Chuyến “du học” không thần thánh trên đất Ấn
Trong “Tây Du Ký” thầy trò Đường tăng bao gồm 4 người, ngoại trừ sư
phụ Đường Tam Tạng còn có 3 đệ tử, đều có xuất thân thần thánh: Một là
Tôn Ngộ Không, vốn là một con khỉ đá rất thần thông, tự phong là Tề
thiên đại thánh, hai là Trư Ngộ Năng, vốn là Thiên bồng nguyên soái của
thiên đình và ba là Sa Ngộ Tịnh, vốn là Quyển liêm tướng quân. Ngoài
ra, con ngựa mà Đường tăng cưỡi cũng vốn là thái tử của long vương bị
đày do từng lập mưu ăn thịt Đường tăng.
Truyện kể rằng, bốn
thầy trò Đường tăng đã có một cuộc hành trình ròng rã 14 năm, vượt qua
rất nhiều kiếp nạn cuối cùng mới đến được đất Phật, gặp Phật tổ và xin
kinh. Khi thỉnh được kinh trở về, có tám vị Kim cương cưỡi mây theo hộ
tống về kinh đô Trường An. Khi đọc “Tây Du Ký”, ai cũng biết ba vị đệ
tử thần thông, xuất thân từ tướng nhà trời, rồi chuyện yêu quái ăn thịt
người,… đều chỉ là chuyện bịa đặt và tưởng tượng ra cả. Tuy nhiên,
những gì sử sách còn ghi chép được cho thấy, chuyến thỉnh kinh Tây
Thiên kéo dài 14 năm của Đường Tam Tạng được miêu tả trong “Tây Du Ký”
lại hoàn toàn có thực.
Sử sách còn ghi lại rằng, Đường Tam
Tạng, hay còn gọi là Đường Huyền Trang vốn tên thật là Trần Huy, sinh
vào khoảng năm Nhân Thọ thứ 2 đời Tùy Văn Đế Dương Kiên (tức năm 602)
tại huyện Câu Thị, nay là tỉnh Hà Nam, Trung Quốc. Do hai người anh
trai của Trần Vỹ xuất gia làm sư ở chùa Tịnh Thổ Lạc Dương nên từ nhỏ
Trần Vỹ đã theo anh tụng niệm kinh Phật, đồng thời đọc cả sách Nho, Đạo…
|
Đường Huyền Trang vốn tên thật là Trần Huy.
|
Vào thời bấy giờ, việc xuất gia đều do triều đình quản lý, những
người muốn xuất gia phải tham gia một kỳ thi, gọi là kỳ thị “Độ tăng”,
ai đủ tiêu chuẩn mới được công nhận cho sư. Khi 10 tuổi, Trần Vỹ theo
gót anh trai đăng ký tham gia kỳ thi độ tăng này. Trong danh sách 27
người đứng đầu kỳ thi ở Lạc Dương, Trần Vỹ nhỏ tuổi nhất, vì vậy quan
chủ khảo mới cho gọi Trần Vỹ tới hỏi: “Còn nhỏ tuổi vậy mà đã xuất gia,
mục đích xuất gia của ngươi là gì?”. Không ngờ, Trần Vỹ bình tĩnh đáp:
“Tôi muốn xa thì nối gót Như lai, gần thì làm rạng rỡ những gì mà Ngài
để lại”.
Quan chủ khảo ban đầu vốn không định cho Trần Vỹ đậu
nhưng khi nghe đối đáp, quyết định đặc cách cho cậu bé 10 tuổi làm sa
di (hòa thượng mới xuất gia), thử thách trong vòng 3 năm. Đến năm 13
tuổi, Trần Vỹ chính thức xuất gia, hiệu là Huyền Trang, cùng hai người
anh của mình tu tại chùa Tịnh Thổ. Trong suốt thời kỳ động loạn cuối
đời Tùy đầu đời Đường, Huyền Trang cùng hai người anh của mình đã đi từ
Lạc Dương tới Trường An rồi Tứ Xuyên tầm sư học đạo.
