KHÁI NIỆM HỘI NHẬP KHÁC VỚI DU NHẬP:
Du nhập là đi vào hay truyền vào. Đạo Phật du
nhập vào Việt Nam từ những năm đầu Tây lịch, khi nước ta lúc bấy giờ gọi là
Giao Chỉ, còn bị nước Trung Hoa đô hộ. Nhưng Đạo Phật hội nhập vào nền văn hóa
Việt Nam là cả một quá trình kéo dài mãi cho đến ngày nay, và vẫn tiếp tục
chừng nào mà đạo Phật còn tồn tại trên đất nước này. Đó là sự hòa mình của Đạo
Phật, với tư thế là một luồng văn hóa ngoại lai vào nền văn hóa của dân tộc
Việt Nam. Có thể nói, đó là quá trình Đạo Phật dần dần được bản địa hóa, Việt Nam,
biến thành một phần của cơ thể văn hóa và xã hội văn hóa Việt Nam. Sự hội nhập
đó thành tựu tới mức nhà thơ Việt Nam hiện đại Hồ Dzếnh có thể viết:
"Trang
sử Phật,
Đồng
thời là trang sử Việt,
Trải
bao độ hưng suy,
Có
nguy mà chẳng mất..."
Và hai câu thơ dân dã sau đây cũng đủ
nóilên mức độ hội nhập của đạo Phật vào nền văn hóa của xã hội Việt Nam sâu sắc
tới độ mức nào.
"Mái
chùa che chở hồn dân tộc,
Nếp
sống muôn đời của tổ tông".
Những điều kiện thuận lợi của sự hội nhập:
1/Phật giáo đại diện cho một hệ tư tưởng
tiến bộ và cách mạng
Đạo Phật có nguồn gốc ở Ấn Độ là một nước
có truyền thống văn hóa lâu đời. Ngay ở Ấn Độ, đạo Phật cũng xuất hiện với tư
thế một hệ tư tưởng tiến bộ, cách mạng làm lay chuyển đến tận gốc nhiều giá trị
truyền thống của Bà La Môn giáo, là tôn giáo chính thống đương thời của người
Ấn Độ. Thí dụ, nó không thừa nhận tính thần khải của sách Veda, phàn đối chế
đột đẳng cấp xã hội bấ bình đẳng và tuyên bố, trước chân lý, mọi người đều bình
đẳng: nó đề cao cuộc sống nội tâm và những giá trị nội tâm, bác bỏ cái gọi là
tính vạn năng của tế đàn tốn tiền, phức tạp, giết hại nhiều súc vật...
Khi được truyền vào các nước Đông Á và Nam
Á, nó chứng tỏ tính siêu việt và hấp dẫn của nó vì đã tạo ra cả một tư trào
Tăng sĩ Đông Á đi cầu pháp ở Ấn Độ, kéo dài liên tục trong nhi7èu thế kỷ. Lịch
sử ghi tên được gần 200 Tăng sĩ Trung Hoa, Triều Tiên, Việt Nam từ thế kỷ 3 đến
thế kỷ 8 đã đi Ấn Độ cầu pháp, bất chấp đường sá xa xôi nguy hiểm.(xem East
Asian - the great tradition, Reischauer và Fairbank. Trường Đại học Havard,
tr.146).
Đó là luồng di cư học tập lớn nhất của lịch
sử Đông Á, nó minh chứng tính hấp dẫn và siêu việt của Phật giáo đối với các
dân tộc Đông Á thời bấy giờ.
2/Phật giáo du nhập du nhập vào Trung Hoa
và Việt Nam vào thời điểm đế chế nhà Hán suy tàn.
Đế chế nhà Hán suy tàn có nghĩa là Khổng
giáo, chỗ dựa tinh thần của đế chế đó cũng đánh mất vị trí hệ tưởng chủ đạo
đốii vơí nhân dân Trung Quốc. Đông đảo trí thức Trung Hoa xoay sang Lão -
Trang, và thông qua Lão - Trang hướng tới đạo Phật. Cuốn"Lý hoặc
luận" do một nho sĩ Trung Hoa là Mâu Bắc soạn ra ở Giao Châu vào cuối thế
kỷ II, là một tác phẩm điển hình nói lên cuộc đấu tranh thắng lợi của Phật Giáo
chống lại Khổng và Lão giáo. Trong cuốn sách, Mâu Bắc Đã ví đạo Phật với núi
Thái Sơn, với chim phượng hoàng, với sông Hoàng hà và biển cả, và ví Khổng -
Lão với gò đống, với chim sẻ, với kênh ngòi, lạch. Trong cuốn sách Mâu Bắc cũng
phản đối quan niệm truyền thống cho rằng Trung Hoa có vị trí trung tâm của trời
đất. Mâu Bắc nói Ấn Độ, chứ không phải Trung Hoa có vị trí trung hòa, và vì vậy
Đức Phật sinh ra ở đó.
