịch. Tang lễ của thầy làm xong, một mình lên đường
học đạo. Năm 1690, người ra Thuận Hóa , núi Hàm Long (Bảo Quốc), cầu học với
thiền sư Giác Phong. Người được chấp nhận ở lại đây để tu học. Được một năm
người lại nghe tin thân phụ bị bệnh. Xin phép trở lại quê nhà để lo săn sóc
cha. Hàng ngày lên rừng đốn củi, đem về đổi vạo nấu cơm . Bốn năm sau, thân phụ
từ trần. Lo ma chay cho cha xong, người lại lên đường vào Thuận Hóa học
đạo. Năm 1695, nghe nói thiền sư Thạch Liêm tổ chức giới đàn lớn tại chùa Thiền
Lâm, người đến xin ghi tên thụ giới tỳ khưu tại giới đàn do thiền sư Từ Lâm là
Hòa Thượng Ðường Ðầu. Lúc thiền sư khai sơn thảo am Viên Thông năm 1697, lúc
mới có 27 tuổi. Ở đó được 2 năm, thiền sư lại lên đường cầu học, tham lễ
khắp các tổ đình. Năm 1702 được gặp thiền sư Tử Dung tại chùa Ấn Tôn núi Long
Sơn (Từ Đàm), Thuận Hóa. Thiền sư dạy người tham khảo về công án: " Muôn
pháp về một, một về chỗ nào? " (Vạn pháp quy nhất, nhất quy hà xứ?).
Người về núi Phú Yên tĩnh cư, tham cứu đến 5 năm mà chưa phá vỡ được công án
ấy. Một hôm đọc Truyền Ðăng Lục đến câu "trỏ vật mà truyền tâm, chính vì
vậy mà người ta không hiểu" (Chỉ vật truyền tâm, nhân bất hội xứ), thoạt
nhiên người thấy tỏ ngộ, bèn buông sách xuống. Năm 1708 người vào Thuận Hóa
– Viên Thông rồi vào núi Thiên Thai , khai sơn một thảo am ở đây, trở lại
Long Sơn, trình bày công phu của mình với thiền sư Tử Dung.
Ngài Tử Dung nói:
Hố thẳm buông tay
Một mình cam chịu
Chết đi sống lại,
Ai dám chê mình.
Thiền sư vỗ tay cười.
Ngài Tử Dung nghiêm nét, nói: "Chưa được". Người lại nói: "Trái
cân vốn là sắt" (Bình thùy nguyên nhị thiết). Tử Dung lắc đầu.
Sáng hôm sau, ngài Tử
Dung thấy người đi ngang, gọi lại bảo: "Chuyện ngày hôm qua nói chưa
xong, hôm nay hãy nói lại xem". Thiền sư đọc:
Sớm biết đèn là lửa
Cơm chín đã lâu rồi!
Bây giờ ngài Tử Dung
không tiếc lời khen ngợi. Mùa hè năm 1712 khi hai vị thiền sư gặp nhau lần thứ
ba tại đại lễ Toàn Viện tại Quảng Nam, thiền sư đem trình ngài Tử Dung bài kệ
Tắm Phật mà người mới làm. Tử Dung hỏi: "Tổ truyền cho tổ, Phật truyền
cho Phật, chẳng hay họ truyền nhau cái gì nhỉ?" (Tổ tổ tương truyền, Phật
Phật thụ thụ, vị thẩm truyền thụ các thập ma?). Thiền sư Liễu Quán đọc liền hai
câu:
Búp măng trên đá dài hơn
trượng,
Cây chổi lông rùa nặng
mấy cân.
(Thạch duẩn trừu điều
trường nhất trượng
Quy mao phủ phất trong
tam cân)
Ngài Tử Dung lại
đọc:
Chèo thuyền trên núi cao
Phi ngựa dưới đáy biển
(Cao cao sơn thượng hành
thuyền
Thâm thâm hải để tẩu mã)
thiền sư lại đọc
tiếp:
Dây đứt đàn tranh chơi
suốt buổi
Gảy sừng trâu đất rống
thâu đêm
(Chiết giác nê ngưu
triệt dạ hống
Một huyền cầm tử vận
nhật đàn)
Ngài Tử dung gật đầu tỏ
ý rất bằng lòng.