Đến năm
21 tuổi, Huyền Trang đã có một cuộc tranh luận với một đại sư nổi tiếng
ở Trường An lúc bấy giờ về kinh Đại thừa. Với trí tuệ và thiên tài
trong việc lý giải Phật pháp, tiếng tăm của Huyền Trang sau cuộc tranh
luận ấy nổi như cồn, trở thành một nhân vật đình đám trong giới Phật
môn. Tuy nhiên, vì đọc nhiều và học nhiều nơi nên Huyền Trang phát hiện
ra rằng, mỗi người lại hiểu kinh Phật theo một kiểu khác nhau, có rất
nhiều mâu thuẫn.
Tìm hiểu nguyên nhân, Huyền Trang phát hiện ra
rằng, kinh điển nhà Phật được truyền sang Trung Quốc vẫn chưa được
dịch hết, trong khi đó, những đại sư thế hệ trước ở Trung Quốc lại chủ
yếu dịch theo ý nghĩa là chính dẫn đến mỗi người giải thích theo một
cách, mỗi người hiểu theo một kiểu. Huyền Trang cho rằng, để giải quyết
tình trạng này, thống nhất cách hiểu kinh điển Phật giáo ở Trung Quốc
thì chỉ có một cách là toàn bộ kinh điển Phật giáo phải được dịch chính
xác và đầy đủ từ các bản tiếng Phạn. Chính vì vậy, Huyền Trang quyết
định thực hiện một chuyến “du học” sang Ấn Độ, nơi phát nguyên của Phật
giáo để nguyên văn kinh Phật, thực hiện hoài bão của mình.
Vào năm 629, năm Trinh Quán đời Đường, Huyền Trang quyết định lên đường
đi về phía Tây. Tuy nhiên, vào thời đó, những người muốn đi về phía Tây
Vực đều phải được sự cho phép của Hoàng đế. Huyền Trang cũng không
ngoại lệ. Tuy nhiên, ông hai lần dâng biểu lên vua Đường lúc bấy giờ là
Lý Thế Dân đều không được chấp nhân. Không giống như trong “Tây Du
Ký”, Đường Tam Tạng trước khi lên đường được vua Đường nhận làm huynh
đệ, tặng cho chiếc bát vàng, áo cà sa quý và bày tiệc rượu tiễn ra tận
cửa thành, Huyền Trang một mình cưỡi con ngựa già lên đường đi về phía
Tây mà không hề được sự ân chuẩn của Hoàng đế Đại Đường.
Chuyến
đi của Huyền Trang gặp phải không ít khó khăn vất vả. Có khi Huyền
Trang phải nhịn đói nhịn khát suốt bảy tám ngày ròng rã giữa một trảng
sa mạc trời nắng chang chang, không một bóng cây cũng không có người
qua lại. Có khi lại gặp phải bọn thổ dân ăn thịt người bắt giữ.
Tuy nhiên, Huyền Trang tự nói với mình rằng: “Thà đi về phía tây mà
chết chứ quyết không quay về đông mà giữ lấy mạng sống”. Khi đi qua Cao
Xương, một quốc gia nhỏ ở Tân Cương lúc bấy giờ, quốc vương nước này
đã mời Huyền Trang ở lại làm quốc sư, truyền giảng Phật pháp. Tuy
nhiên, vàng bạc châu báu và quyền lực không làm chùn bước Huyền Trang.
Ông quyết thực hiện chuyến hành hương cầu Phật của mình.
Cuộc
hành trình kéo dài suốt hai năm, vượt qua Tân Cương, Thổ Nhĩ Kỳ,
Afghanista, cuối cùng Huyền Trang cũng đến được biên giới của Ấn Độ. Năm
30 tuổi, Huyền Trang đến chùa Na Lan Đà của Ấn Độ cầu học, được Giới
Hiền đại sư nhận làm đệ tử. Na Lan Đà khi đó là nơi đào tạo tăng sư lớn
nhất của Ấn Độ còn Giới Hiền đại sư là vị cao tăng đức cao vọng trọng
nhất trong chùa lúc bấy giờ.
Huyền Trang ở lại chùa Na Lan Đà
theo học Giới Hiền 6 năm, chuyên tập nghiên cứu pháp tướng và học chữ
Phạn. Sau sáu năm, Huyền Trang được coi là một trong 10 đệ tử xuất sắc
nhất của Giới Hiền. Sau khi đã kết thúc khóa học ở chùa Na Lan Đà,
Huyền Trang xin Giới Hiền cho mình đi chu du Ấn Độ. Ông đã dành rất
nhiều thời gian, thăm thú khắp nơi đặc biệt là các di tích đạo Phật
trên khắp Ân Độ.