Vấn đề không phải là nhận xét của Mâu Bắc
đúng hay sai, mà là ở chỗ, Mâu Bắc, một người Hán, một nho sĩ lại đả kích vào
tư tưởng Đại Hán. Nếu nhà Hán chưa suy tàn, KHổng giáo chưa mất vị trí thượng
phong, thì chắc là Mâu Bắc không dám viết như vậy.
3/Dân tộc Việt Nam tìm được ở đạo Phật một
hệ tư tưởng mới, tiến bộ có thể dùng để đối trị hệ tư tưởng Khổng giáo vốn là
chỗ dựa tinh thần của nền đô hộ Trung Quốc đối với Việt Nam.
Như chúng ta biết rõ, Khổng giáo không chỉ
là Tứ thư, Ngũ kinh, mà còn là một hệ thống chính trị xã hội đứng đầu là ông
vua Trung Quốc, mệnh danh là Thiên tử, lãnh mệnh Trời mà cai trị thiên hạ,
trong đó có Việt Nam. Đã là con Trời thì phải được tôn thờ, đã là mệnh trời thì
phải quy phục, dù cho con Trời đó là người Trung Quốc và mệnh Trời đó buộc dân
tộc Việt Nam phải duy trì, tôn trọng một chế độ bắt họ làm nô lệ.
Phật giáo đến Việt Nam có thể nói đã cởi bỏ
cho dân tọc Việt Nam những mặc cảm vô lý đó. Vì theo Phật Giáo, mọi sự vật đều
là vô thường, thì nền đô hộ của Trung Hoa đối với Việt Nammặc dù đã kéo dài
mười thế kỷ, cũng không thể là vĩnh cửu, mà cũng là vô thường có ngày phải chấm
dứt. Mọi người vì có sẵn mầm giác ngộ trong mình, tức là Phật tánh cho nên đều
có thể thành Phật trong tương lai, đều bình đẳng trước chân lý. Do đó người
Việt Nam và người Trung Quốc cùng bình đẳng, Trung Quốc có Thiên tử của họ thì
Việt Nam cũng có Thiên tử của mình. Những tư tưởng như vậy ăn sâu vào tâm lý
của đông đảo nhân dân Việt Nam, nhất là tầng lớp có học và động viên họ đừng
dậy phất cờ khởi nghĩa giải phóng dân tộc khỏi ách đô hộ của Trung Quốc. Điều
này giải thích vì sao trong những triều đại độc lập tự chủ đầu tiên, như Đinh
và tiền Lê, Tăng sĩ thay vì nho sĩ được trọng dụng và mời tham gia giải quyết
những việc nước quan trọng.
4/Việc khai sánh những triều đại dộc lập tự
chủ đầu tiên, đặc biệt là hai triều đại Phật giáo Lý, Trần đánh dấu một bước
hội nhập sâu hơn nữa, rộng hơn nữa của Phật giáo vào xã hội Việt Nam.
Triều đại Đinh và tiền Lê tuy là hai triều
đại có trọng dụng Tăng sĩ, như các sư Khuông Việt và Pháp Thuận, Vạn Hạnh nhưng
không phải là những triều đại Phật giáo đích thực. Các vua Đinh và tiền Lê
trọng dụng Tăng sĩ , sử dụng Phật giáo chứ không phải là Phật tử. Việc họ tiếp
tục sử dụng những hình cụ độc ác như vạc dầu, chuồng hổ cho thấy họ xa lạ với
hạnh từ bi của Phật giáo. Họ thiên về Pháp trị chứ không phải đức trị, mà đức
trị là đặc sắc của đường lối trị nước của Phật giáo.