Thiền sư Liễu Quán lúc
bấy giờ đã 42 tuổi. Người đã có nhiều đạo tràng hành đạo: đó là chùa Thuyền
Tôn, chùa Viên Thông ở Thuận Hóa và các chùa Hội Tông, Cổ Lâm và Bảo Tịnh ở
Phú Yên.
Bốn giới đàn lớn được tổ
chức từ 1733 đến 1735 tại Thừa Thiên, có sự tham dự của các bậc cao tăng và các
bậc tể quan cư sĩ ở kinh đô; thiền sư Liễu Quán được thỉnh cầu làm tọa
chủ.
Giới Phật tử rất hâm mộ
ngừõi , năm 1740 hội chúng lại thỉnh cầu thiền sư chủ tọa giới đàn Long Hoa.
Xong giới đàn này, trở về chùa Thuyền Tôn.
Năm 1742, lúc ấy thiền
sư đã 72 tuổi (Thích Tín Nghĩa ) (76 ?), Thiền sư vẫn được cử làm Hòa Thượng
Ðường Ðầu của giới đàn tổ chức tại chùa Viên Thông.
Ðệ tử thụ giới của
thiền sư kể cả xuất gia lẫn tại gia có tới gần bốn ngàn người.
Mùa thu năm ấy,Thiền sư
Liễu Quán an trú tại chùa Viên Thông; sáng ngày 21 tháng 11 âm lịch năm Nhâm
tuất ( 1742 ) , người gọi thị giả mang giấy bút , và viết bài kệ sau đây:
Ngoài bảy mươi năm cõi
sắc không
Sắc không không sắc đã
dung thông
Sáng nay vẹn ước, về quê
cũ
Há phải tìm cầu hỏi tổ
tông
(Thất thập dư niên thế
giới trung
Không không sắc sắc diệc
dung thông
Kim triêu nguyện mãn
hoàn gia lý
Hà Tất bôn mang vấn tổ
tông?)
Viết bài kệ xong, thiền
sư ngồi dùng trà. Ðại chúng làm lễ, có người than khóc. Người nói: "Quý
vị đừng khóc. Các đức Phật thị hiện còn nhập Niết bàn, còn tôi thì đường đi nẽo
về đã rõ ràng, không việc chi phải khóc". Mọi người im lặng.
Thầy trò nói chuyện hồi
lâu, ông hỏi: "Ðã đến giờ mùi chưa?" Mọi người đáp: "Phải".
Thiền sư Liễu Quán nói: "Sau khi tôi đi, quý vị phải nghĩ đến sự vô
thường nhanh chóng của cuộc đời mà siêng năng tu tập trí tuệ, chớ quên lời dặn
của tôi".
Nói xong thiền sư nhắm
mắt mà tịch trong tư thế kiết già.
Chúa Nguyễn Phúc Khoát
rất sùng kính đạo hạnh của người, nhiều lần triệu thỉnh vào phủ, nhưng thiền
sư một mực từ chối, không muốn lui tới nơi triều đình. Vì vậy, chúa thường tới
chùa Viên Thông để thăm và hỏi đạo.
Khi nghe tin thiền sư
thị tịch chúa sắc làm bia và tháp cho người, và ban thụy hiệu là "Ðạo
Hạnh Thụy Chính Giác Viên Ngộ Hòa Thượng".
Tháp người được dựng
tại thảo am dưới chân núi Thiên Thai. Thiền sư là người thuộc đời thứ 35
dòng Lâm Tế. Thiền sư đã để lại bài kệ truyền pháp sau đây :
Thiệt tế đại đạo
Tính hải thanh trừng
Tâm nguyên quảng nhuận,
Ðức bổn từ phong
Giới định phúc tuệ
Thể dụng viên thông
Vĩnh siêu trí quả
Một khế thành công
Truyền trì diệu lý
Diễn xướng chính tông
Hành giải tương ứng
Ðạt ngộ chân không
Dịch:
Ðường lớn thực tại
Biển thể tính trong
Nguồn tâm thấm khắp
Gốc đức vun trồng
Giới định cùng tuệ
Thể dụng viên thông
Quả trí siêu việt
Hiểu thấu nên công
Thuyền giữ lý mầu
Tuyên dương chính tông
Hành giải song song
Ðạt ngộ chân không
Thiền sư Liễu Quán đã
làm cho thiền phái Lâm Tế trở thành một thiền phái linh động, có gốc rễ ở Ðàng
Trong. Trước thiền sư, Phật Giáo ở Ðàng Trong mang nặng màu sắc Quảng Ðông.