Sau khi trở lại chùa Na Lan Đà, Huyền Trang
được Giới Hiền cho giảng kinh trong chùa cho các sư tăng. Danh tiếng
Huyền Trang nhờ vậy được cả giới Phật môn Ấn Độ biết tới. Giới Nhật
vương khi đó là chủ liên minh các quốc gia Ấn Độ nghe tiếng Huyền Trang
còn cho mời đến gặp mặt.
Và vị đại sư thông ngôn nổi tiếng nhất lịch sử
Năm Huyền Trang 41 tuổi, tức vào năm 643, sau 12 năm lưu học Ấn Độ, ông
có ý trở về. Giới Nhật vương biết chuyện đã tổ chức một buỗi tiễn đưa
long trọng có mặt của 18 vị quốc vương các quốc gia Ấn Độ. Sau đó, Giới
Nhật vương vẫn không muốn Huyền Trang ra đi, liên tục mở tiệc khoản
đãi, còn có ý định mời ông làm quốc sư. Tuy nhiên, Huyền Trang nhất
định từ chối đòi trở về.
|
Trì Trọng Thụy trong vai Đường Tăng.
|
Ngày 25 tháng giêng năm Trinh Quán thứ 19 nhà Đường, Huyền Trang
về đến Trường An. Sử chép rằng, những tín đồ đạo Phật biết Huyền Trang
từ Thiên Trúc trở về kéo ra đón tiếp chật đường. Đường Thái Tông Lý
Thế Dân biết chuyện, cho mời Huyền Trang đến gặp, khuyên ông nên hoàn
tục, dùng tri thức mình học được ở Thiên Trúc làm quan giúp sức cho
triều đình.
Huyền Trang đã mỉm cười từ chối, nói mình xuất gia
từ nhỏ, một lòng cầu Phật, không có ý định làm quan. Không chấp nhận
lời đề nghị làm quan của vua Đường nhưng cuộc gặp gỡ ấy đã giúp Huyền
Trang thực hiện được hoài bão của mình từ 15 năm trước. Lý Thế Dân đã
đồng ý cung cấp tiền để Huyền Trang tổ chức dịch lại toàn bộ kinh điển
Phật giáo mà ông mang về từ Ấn Độ nhằm thống nhất cách hiểu kinh điển
Phật giáo ở Trung Quốc lúc bấy giờ.
Được chu cấp của triều
đình, Huyền Trang sau đó đã sống tại chùa Hoằng Phúc ở Trường An để tổ
chức dịch kinh Phật. Tháng 5 năm đó, ông và các cao tăng từ khắp nơi
trong cả nước bắt đầu dịch bộ “Đại bồ tát tạng kinh” gồm 20 cuốn. Chín
tháng sau đó, ông đã hoàn thành.
Suốt mười chín năm ròng rã
sau đó, (từ 645-644) Huyền Trang đã dịch được tất cả bảy mươi lăm bộ
kinh, gần một ngàn ba trăm ba mươi lăm quyển từ tiếng Phạn dịch qua
tiếng Hán. Ông còn dịch một bộ “Ðạo đức Kinh” và "Ðại Thừa khởi tín
luận" từ chữ Hán ra chữ Phạn. Ngoài ra, Huyền Trang cũng viết một bộ
“Đại Đường Tây Vực ký” gồm 12 quyển ghi lại đầy đủ những điều ông đã
thấy, đã biết trong cuộc hành trình kéo dài 17 năm ông “du học” Ấn Độ.
Trưa ngày mồng 5 tháng 2 năm 664, Huyền Trang viên tịch tại chùa Ngọc
Hoa, vì bệnh nặng. Thọ 69 tuổi. Ngày 14 tháng 4 cùng năm, thi hài Huyền
Trang được an táng tại Bạch Lộc Nguyên. Sử chép, ngày cử hành tang lễ
có đến một triệu người ở Trường An và các vùng lân cận theo về để đưa
tiễn. Ðám táng xong, có đến ba vạn người cất lều cư tang gần mộ phần
Huyền Trang. Có lẽ từ xưa đến nay đến đế vương cũng chưa có vị nào được
ngưỡng mộ sùng bái bằng vị thánh tăng có một không hai này.
Theo Bằng Hư - PNTD