Như chúng ta thấy, sau khi Lý Công uẩn lên
ngôi, là một Phật tử thuần thành, ông liền ra lệnh hủy bỏ hết mọi hình cụ trong
ngục, và cho xây dựng nhiều chùa mới trong nước. Lý Thánh Tông, vị vua thứ ba
nhà Lý, nổi tiếng là một vị vua nhân từ. Một hôm, thiết triều, ông chỉ vào công
chúa Động Thiên đứng cạnh mà bảo các quan rằng:"Lòng trẫm yêu dân như yêu
con trẫm vậy. Hiềm vì trăm họ ngu dại làm càn cho nên phải tội, trẫm lấy làm
thương lắm. Vậy từ nay về sau, tội gì cũng phải giảm bới đi..."
Nói chung các ông vua Phật tử thuần thành
đời Lý và đời Trần đều có tấm lòng từ bi, nhân hậu, hết lòng thương yêu nhân
dân như vậy. Đường lối lấy đức trị dân của hai triều đại Lý và Trần minh chứng
sự hội nhập của Phật giáo vào đời sống văn hóa và chính trị - xã hội của dân
tộc Việt Nam.
Một đặc sắc nữa của hai triều đại Phật giáo
Lý, Trần là ngoài những ông vua là Phật tử thuần thành, còn có những ông vua
kiêm thiền sư, kiêm là những nhà Phật học uyên bác, viết sách, giảng kinh,
không khác gì các cao tăng trong đạo. Có thể kể Lý Thái Tông, học trò đắc pháp
của sư Thiền Lão, và được suy tôn là Tổ thư của dòng Thiền Vô Ngôn Thông. Lý
Thánh Tông được suy tôn là Tổ thứ 2 phái Thiền Thảo Đường, và đặc biệt là hai
ông vua Trần Thái Tông và Trần Nhân Tông đời Trần. Trần Thái Tông là tác giả
cuốn "Khóa hư lục", một tác phẩm Phật giáo viết bằng chữ Hán, đã được
dịch ra tiếng Việt và xuất bản nhiều lần. Cuốn sách chứa đựng nhiều tư tưởng
độc đáo hiếm thấy ở Phật giáo các nước khác. Thí dụ tư tưởng xem mọi người đều
là Phật, đều là những vị Phật sống mà không tự biết. Ông viết trong bài
"Niệm Phật Luận" (Bàn về niệm Phật):
"Phật thân tức ngã thân thị, vô hữu
nhị tướng". Nghĩa là:Thân ta tức là thân Phật, không có hai tướng. Lại
viết tiếp:"Tướng tướng vô nhị, Tịch nhiên thường tồn, Tồn nhi bất trị, Thị
vi hoạt Phật". Nghĩa tướng Phật và tướng ta không phải hai, Lặng vậy
thường tồn tại. Tồn tại mà không biết. Đó là Phật sống vậy.
Người là Phật, nhưng người lại không tự
biết, cho nên Trần Thái Tông gọi người là Phật sống.
Nên chú ý là tư tưởng độc đáo này không
phải là riêng có của Trần Thái Tông. Cháu ông là Trần Nhân Tông, sau này cũng
nhắc lại tư tưởng đó một cách nôm na hơn, nhưng không phải là không dứt khoát:
"Bụt
ở trong nhà,
Chẳng
phải tìm xa.
Nhân
khuấy bổn nên ta tìm Bụt,
Chỉn
mới hay, chính Bụt là ta".
(Cư
trần lạc đạo phú)
Tuệ Trung Thượng Sĩ, nhà Phật học lớn đời
Trần, và là thầy dạy của Trần Nhân Tông, cũng nói lại tư tưởng này trong các
bài "Phàm thánh bất dị" và "Mê ngộ bất dị" (Phàm thánh
không khác - Mê ngộ không khác).
Người người là Phật, người người trong cuộc
sống thực tế, đều cố gắng xứng đáng với danh hiệu đó.
Người người hàng ngày đều chăm lo tu tân
sửa tánh, phát huy một nỗ lực đạo đức lớn lao để xứng đang với danh hiệu đó. Tư
tưởng này dù chỉ tác động trong hàng ngũ những người lãnh đạo mà thôi cũng đã
là đáng quý lắm rồi. Nó nhấ bổng con người lên trên những ham muốn danh lợi thế
tục tầm thường, nó tạo ra những ông vua, những vị tướng mẫu mực, xứng đáng làm
trụ cột cho sự đoàn kết toàn dân.
