Tô Cách Lan (Scotland) là một quốc gia thuộc Vương quốc Liên hiệp Anh và
Bắc Aien ( United Kingdom of Great Britain and Northern Ireland). Diện tích
khoảng 79.000km2, chiếm một phần ba đảo Great Britain. Dân số: 5 triệu người.
Thủ đô là Edingburgh.
Phật giáo được hai Tăng Sĩ người Tây
Tạng truyền đến Tô cách Lan vào đầu những năm 60 của thế kỷ này. Ðến nay đã có
hơn 10 tự viện Phật giáo được xây dựng rải rác ở đất nước này. Dưới đây là bài
viết của nữ ký giả Julia Wilkinson, mô tả về
sinh hoạt của Tu viện Samye Ling nằm trên bờ biển phía tây của Tô-Cách-Lan. Bài
viết khá tỉ mỉ có thể cho chúng ta thấy được toàn cảnh của Phật giáo tại Tô
Cách Lan .
Ðó là một gốc núi của đảo, giống như
bạn đang ở Tây Tạng, cây cối bao phủ dày đặc đến nỗi bạn dễ dàng lạc vào con
đường quẹo đến ngôi tu viện Phật giáo nằm ở trên bờ của một con sông lạnh lẽo
và chảy xiết. Một ngôi tu viện được trang trí lộng lẫy đứng sừng sững giữa một
quần thể kiến trúc độc đáo của phương đông, gió đưa tiếng chuông leng keng từ
mái vàng của tu viện, trong khi từ xa dội lại nốt trầm trầm của một loại kèn
Tây Tạng.
Ðây là một trong những tu viện sinh
động nhất tại Tô Cách Lan. Thêm vào khóa tu thiền mỗi ngày, các vị tăng, ni, cư
sĩ và người làm công quả đều bận rộn xây dựng mở rộng thêm cho tu viện, lại có
một trại bò sữa, xưởng mộc, phòng khắc tượng, vẽ tranh.... Trong vườn rau quả
luôn xanh tươi với những luống hoa hướng dương và cúc đại đóa, nơi có những con
công lông màu trắng đang thanh thản đùa giởn. "Failte" hoặc "xin
chào" theo tiếng địa phương lại càng làm cho bạn thêm bối rối đối với Tu
viện Samye Ling Tây Tạng, nằm sâu trong rừng thông thuộc biên giới Tô-Cách-Lan.
Tu viện Samye Ling được xây dựng gần
30 năm trước tại một ngôi làng Eskdalemuir gần Lockerbie bởi hai vị tăng sĩ trẻ
người Tây Tạng - Ðại đức tiến sĩ Akong Tulku Rinpoche và Ðại đức Trungpa Tulku
Rinpoche . Hai vị đã đào thoát khỏi Tây Tạng năm 1959 khi Trung quốc tấn công
vào đất nước họ. Năm 1964, hai vị đến Anh quốc và thực hiện một số buổi diễn
thuyết cho một vài nhóm Phật tử . Sau đó, họ đã tìm ra một nơi để thành lập
Trung tâm tu học, họ đã mua lại khu nhà trọ (dành cho người đi săn) và đất xung
quanh.
"Tôi có thể chỉ nghĩ rằng đó là
do duyên nghiệp đã đưa chúng tôi đến đây" Thượng tọa Viện trưởng Along
Rinpoche nói, (Ngài Trunpa Tulku hiện sống ở Hoa Kỳ) "Tại sao chúng tôi
không đến một nơi khác? Không, vì đây là nơi thích hợp cho chúng tôi tu tập và
hành đạo".