Người đã Việt hóa thiền phái Lâm Tế, và làm cho thiền phái này trở thành thiền
phái của đa số Phật tử Ðàng Trong. Kiến trúc lễ nhạc bắt đầu trút bỏ màu sắc
Trung Quốc và từ từ mang lấy màu sắc dân tộc. Những bài tán lễ như "Cực
lạc Từ Hàng" , đã hoàn toàn mang màu sắc Việt Nam.
Bốn vị đệ tử lớn của
người là Tổ Huấn, Trạm Quan, Tế Nhân và Từ Chiếu dã tạo lập bốn trung tâm
hoằng đạo lớn, và hàng chục tổ đình được tạo dựng khắp Ðàng Trong trong thế kỷ
XVIII đã thuộc về môn phái Liễu Quán. ( trích tác giả Nguyễn Lang )
Thiền sư Liễu Quán trở
thành một vị Tổ của một phái Thiền gọi là Thiền phái Tử Dung-Liễu Quán, mà ảnh
hưởng của Thiền phái này bao trùm Đàn Trong từ 3 thế kỷ cho đến nay.
CHÙA THUYỀN TÔN VỚI THỜI GIAN
Mười hai năm sau khi
khai sơn thảo am Viên Thông , thiền sư Liễu Quán đi vào chân núi Thiên
Thai ở gần đó , người dựng lên một thảo am khác mang tên Thuyền tôn vào
năm 1708 ( Nguyễn phúc Chu 1691-1725, Lê Dụ Tông 1705-1728) Thảo am tọa lạc
tại đia phận ấp Ngũ Tây, xã An Cựu, tổng An Cựu, huyện Hương Thủy. tỉnh Thừa
Thiên.
Năm thứ 3 Cảnh Hưng
(1742 ) ( Lê Hiễn Tông 1740-1786) Thiền sư viên tịch
Năm 1747, tức 5 năm sau
khi thiền sư Liễu Quán qua đời, chùa Thuyền tôn được chúa Nguyễn Phúc Khoát
(1738-1765) ban biển ngạch sắc tứ.Cũng cũng vào năm này Đoàn Tài Hầu là
quan thái giám đứng ra hô hào thiện nam tín nử đúc đại hồng chung ,
chuông có niên đại Cảnh Hưng năm thứ 8 (6 ?) .
Năm 1777 (Nguyễn phúc
Thuần 1765-1777) chùa Thuyền tôn được sửa sang lần thứ nhất
Thời đầu Tây Sơn xã hội
loạn lạc vừa chiến tranh Trinh - Nguyễn vừa chiến tranh giữa chúa Nguyễn và anh
em Tây Sơn kéo dài từ 1771 cho đến 1789 tất cả tài nguyên nhân vật lực kể
cả đình chùa , miếu mạo bị bỏ phế hư hại nặng nề cho đến năm Kỷ Dậu
(1789) khi Nguyễn Huệ lên ngôi hoàng đế, đánh bại quân Mãn Thanh thì xã hội
bấy giờ mới tạm yên , kỷ cương mới được tái lập , chùa chiền mới được
sửa sang trùng tu lại
Năm 1793 bà Đốc Hựu phát
nguyện dựng lại chùa tranh , thiện nam tín nử càng ngày càng đông.
Năm 1799 Hoàng đệ Thái
Tể, ủy cho Đại Tư Mã tái tạo sửa sang chùa lần hai
Năm 1803 Khi Gia Long
đã lên ngôi Hoàng đế , Hòa thượng Trung Hậu. xin lại đại hồng chung và chuông
lại được mang về chùa Thuyền tôn vì vàp thời Tây Sơn, hồng chung bị đem
làm tự khí ở Văn Thánh
Vua Gia Long sắc cấm
Ba gò Huyền Võ của núi Thiên Thai, giếng xưa bên chùa sửa lại bờ thành, Cảnh
chùa có nơi xây nhà ngói, nơi dựng nhà tranh, chỉ trong 4, 5 năm, quan cảnh
chùa trở lại như xưa.
Năm 1807 dựng nhà phương
trượng.