Một tư tưởng lớn nữa của Phật giáo đời trần
là không chấp tướng, không giáo điều, không vướng mắc vào hình thức, khiến cho
đạo Phật không hạn chế trong giới tu sĩ, hay trong chùa chiền. Ai cũng học và
tu đạo Phật được, ở đâu, làm gì cũng học và tu đạo Phật được , miễn là biết
nhìn rõ vào tâm mình, tìm hiểu tâm, cải tạo tâm và sử dụng tâm cho tốt. Trong
sách "Khóa hư lục", Trần Thái Tông gọi đó là biện tâm. Trần Thái Tông
viết:
"Mặc vấn đại ẩn, tiểu ẩn hưu biệt tại
gia xuất gia, bất câu tăng tục, chỉ yếu biện tâm, bổn vô nam nữ hà tu trước
tướng?"
Dịch nghĩa: Không kể là sống trên núi hay
là giữa thị thành, không phân biêt tại gia hay xuất gia, tăng hay tục, điều chủ
yếu là biện tâm, vốn không có (phân biệt) nam nữ sao lại còn chấp tướng? Vì
không chấp tướng, cho nên Phật giáo đời Trần mới có một nhân vật đặc biệt như
Tuệ Trung Thượng Sĩ tuy là một cư sĩ, có vợ con, ăn mặn chứ không ăn chay,
nhưng laại được mọ người Tăng cũnh như tục tôn kính, học hỏi, như là một bậc
thầy lớn trong đạo. Thậm chí Trần nhân Tông và và Pháp Loa là vị Tổ thứ nhất và
vị Tổ thứ hai của phái Thiền Trúc Lâm cũng suy tôn Tuệ Trung là thầy học của
mình. Với tinh thần không chấp tướng, vua Trần Nhân Tông, sau khi xuất gia, đã
không quản gian khổ nhọc nhằn, đi khắp nơi trong nước, khuyên nhủ mọi người hãy
sống theo năm giới, muời thiện là những nguyên lý căn bản của đạo đức Phật
giáo.
Đạo Phật đời Lý, Trần là đạo Phật của từ bi
và trí tuệ, là hai đức hạnh hàng đầu của đạo Phật. Tinh thần từ bi thì như
tre6n đã nói rồi. Còn hạnh trí tuệ của đạo Phật đời Lý, Trầncó đặc điểm là nó
không hướng tới giải quyết những vấn đề lý luận hay là siêu nghiệm, như chúng
ta có thể thấy ở một số luận sư Phật giáo Ấn Độ; mà là hướng tới giải quyết
nhưng vấn đề rất cụ thể, rất bức xúc, có tầm quan trọng sinh tử đối với đất
nước như là cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông là một kẻ thù có sức mạnh
vật chất quân sự gấp hàng trăm lần nước ta. tướng nguyên Ô Mã Nhi từng ví
Nguyên Mông như cỗ xe lớn, còn Việt Nam thì như con bọ ngựa, người ta thay cho
con bọ ngựa bằng con châu chấu, và làm câu ca dao rằng:
"Nực cười châu chấu đá xe Bảo rằng chấu
ngã,ai ngờ xe nghiêng"
Cỗ xe quân sự nghiêng mà chưa đổ, cho nên
Thoát Hoan đã chạy trốn được về nước, bỏ lại các tướng như Toa Đô, Ô Mã Nhi và
Phàn Tiếp đều bị chết hay bị bắt.
Có thể nói để đánh thắng quân Nguyên Mông,
quân dân ta dưới sự lãnh đaọ của các ông vua Phật tử đã áp dụng một đường lối
chiến lược và chiến thuật đầy trí tuệ, cho phép triển khiaimọi ưu thế của một
cuộc chiến tranh nhân dân, đánh địch ngay trên đất nước mình...