Tu viện Samye Ling (được đặt theo
SAMPY, tên của Phật học viện đầu tiên ở Tây Tạng) đã trở thành Trung tâm Phật
giáo đầu tiên ở thế giới phương Tây trong sứ mạng truyền bá lời Phật dạy theo
tinh thần Ðại Thừa và Kim Cương Thừa. Nơi đây vẫn là một trung tâm lớn nhất với
một cộng đồng thường trú khoảng 100 tăng, ni và cư sĩ tại gia, với 3,000 người
đến tham dự các khóa tu và 30.000 du khác mỗi năm. Tu viện cũng có một số hoạt
động quốc tế với một tổ chức Trung ương ROKP ("cứu giúp" theo tiếng
Tây Tạng) điều hành 11 Trung tâm từ thiện Samye Dzong trên khắp thế giới, bảo
trợ thực phẩm cho các tu viện ở Châu Âu cũng như chăm sóc y tế và giáo dục ở
Nepal và các vùng nông thôn Tây Tạng. Samye Ling đã trở nên nổi tiếng kể từ khi
có cuộc viếng thăm của Ðức Ðạt Lai Lạt Ma năm 1984 và một dịp khác là năm 1988.
Samye Ling là ngôi tu viện lớn nhất Tây-Âu, được xây dựng theo kiến trúc của Tây
Tạng. "Samye Ling có một 'chính sách' không quá căng thẳng", Thom
MacCarthy, người quản lý cư sĩ tại gia nói "cho đến khi nào nó thực sự
được mở rộng".
Samye Ling được mở rộng rất nhanh
trong mấy năm qua, ngân quĩ lớn ra bởi những ủng hộ viện tư nhân và tiền tệ phí
thu được từ du khách. Một trung tâm bên cạnh tu viện đã được tái tạo vào năm
1988 để cung cấp chỗ ở cho 50 người. Tu viện đã thành công trong việc tổ chức
hai nhóm tu dưỡng bốn năm. Một phần ba trong nhóm 45 người từ 16 nước khác nhau
đã bắt đầu khóa tu bốn năm lần thứ ba vào tháng mười một năm 1993.
Cùng lúc một khu nhà mới vừa được
xây dựng xong. Năm ngôi nhà nhỏ xếp dài trên bờ sông và ba cái khác ở trên
triền đồi, chúng được sử dụng như nhà ở cho các vị cư sĩ sống và làm việc lâu
năm nơi đây. Năm ngoái, Ðức Ðạt Lai Lạt Ma đã chính thức khởi công xây dựng một
Trường Cao Ðẳng Samye Ling, Viện bảo tàng, thư viện, giảng đường và phòng triển
lãm. Nói chung, chúng được sử dụng như một trong trung tâm nghiên cứu Phật Giáo
ở phương Tây.
Rồi mới đây Trường Cao đẳng y khoa
Tara Tây Tạng đã được mở cửa với khóa học đầu tiên cho học viên Tây phương và
đang tiến hành xây dựng một Bảo Tháp Hòa Bình (Peace Stupa) cao 15 mét. Quả
vậy, với tất cả những công trình xây dựng ở Samye Ling đang được tiến triển tốt.
Một số Phật tử địa phương đã có "công ăn việc làm". Ông Bernard
Provost, người Pháp, là một nhà thầu chính cho các công trình xây dựng ngôi tu
viện trong suốt mười hai năm qua. Giờ đây, ông đã phát đạt với số thu nhập hàng
năm là 500.000 bảng Anh (khoảng 756.000 đô la). Họ không những có lợi về mặt
vật chất mà còn đạt được nhiều thành quả về tâm linh qua các khóa tu. Bà Rose
Laing, người đến tu viện từ năm 1972, được Thượng tọa viện trưởng chữa lành
bệnh hắc lào và dị ứng da bằng thảo dược (herbal remedy). Sau đó bà đã thành
lập một công ty sản xuất loại thuốc gia truyền của Tây Tạng. Còn nhiều người
nữa, những người thường trú lâu năm ở đây đã giúp tăng nhanh cư dân và làm sống
lại một cộng đồng sắp tan rã. "Chúng tôi đang lấp vào những khoảng trống",
McCarthy nói "phần lớn trẻ em ở trường làng là đến từ các gia đình trong
cộng đồng Samye Ling, nếu không thì ngôi trường đã đóng cửa".
Năm 1990, một hòn đảo khoảng năm cây
số vuông, không có cư dân nằm giữa vùng Arran và bờ biển phía tây Scotland,
được bán cho tu viện với giá 350.000 bảng Anh, rẻ hơn giá trị trường một nửa.