Năm 1809 dựng chánh
điện, tiền đường, phạm vũ trở lại nguy nga.
Năm 1815 các môn đồ
trùng tu tháp Tổ và dựng hai bia
Năm 1885 kinh đô thất
thủ
Năm 1886 cải sửa tụ
vũ.
Năm1898 đệ tử Quảng Kế .
. . phung phá tự điền tự, khí thờ mất mát chùa lại rơi vào cảnh hoang
tàn đổ nát.
Năm 1899 tăng ni phật
tử xin sửa sang lại văn khế đã mục nát, đổi dời kiến thiết tự vũ đem trở
lại trên nền cũ, cấu tạo hậu điện.
Năm 1900, sửa san lần
thứ ba , làm lễ khánh tán, vạn pháp viên mãn …như vậy trải qua gần 200 năm
ba lần tụ ba lần tán
Năm 1937 Đệ tử đời thứ
10 của thiền sư là Hòa thượng Trừng Thủy - Giác Nhiên tổ chức đại trùng tu ngôi
chùa.
Năm 2000 chùa được trùng
tu với cửa tam quan , tháp chuông , điện thờ. hậu liêu , văn phòng… nguy nga đố
sộ , Ngôi chùa đựơc che khuất bởi những cây thông già . Chùa Thuyền Tôn hiện
nay có dáng dấp của nét kiến trúc cổ được xi măng và điên khí hóa có hệ thống
thờ tự truyền thống. Ở chánh điện, án giữa thờ Phật Tam Thân, phía trước là
tượng đức Phật Thích-ca. Tiền án thờ tượng Bồ-tát Chuẩn Đề hai bên là ảnh vẽ
Bồ-tát Văn-thù và Bồ-tát Phổ Hiền. Tiếp đến là bàn chuông, mõ. Án tả thờ Bồ-tát
Quan Âm, hai bên có ngài Xá Lợi Phất và ngài Ca-diếp. Án hữu thờ Bồ-tát Địa
Tạng. Ngoài ra còn có hai án thờ Thập điện Minh Vương ở hai bên vách. Phía
ngoài là hai bàn thờ Hộ Pháp và Quan Thánh
Hiện nay chùa tọa lạc ở
thôn Ngũ Tây, xã Thủy An, thành phố Huế Nơi chùa được xây cất hiện nay không
biết nó có nằm đúng trên nền củ của chùa xưa hoặc thảo am hay là nó được
dựng một chổ khác
Nguyễn Du đã mô tả
cảnh chùa qua bài thơ Vọng Thiên Thai Tự , Nguyễn Du cho biết ống đã
đến viếng chùa 2 lần , lần thứ 2 có lẽ ông không vào chùa được vì bị
vướn một con sông , nên chỉ đứng bên này sông mà ngắm cảnh chủa . Bài
thơ sáng tác vào thời gian 1805-1812 khi Ông được thăng hàm Đông Các Đại Học
Sĩ , làm quan ở kinh đô 5 năm . Bài thơ như sau :
Thiên Thai sơn tại đế
thành đông
Cách nhất điền giang tự
bất không.
Cổ tự thu may hoàng diệp
lý
Tiên triều tăng lão bạch
vân trung
Khả liên bạch phát cung
khu dịch
Bất dữ thanh sơn tương
thủy chung.
Ký đắc niên tiền tằng
nhất đáo
Cảnh Hưng chung quải cựu
thời trung
Núi Thiên Thai ở phía
Đông hoàng thành ,Cách một dòng sông không đến được, Mùa thu, chùa cổ như vùi
trong lá vàng ,Vị sư triều trước già trong mây trắng , Khá thương mình đầu bạc
rồi vẫn phải chịu để người sai khiến , Không cùng với núi xanh giữ được niềm
thủy chung, Nhớ năm trước ta từng một lần đến đây ,Còn thấy có treo quả chuông
đúc thời Cảnh Hưng ngày trước
Hoặc theo lời mô tả của
TT Thích Thiện Siêu : " Hiện nay cách phía sau tháp độ 800 mét có chùa
Thiền Tôn do Ngài sáng lập và các đệ tử tiếp tục thừa kế trùng tu còn được đẹp
đẽ khang trang, trong đó có quả đại hồng chung đúc năm Cảnh Hưng thứ 8 (1747)
là di vật quý nhất."
