Bồ Tát Quán Thế Âm được nhiều
người nhắc đến và tạc tượng lộ thiên ở các chùa, tu viện, tùng lâm, để
ca ngợi hạnh kham nhẫn và đức từ bi cao thượng. Bồ Tát Ðại Thế Chí biểu
trưng cho đức tinh tấn và ánh sáng trí tuệ. Ngài còn có danh hiệu là Ðắc
Ðại Thế Chí Bồ Tát, Ðại Lực Ðại Thế Chí Bồ Tát, Ðại Tinh Tấn Bồ Tát hay
Vô Biên Quang Bồ Tát.
Các
danh hiệu của Bồ Tát Đại Thế Chí nói lên hạnh nguyện đại hùng, đại lực,
đại tinh tấn và ánh sáng trí tuệ vô biên chiếu khắp mọi loài chúng
sanh, có thể phá trừ vô minh, điều phục tham sân si, chuyển hóa phiền
não thành bồ đề. Các vị Bồ Tát đều có từ bi, trí tuệ và ý chí xuất phàm
như nhau, đó là nhân để tiến đến Phật quả.
Trong Kinh Hoa
Nghiêm, Đức Phật ca ngợi Bồ Tát hạnh như sau:
“Nhân vì chúng
sanh mà khởi tâm đại từ bi. Nhân lòng đại từ bi mà phát bồ đề tâm. Nhân
phát bồ đề tâm mà thành ngôi chánh giác”.
Bồ Tát Đại Thế Chí tay
cầm cành hoa sen màu xanh. Hoa sen tượng trưng cho sự thanh khiết trong
sạch, không dính danh lợi thế gian, có sức mạnh tự tại vượt thoát khỏi
bùn nhơ, thành tựu trí tuệ. Màu xanh của hoa sen tỏa ánh sáng xanh trên
cõi trời tây phương tịnh độ, và còn là sức mạnh tinh tấn của chánh định,
là trí tuệ siêu việt như trời biển tĩnh lặng rộng lớn bao la bát ngát.
Hạnh nguyện của Bồ-tát Đại Thế Chí
Hạnh
nguyện của Bồ Tát Đại Thế Chí thuộc về tâm thức, hạnh tu tâm dưỡng tánh,
đi đến giải thoát rốt ráo. Tu theo Bồ Tát đạo là trước tiên phải tu tập
thiền định để có được trí tuệ, xa lìa ái dục để được giác ngộ giải
thoát; sau đó là phát đại nguyện độ tận tất cả chúng sanh đều được an
trụ trong cảnh giới chư Phật. Mắt trần của chúng sanh thấy như Bồ Tát
Đại Thế Chí không làm gì cả, nhưng thật sự làm tất cả hạnh nguyện của
tâm hạnh bồ tát, làm với tinh thần tích cực và tinh tấn mạnh mẽ cao
thượng tột cùng.
Bồ Tát Đại Thế Chí là tâm vô ngã và bình đẳng
chân thật, không dụng tâm cố ý cho người thấy để tán dương khen ngợi,
cũng không chấp vào công đức đã làm, không chấp tướng, không cầu danh.
Hạnh vô ngã, vô trụ, vô phân biệt của Bồ Tát chẳng sinh một niệm gì cả,
cũng không thấy có chứng, có đắc, có độ. Đó là chánh định và chánh niệm
viên mãn tuyệt đối.
Hạnh nguyện của Bồ Tát Ðại Thế Chí là sự
tinh tấn trong đạo Phật, có ích lợi cho chúng sanh rất nhiều và cũng là
pháp tu tượng trưng cho sự nỗ lực dũng mãnh chân chánh trên con đường đi
đến giác ngộ và giải thoát.
Trong 37 phẩm trợ đạo, bát chánh
đạo bao gồm: chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh
mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm và chánh định. Và tứ chánh cần gồm có:
* Tinh tấn ngăn ngừa các điều ác chưa phát sanh.
* Tinh tấn dứt
trừ các điều ác đã phát sanh.
* Tinh tấn phát triển các điều lành
chưa phát sanh.
* Tinh tấn tăng trưởng các điều lành đã phát sanh.
Hình ảnh Bồ Tát Đại Thế Chí là một vị cư sĩ thân người nữ, cổ đeo
chuỗi anh lạc, tay cầm cành hoa sen xanh, tâm định như gương, thanh tịnh
như nước lặng. Bồ Tát biểu trưng năng lực người tu không bị khuất phục
bởi danh lợi và ngũ dục, tham sân si không làm ô nhiễm, như hoa sen gần
bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn.