Theo truyền thuyết, khoảng 1.400 năm trước Thánh Molaise, một ẩn sĩ Thiên Chúa
giáo đã từng sống trong một hang động ở phía Tây của ngôi đão này. Thượng tọa
Yeshe Losal, em ruột của ngài viện trưởng, đến Samye Ling năm 1985, ngài có ý
muốn mở rộng thêm cơ sở tu học cho tu viện, và sau một đêm tĩnh tọa trên ngôi
đão, ngài Yeshe tự nhủ rằng "Thánh đảo" (Holy Island) sẽ thuộc về
Phật giáo. Những cố gắng về ngân quỹ được gia tăng sau đó và đến tháng tư năm
1992, Thánh đảo đã trở thành một phần quan trọng của tu viện Samye Ling.
Ít ra những kế hoạch tạo dựng trên
Thánh đảo này cũng là một hoài bảo lớn lao đối với Phật giáo ở Tô-Cách-Lan. Ðây
là một đề án lớn cả về tái tạo lại hệ sinh thái lẫn phát triển về tâm linh, với
mục tiêu nhằm tạo sự tồn tại và hài hòa giữa thiên nhiên và con người. Phía nam
của đảo dành để xây dựng các thiền thất để cho tăng ni tịch cốc tu dưỡng ba
tháng hoặc ba năm theo truyền thống. Cuối phía Bắc của đảo sẽ mang dáng hình
của một trung tâm hòa bình, hòa giải và tu thân dành cho cư sĩ tại gia và mọi
giới trong xã hội cũng như những người có tín ngưỡng khác.
Một cuộc tranh tài về kiến trúc quốc
tế cho ngôi Chánh điện (Buddha 's Shrine) đã thu hút 198 đồ án tham gia trong năm
rồi. Người thắng cuộc với đồ án có định mức thấp nhất. Nhưng đáng kể là nó có
nét giống cung điện Potala, nơi sống và làm việc xưa kia của Ðức Dalai Lama ở
thủ đô Lạt Xá, Tây Tạng.
Suốt trong một tháng, những Phật tử
tình nguyện đã xây một bức tường bằng đá để ngăn chặn sự phát triển của cỏ dại
và tiến hành việc trồng rừng, đến nay đã có 18.000 gốc đã được trồng xuống
Thánh đảo. Bốn căn nhà tranh đổ nát cũng được sửa lại để dành cho những khóa tu
ngắn ngày, trong khi một khu vườn được cải tạo để trồng rau quả cho tu viện và
cho cư dân. Khi hoàn tất, Thánh đảo sẽ thành một Trung tâm tu học lớn nhất Anh
quốc và cả Tô-Cách-Lan, với 200 tăng ni và cư sĩ theo tu học. MsCarthy nói đùa
với tôi "Ðây là cửa ngõ để Phật giáo đi vào phương Tây".
Những người đã từng sống ở Samye
Ling trong mấy thập niên qua đã thừa nhận rằng sự thay đổi đối với Samye Ling
đáng yêu của họ là điều không thể tránh được. "Lúc đầu tôi mới đến
đây", Christine Jefferey, Samye Ling chỉ gồm những nhóm nhỏ, không có sứ
mạng hay bất cứ một ý tưởng cố định nào về việc khôi phục cộng đồng. Chỉ có
ngài viện trưởng Akong Rinpoche hướng dẫn thôi. Rồi dần dà các vị Lạt Ma đến,
mọi người bắt đầu chú ý đến dự khóa tu càng đông, nên chúng tôi mới mở rộng để
đáp ứng nhu cầu đó. Mặc cho sự đổi thay, nhưng Samye Ling vẫn không bao giờ mất
đi giá trị nguyên sơ và truyền thống của nó".