Hai triều đại Lý, Trần đánh dấu đỉnh cao
của sự hội nhập của Phật giáo vào nền văn hóa Việt Nam nói riêng, vào đất nước
và xã hội Việt Nam nói chung. Một sự hội nhập không chỉ xảy ra trên bình diện
văn hóa, mà trên nhiều bình diện khác của đời sống xã hội. Một thành tựu cụ thể
của sự hội nhập đó là đã hình thành một nước Việt Nam thật sự độc lập tự chủ,
có đủ sức mạnh tự thân để chống trả thắng lợi mọi cuộc xâm lăng của Trung Quốc
từ phương Bắc xuống, có một nền văn hóa mang đậm bản sắc dân tộc, ngăn cản
thắng lợi mọi cố gắng từ phía Trung Quốc muốn đồng hóa dân tộc ta về mặt văn
hóa. Chúng ta chỉ cần điểm qua những gì nhà Minh đã làm qua hơn 10 năm họ đô hộ
nước ta thì rõ.
Nhân dân Việt Nam không bài ngoại, cũng
không vọng ngoại hay sùng ngoại. Chúng ta có một nền văn hóa mang đậm bản sắc
dân tộc. Nhưng nền vănh hóa dân tộc không phải khép kín, chúng ta sẵn sàng tiếp
thu những cái hay cái đẹp của các luồng văn hóa ngoại nhập: nhưng đó là một sự
tiếp thu có chọn lọc, phê phán của mọt dân tộc có chủ quyền. Thí dụ, chúng ta
tiếp thu nhiều yếu tố hay đẹp của nền văn hóa Trung Quốc, nhưng tư tưởng Đại
Hán của nền văn hóa đóthì chúng ta không thể chấp nhận. Cũng như chúng ta đã
tiếp thu nền văn hóa Ấn Độ, như một lực lượng đối trọng lại nền văn hóa Khổng -
Lão của Trung Hoa, nhưng có những yếu tố siêu thực, yểm thế, hay là tư biệ lý
luận trừu tượng của nền văn hóa Ấn Độ thì chúng ta cũng chối bỏ. Là sao chúng
ta có thể say sưa trong tư biện lý luận siêu thực được, trước sự đe dọa thường trực
của xâm lăng từ phương Bắc đến? Cũng như chúng ta đang tiếp thu nhiều cái hay
cái mới của nền văn hóa phương Tây, đến từ các nước Pháp, Nga, Mỹ...; nhưng
trong nền văn hóa đó, cũng có nhiều yếu tố tiêu cực mà chúng ta phải cảnh giác
đề phòng.
Tính độc đáo và sáng tạo của dân tộc Việt
Nam chính là ở chỗ, nó luôn luôn chủ động gạn lọc, phê phán tiếp thu cái hay,
gạt bỏ cái dở, từ đó sáng tạo ra một nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc, nhưng
vẫn thường xuyên đổi mới, trẻ trung, cập nhật với thời thế, có nhiều sinh khí.
Đó là sách lược hội nhập văn hóa của chúng ta, được thể hiện khá rõ nét trong
quá trình xâm nhập, phát triển và hội nhập của Phật giáo vào đất nước VN.
Như chúng ta thấy, đỉnh cao của sự phát triển và
hội nhập đó là hai triều đại Lý và Trần,đặc biệt là triều đại nhà Trần. Nhưng
điều đáng tiếc là từ cuối nhà Trần trở đi,qua chế độ khoa cử tuyển chọn quan
lại, số nho sĩ tăng thêm nhiều ở triều đình. Phật giáo bị yếu thế phải rút lui
về nông thôn; ở đây để có thể tồn tại,nó phải dung hợp với nhiều tập tục mê tín
dị đoan và tín ngưỡng dân gian, xa lạ với Phật giáo đích thực, và dần dần đánh
mất vai trò chủ đạo tâm linh trước đây của nó. Đó là mất mát không gì bù đắp
được.
Sách tham khảo chính:
1. Lý hoặcluận...Mâu Tử(cũng gọi là Mâu Bắc)
2. Khóa hư lục...Trần Nhân Tông.
3. Cư trần lạc đạo phú...Trần Nhân Tông(bản phiên âm từ Chữ Nôm của Hoàng
Xuân Hãn).
4. Lịch sử Phật giáo Việt Nam...Viện Triết - Ủy ban Khoa Học Xã Hội Hà
Nội.
5. Việt Nam Phật giáo sử luận...Nguyễn Lăng.
6. Việt Nam Phật giáo sử lược...Thích Mật Thế.
7.Giáo tài tóm tắt lịch sử Phật giáo Việt Nam...Minh Chi.
8. East Asia - The Great tradition (Đông Á - truyền thống vĩ đại)...Edwin
9. Reischauer và John K. Fairbank.