Lợi ích của tinh tấn và
trí tuệ
Đức tinh tấn và trí tuệ rất cần thiết cho người
tu, là con đường đi đến sự giác ngộ và giải thoát viên mãn. Trí tuệ có
được là do tinh tấn tu hành, siêng năng học đạo, tham thiền, niệm Phật,
tụng kinh, bái sám, không giải đải, không thối chuyển. Người học đạo có
trí tuệ sáng suốt, biết được sự nguy hiểm của vô minh dẫn chúng sanh đi
vào lục đạo sanh tử của luân hồi, nên mạnh dạn chặt đứt phiền não của
nhân bất thiện và nghiệp ác. Tinh tấn còn là tâm hoan hỷ siêng năng,
chuyên cần làm mọi việc thiện lành, cứu người giúp đời, sau đó điều cần
thiết và quan trọng là tinh tấn tự tu học, cho đến khi thân khẩu ý được
hoàn toàn trong sạch và thanh tịnh.
Chư
ác mạc tác.
Chúng thiện phụng hành.
Tự tịnh kỳ ý.
Thị chư
Phật giáo.
"Việc ác không làm.
Việc thiện vâng làm.
Tâm
ý thanh tịnh.
Lời chư Phật dạy."
Đạo Phật là đạo từ bi
và trí tuệ, mặc dù giáo pháp của Đức Phật mênh mông, nhưng không ngoài
một vị giải thoát.
Văn Tư Tu là ba pháp tu có công năng thành
tựu được trí tuệ, người tu theo Phật phải luôn luôn học tập, suy tư và
thực hành.
Trong Kinh Di Giáo, Đức Phật dạy:
“Trí tuệ
là chiếc thuyền kiên cố chở ta ra khỏi biển sanh lão bịnh tử; cũng là
ngọn đèn chói sáng xua tan vô minh hắc ám, là liều thuốc chữa bịnh tham
sân si, là chiếc búa chặt đứt phiền não. Vậy các ngươi phải văn huệ, tư
huệ, tu huệ và hành trì tinh tấn để tự tăng trưởng trí tuệ”.
*
Văn huệ: do nghe âm thanh, văn tự của Phật, mà hiểu được ý nghĩa của
kinh điển.
* Tư huệ: do trí suy tư tìm hiểu, thấy được chân lý, sự
thật một cách sáng suốt.
* Tu huệ: nhờ sự hành trì tinh tấn, mà giác
ngộ thực tướng rõ ràng, mọi sự vật không sai.
Hiện thân của Bồ
Tát Đại Thế Chí là căn bản trí tuệ cho người tu, nhờ vào trí tuệ có năng
lực như ngọn đèn sáng rực, soi rọi các tà vọng thiện ác, thấy được vực
sâu của tội ác trong thế gian một cách rõ ràng.
Ánh sáng trí
tuệ chói rọi đến thâm tâm của con người, đến những nơi u ám của thế
gian, để phá vỡ màn vô minh cứu khổ cho nhân loại. Tất cả chư Phật chư
Bồ Tát nào cũng có hạnh nguyện đại từ bi và đại trí tuệ như Đức Phật A
Di Đà và đó cũng là Phật tánh sáng suốt thanh tịnh, bất sanh bất diệt
của con người.
Tu theo hạnh Bồ Tát Đại Thế Chí là tinh tấn kham
nhẫn cho đến khi tâm an vui giải thoát, chứ không phải cái vui vị kỷ
trong đối đãi: được mất, hơn thua, khen chê, sướng khổ. Si mê là gốc tội
lỗi. Một niềm tin hay hiểu biết sai lầm sẽ khiến con người rơi vào vực
thẳm đau khổ triền miên. Trí tuệ giúp con người nhận thức rõ ràng sự
khác biệt giữa đúng và sai, thiện và ác, nhưng không tâm kỳ thị phân
biệt và không bị phiền não chi phối. Đó cũng là tinh thần vô trụ, vô
chấp của Bồ Tát Đại Thế Chí. Ðạo Phật là đạo giác ngộ bằng con đường trí
tuệ, và giải thoát chúng sanh qua hạnh nguyện từ bi. Bồ tát cũng từ thế
giới ta bà khổ, tu hành tinh tấn, trì giới thanh tịnh, tâm từ bi cao
thượng, trí tuệ sáng suốt, phá được vô minh sanh tử luân hồi, và đạt
thành chánh đẳng chánh giác.
Niệm hồng danh Phật và
Bồ-tát
Người mê miệng niệm Phật, nhưng tâm phiền não và
ý mơ tưởng chuyện hưởng lạc cảnh giới tây phương. Người ngộ miệng niệm
Phật, tâm trong sáng, ý thanh tịnh và tuệ chánh định như Bồ Tát Đại Thế
Chí. Cảnh giới Tịnh Độ là cõi chư Phật trong sạch đẹp đẽ như ngọc lưu
ly, xa cừ, xích châu, mã não, thì tâm chúng sanh muốn về cõi Phật cũng
phải thanh tịnh sáng suốt, vô chấp và vô ngã tuyệt đối.
*
Niệm mà không chấp có niệm, đó là chánh niệm.
* Hành mà không chấp
có hành, đó là chánh tinh tấn.
* Độ mà không chấp có độ, đó là
chánh tư duy.
* Tu mà không chấp có tu, đó là chánh tri kiến.