Một điều thú vị nhất là cách đổi mới
của Thượng tọa Yeshe Losal trong việc mở một khóa "tập sự xuất gia một
năm" trong hai năm trước đây. Cố nhiên, đó không phải là một phần theo
truyền thống của Phật giáo Tây Tạng, vì ngoài một số nước theo truyền thống
Theravada như Thái, Lào, Campuchia, Miến Ðiện... hầu hết các thanh thiếu niên ở
các nước này tối thiểu phải hoàn tất ba năm xuất gia tu học. Nhưng đối với các
quốc gia theo truyền thống Mahayana thì đòi hỏi đương sự phải lập nguyện tu
suốt đời. Như vậy thì có gì đặc biệt trong trường hợp này? Thượng tọa Yeshe
giải thích: "Dù sao đi nữa thì nền tảng của Ðạo Phật vẫn là lòng từ bi. Sứ
mệnh của người tăng sĩ chúng tôi là phụng sự chúng sanh trong bất kỳ trường hợp
nào họ cần đến. Phật giáo phải tự uyển chuyển để thay đổi lúc cần thiết. Lập
nguyện tu suốt đời quả là một điều khó. Nhưng ở phương Tây phát tâm xuất gia
một năm thì khả dĩ chấp nhận được".
Ða số những người đó đã chụp lấy cơ
hội hiếm có này, phần lớn đều ở lứa tuổi hai mươi, họ tựu về Samye Ling với đủ
mọi thành phần: nghiện rượu, nghiện ma túy và nhiều vấn đề xã hội khác. Thượng
tọa Yeshe đã trấn an họ: "Không sao, các anh chị có thể ở lại đây và mặc
áo tu. Nếu anh chị đã quyết định thì trong sáu tháng đầu phải làm quen với nếp
sống ở tu viện và từ bỏ những tật xấu. Sau đó nếu thích thú thì cứ tiếp
tục".
Một số người trong nhóm đầu tiên đã
thích ứng lối sống và tu ở đây trong một năm. Nội quy cho các hành giả này rất
khắt khe: Không sát sinh, không nói dối, không nhục dục, không nghiện ngập,
không ca hát, không trang điểm và không được ra khỏi Thánh đảo.
"Nhiều người trong số họ đã
chống đối lại gia đình và xã hội", Ngài Yeshe cho biết thêm "nhưng họ
đã chấp nhận những gì do tôi nói, bởi vì họ tin ở tôi. Họ biết rằng tôi không
bao giờ yêu cầu họ làm lợi cho tôi. Vì rằng mọi thứ mà tôi làm cũng chỉ muốn
tốt đẹp cho họ. Vâng, trong một chừng mực nào đó, tôi giống như một người làm
công tác xã hội theo hướng đi của Phật giáo". Tất nhiên, điều đó không
phải tốt cho tất cả, "nhiều người đã không hoàn tất một năm", Ngài
Yeshe cười thừa nhận: "và một số khác đã quay lại lần thứ hai và nhiều hơn
nữa".
Chú Russel Murdoch, 24 tuổi, trưởng
ban Trai soạn, đang ở tháng thứ tám trong khóa xuất gia một năm, chú nghĩ rằng
việc mặc áo tu là một điều tốt mà chính bản thân chú đã trải qua. Chú nhớ lại:
"Tôi rất đau khổ khi tôi mới đến Samye Ling. Tôi thật tình không biết gì
về lợi ích của việc tu học, tôi chỉ mong kiếm được một ít tiền, vì tôi cảm thấy
cuộc đời tôi quá ngắn ngủi. Nhưng khi đến đây tôi thấy mọi người đều vui tươi
và hạnh phúc, đó là lần đầu tiên trong đời tôi, và đây cũng là lý do chính đã
kéo tôi ở lại Samye Ling. Bạn không phải đến đây để trở thành một Phật tử mà là
để tự hoàn thiện mình. Samye Ling là nơi trở về của mọi người. Mẹ tôi có ấn
tượng rất lớn về những lợi ích đã mang lại cho tôi, bà cũng muốn đến đây để trở
thành một ni cô".