, , , , , " Hiện
nay cách phía sau tháp độ 800 mét có chùa Thiền Tôn do Ngài sáng lập và các đệ
tử tiếp tục thừa kế trùng tu còn được đẹp đẽ khang trang, trong đó có quả đại
hồng chung đúc năm Cảnh Hưng thứ 8 (1747) là di vật quý nhất."
DÒNG SÔNG TRONG HUYỀN THOẠI
Nhiều tác giả mỗi
người nói một cách khác nhau về câu chuyện thiền sư ăn rong để sống
trong tiểu sử của ngài , người cho rằng ngài ăn rong khe , uống nước
suối độc( Hà Xuân Liêm ) , kẻ thì nói thiền sư ăn rong ở hồ (Tầm rong độ
nhật…. khi thiền sàng chỉ là bông cây thảm cỏ , rong xanh đáy hồ đã duy trì
mạch mạng sắc thân … TT Tích Khế Chơn ) người thì khẳng định ngài ăn rong
con sông trước mặt chùa
Vậy thì sự thật rong
lấy ở đâu ? sông , hồ , khe hay suối ?
Dù chỉ là huyền
thoại về câu chuyên thiền sư Liễu Quán đã ăn rong để sống nhưng chúng
tôi nghĩ tìm được địa chỉ nơi ngài đã từng lấy rong quả thật là
hạnh phước tuyệt vời cho những ai tìm ra nó
Thử vẽ phát trong tâm
trí cảnh một sa di lội xuống sông vớt một bè rong , để lên rỗ , mang
về thảo am . phơi… và khi vị thầy tu trẻ qua đường bằng thứ rong đó
Cơm hay rong đối với
ngài cũng chẳng khác chi nhau như ngài đã từng viết trong bài kệ :
Không không sắc sắc diệc dung thông
Thử tưởng tượng bước
chân hành thiền của vị sa di một mình , đơn độc trong rừng vắng dầy
cọp beo và rắn độc mỗi lân đi vớt rong để đòi sống được tồn tại ,
một người trẻ tuổi đã hành thiền trong mọi sinh hoạt thường nhật
của cuộc sống
Và khi về già ,
trước khi viên tịch ngài đã nói cùng môn đồ "Quý vị đừng khóc. Các
đức Phật thị hiện còn nhập Niết bàn, còn tôi thì đường đi nẽo về đã rõ ràng,
không việc chi phải khóc" Đúng như ngài nói : Người đến nơi thảo am
Viên Thông lúc còn rất trẻ và trở về lại Thiên thai nội tự đã ngoài
bảy mươi
Câu chuyện đi tìm giòng
sông lần 2 trong chuyến ra thăm chùa Thuyền Tôn vào tháng 8 năm 2007 sau khi đã
góp nhặt kinh nghiêm đi tìm con sông trong bài thơ Qua Đèo Ngang của bà Huyện
Thanh Quan , chúng tôi đã phải tham khảo các tài liệu trứõc đó nhiều
tháng một cách cẩn trọng về đia lý hình thể sông suối núi non vùng
Thiên Thai , Ngự Bình , Trường Bia , Thiên An , Trúc Lâm , Ba Đồn ... các
chùa gần đó như Viên Thông , Tra Am , Tây Thiên ,Trúc Lâm , Hồng Ân ,
Diệu Viên ...tựõng đài Huyền Trân , khu vực chín hầm , cơ ngơi của ông Ngô
đình Cẫn , bảo tháp của thiền sư…trên sử liệu rồi mới vẽ sơ đồ dự đoán trước
khi thăm dò quan sát thực địa
Sửa soạn lặn lội
những nơi có thể tới được để tìm ra gốc gát mạch nguồn của giòng sông thiên
liêng ấy tôi đã để tâm hồn trống rỗng
300 năm thì sông cũng
có thể đã là thành khe thành suối , thành ao, thành hồ , nhưng dấu xưa ắc hẵn
vẫn còn đâu đó , lời của thiền sư hình như vẫn còn âm vang trong gió qua những
đọt thông già , tôi đi trong miêng mang , tại sao mình không đi như trò chơi đi
tìm kho báu của thời niên thiếu của một thời hướng đạo , Phật tử…
Một chỉ dẫn được
hướng đạo từ vô thức không lý giải : Giòng sông huyền thoại đó đã hiện
ra trước mắt tôi , cho dù thiên nhiên và con người đã làm biến dạng
khuôn mặt thế gian nhưng hình ảnh vị sa di trẻ tuổi đang trên đường đi
tìm chứng quả mà phải tầm rong độ nhật để duy trì mạch mạng sắc thân đã
trở thành một ấn tượng hướng những bước chân tôi đến giòng sông đó
Tôi vẫn tin mấy câu
của Nguyễn Du trong bài Vọng Thiên Thại Tư là thật
Thiên Thai sơn tại đế
thành đông
Cách nhất điền giang tự
bất không.