Niệm
Phật để thanh tịnh tâm và đạt được nhất tâm. Muốn sanh về cõi tịnh độ
Đức Phật A Di Đà, con người còn phải thực hành hạnh từ bi, kham nhẫn,
thanh tịnh như Bồ Tát Quán Thế Âm và đạt định lực dũng mãnh, ý chí tinh
tấn, trí tuệ sáng suốt như Bồ Tát Đại Thế Chí. Thiếu một trong hai đức
tánh bên trái hoặc bên phải của Đức Phật A Di Đà, thì đường về cõi Tây
Phương Tịnh Độ còn xa cách ngàn trùng.
Hành giả trên đường tu,
biết ơn, phụng thờ, chí tâm đảnh lễ, và niệm hồng danh Bồ Tát Đại Thế
Chí, tức là đang hướng về ánh sáng trí tuệ sẵn có tự thân. Kính lễ và
niệm hồng danh chư Phật chư Bồ Tát không có ý nghĩa cầu xin bình an, hay
vật chất sung sướng, chính là hướng về tâm hạnh từ bi, trí tuệ cao
thượng, nguyện tinh tấn tu tâm dưỡng tánh theo lời Phật dạy. Như vậy là
cách niệm hồng danh và đảnh lễ chư Phật chư Bồ Tát đúng chánh pháp bậc
nhất, còn gọi là chánh niệm và chánh định.
Ở thế gian, khi
bước chân vào điện Phật chốn Thiền môn, người Phật tử đã phải bỏ lại đôi
dép bụi bặm bên ngoài, thân tướng trang nghiêm cung kính, tâm chánh
niệm, ý thiện lành, để xứng đáng là Phật tử chân chánh khi đảnh lễ Đức
Thế Tôn. Cõi Phật là cõi cao thượng, thanh tịnh, không có đau khổ, không
có ba đường ác. Tâm người tu phải thanh tịnh, sạch hết phiền não, không
còn nghiệp chướng, không còn danh lợi, không hơn thua tranh chấp, xả bỏ
hết ích kỷ nhỏ nhen của phàm phu. Đó chính là chuẩn bị cho mình trở
thành một bậc thượng thiện nhơn, để được sanh về cõi tịnh độ của chư
Phật.
Đạo Phật là đạo từ bi và trí tuệ; đem ánh sáng trí tuệ phá
trừ vô minh, giúp người tu diệt tham ái sân hận si mê, đó gọi là công
đức; đem từ bi là tình thương trong sạch, thanh cao, cứu người giúp đời,
đó gọi là phước đức. Công đức và phước đức là phương tiện đạt thành đạo
quả.
Thông thường, khi con người trong thế gian làm được việc
lành việc tốt, thì hay tự hào ngạo nghễ, xem thường tất cả mọi người
khác. Sự trói buộc của bản ngã làm người tu mất hết một phần công đức,
phước đức, giảm bớt một phần từ bi và trí tuệ. Tu Bồ Tát đạo là phải tự
giải thoát những trói buộc và phiền não thế gian. Tu Bồ Tát đạo không sợ
sanh tử, cũng không chán ghét ta bà khổ. Tất cả vì sự đau khổ của chúng
sanh, phát nguyện tùy duyên cứu độ. Đó là tâm hạnh ưu việt của người tu
Bồ Tát đạo.
Tóm lại, đời tu không phải ai cũng có hoàn cảnh
giống như nhau, con người thường thích cầu nguyện cho cuộc đời bớt sóng
gió, bớt khổ đau, nhưng cuộc đời không như chúng ta mong ước. Trên thế
giới ta bà khổ, không phải ai phát tâm tu hành đều được người cung kính
hay tán thán, hoặc không bị sóng gió, nhưng dù cảnh thuận hay nghịch,
người tu luôn cố gắng tinh tấn giữ vững niềm tin và nghị lực không thối
chuyển.
Con người có hạnh phúc, không nhất thiết là phải được
tất cả mọi mong cầu, mà là người mạnh dạn đứng lên khi thất bại, biết
chuyển đổi được những khó khăn và khổ đau xảy đến, thành an lạc hạnh
phúc trong tâm hồn.
Bồ Tát Đại Thế Chí là oai lực của trí tuệ,
là công hạnh lý tưởng cao thượng tột cùng của công phu tinh tấn tu tập
của người tu.
Xuất gia hay tại gia đều có khả năng tự chọn con
đường tu, tự độ và độ tha, bằng sức mạnh của từ bi và trí tuệ.
“Tự
Tánh Di Đà Duy Tâm Tịnh Độ”, nơi tâm nhứt niệm thanh tịnh, không loạn
động điên đảo thì thấy được cảnh giới tịnh độ, có nhiều hoa sen xanh tỏa
ánh sáng màu xanh tuyệt đẹp, đó là hình ảnh của Bồ Tát Đại Lực Đại Thế
Chí chắc là không sai chút nào.
Nam mộ Đại lực Đại Thế Chí
Bồ-tát
Thích Nữ Chân Liễu