Cổ tự thu may hoàng diệp
lý…
Và tôi nghĩ hướng về
ngài với những bước chân trong rừng thông vắng lặng , Tai tôi cố nghe
tiếng róc rách chảy qua khe đá , tiếng rì rầm của giòng suối hay sự
lặng thinh của một con sông đang chảy âm thầm dịu dàng dưới chân núi
Thiên Thai , mũi cố ngữi thấy mùi rong mới vớt , miệng lưởi tôi cố
quên vị tanh tao và nhạt nhẻo của rong và trước mắt tôi là một
khoảng không gian mờ ảo
Giòng sông , giòng sông
, giòng sông ở đâu ? vang lên từ một cỏi mơ hồ nào đó vọng lại hay từ tiền
kiếp xa xưa
Hình ành vị sa di trẻ
tuổi hiện ra trước mắt tôi , vị sa di mà về sau này đã trờ thành tổ sư của
Thiền phái Tử Dung Liễu Quán , giòng sông nằm sau lưng người về hướng tây , bên
kia sông là một ngọn núi đúng như câu ghi hai câu đối nơi cổng tường đi vào
bảo tháp của người: "Bửu đạt trường minh bất đoạn môn tiền lưu lục
thủy; Pháp thân độc lộ y nhiên tạo lý khán thanh sơn" (Tiếng linh báu ngân
dài cùng dòng nước lục trước cửa chảy hoài không dứt; Pháp thân lộng y nhiên
bất động ngắm núi xanh) đã mô tả .
Và tôi cũng chợt thoát
ra khỏi cơn…vội vàng định vị ngay tọa độ mình đang đứng : Đó là trước của tam
quan nơi bảo tháp của người , tôi chỉ còn dùng bước chân mình để đo khoảng cách
từ chân hồ sen đến giòng sông
Ngày hôm sau , tôi cùng
mấy ngưới bạn cũ , chống gậy , vạch lau , đạp cỏ leo lên một triền núi
nhỏ , rồi đi qua một cánh đồng dốc thoai thoải theo dấu chỉ dẫn cùa HT
Thiện Siêu là cách phía sau tháp độ 800 mét để đến một ngôi chùa nổi tiếng ở Huế
và điều này cũng đúng như nhận xét của Đại Nam Nhất Thống Chí quyễn II , trang
203 " Chùa Thiên Thai nội ở xã Dương Xuân có tên nữa là Thuyền Tôn (
Thiền Tông ) . Tương truyền do Liễu Quán hòa thượng dựng dựa vào núi , trông ra
đồng bằng , phong cảnh cũng đẹp…"
Bây giờ , trước bảo
tháp của thiền sư Liễu Quán là một con đường đất đỏ , một khoảng
đất trống chừng một mẫu và nghe đâu chủ nhân của mãnh đất này muốn
thực hiện một…
và giòng sông thì
vẫn còn đó , nhưng biến dạng đến đau đớn.
Nếu có một lần nào
đó bạn được nhìn sông Tô Lịch của Hà Nội , ba mươi sáu phố phường
hôm nay và thật diễm phúc cho những ai như quan Phủ Sứ Đặng Vân đã
nhìn thấy giòng sông Tô Lịch khi công chúa Huyền Trân rời kinh độ Đại
Việt về Vijaya
Và cũng như vậy tâm
trạng của Nguyễn Du khi dứng trước giòng sông trong huyền thoại cua
thiền sư Liễu Quán
Khả liên bạch phát cung
khu dịch
Bất dữ thanh sơn tương
thủy chung.
Ký đắc niên tiền tằng
nhất đáo
Cảnh Hưng chung quải cựu
thời trung
Còn bạn xin hãy ghé
thăm ngôi bảo tháp và con sông huyền thoại bây giờ.