Chị Anni Lhamo, 37 tuổi, đến Samye
Ling từ năm 1979. Chị từng nổi tiếng là một người soạn thảo phần mềm vi tính ở
Glassgow, có nhà, có xe, có người yêu và những kỳ nghỉ mát tự chọn. Rồi vào một
dịp nào đó chị đã gặp một vị sư gốc Tây Tạng với một đạo phong khác thường đã
khiến cho chị viếng thăm Samye Ling vào mỗi cuối tuần và mỗi kỳ nghỉ. Năm 1989,
chị bỏ sở làm, bỏ tất cả để ghi tên gia nhập khóa tu bốn năm. Ngủ một đêm năm
giờ trong thiền phòng chật chội, thức dậy vào bốn giờ sáng và chỉ gặp mọi người
vào các giờ ăn. Suốt trong bảy tháng đầu phải hoàn toàn im lặng. "Ðó là
những năm tháng hoàn hảo nhất trong đời của tôi", chị kể lại "Tôi đã
vượt qua mọi giới hạn của sự khắt khe. Nó thật sự đã giúp tôi có thêm nội lực
và ổn định về mặt tinh thần. Nói chung Samye Ling đã mang lại cho tôi niềm vui
rất lớn, giờ đây tôi muốn đem nó để chia xẻ cho các bạn".
Không phải ai cũng thích mặc áo tu
hoặc ở lâu trong tu viện. Một số người đến vì muốn tìm kiếm sự bình ổn cho tâm
hồn và làm một cái gì đó cho Tam Bảo. Chẳng hạn David Neviazsky, 27 tuổi, tốt
nghiệp đại học mỹ thuật, hiện đang vẽ tranh và phụ trách trang trí cho tu viện,
Sherab Palden Beru, bốn năm trước tìm đến Samye Ling trong lúc đang suy sụp về
tinh thần, anh cho biết "lúc đó tôi gần như đã ngã qu�, tôi không biết gì về Ðạo Phật cả.
Nhưng khi tôi gặp được ngài viện trưởng, ngài thật sự đã ban vui cho tôi. Tôi ở
lại đây từ ngày ấy. Ðạo Phật đã giúp tôi tìm lại chính mình và tin vào mình hơn
ai cả. Tôi vẫn chưa chắc là mình sẽ trở thành một tăng sĩ, nhưng tôi sẽ đợi khi
thời điểm thích hợp".
Cậu Shiwa, 24 tuổi, hiện là một
người phụ trách chăm sóc vườn rau quả, cậu có ba tháng tập chạy bộ quanh đảo để
thách thức cái rét cắt da ở đây vào mùa đông, trước khi quyết định khoác áo tu.
Cậu nói về mình: "Sau sáu năm theo học Trường Nghệ thuật về ngành nghệ
thuật quảng cáo thương mại, tôi trở nên vỡ mộng và chán nản. Tôi sống ở Luân
Ðôn và nghiện ngập. Nhưng tôi vẫn ý thức được là mình cần một hướng đi khác và
tôi biết chỉ có cách đó mới thay đổi được cuộc đời tôi. Thánh đảo đã giúp tôi
làm việc đó. Khi ở đây, bạn không thể che dấu bất cứ điều gì từ chính bản thân
bạn. Từng bước bạn sẽ lột bỏ những lớp vỏ giả tạo của mình. Việc đó sẽ đến như
một vụ nổ có điều khiển". Một ngày khác, trong lúc đang trồng củ cải
đường, cậu nói: "Vào cuối khóa tu, chúng tôi sẽ quyết định tu luôn hoặc
không. Ðây là một quyết định rất khó cho tất cả. Nhưng dù sao đi nữa, thì trong
thời gian sống ở đây, chúng tôi đã có một bóng dáng của một cuộc đời khác".
Anh Zangpo, 35 tuổi, trước kia là
người phụ trách phát hành sách cho nhà xuất bản Malcolm, hiện đã tìm thấy sự ổn
định về cuộc sống sau khi bỏ rượu và thuốc lá. Trong khi, cô Anni Peta, 29
tuổi, tốt nghiệp Ðại học Oxford, đang ở thời gian tập sự xuất gia, cô đang bận
rộn lo cơm nước cho đại chúng.
Ðến thăm Thánh đảo, bạn sẽ tìm thấy
sự yên tĩnh và một cái gì đó quyến rũ lạ thường. Có phải vì do Samye Ling hay
do chính hòn đảo? Anh Perryman Tom Sheldon, 41 tuổi, ở làng Lamlash, nơi anh ta
đang điều hành một bến phà đưa khách qua Thánh đảo, "Không nghi ngờ gì
nữa, Thánh đảo có một cái gì rất thiêng liêng và đặc biệt vô cùng", anh
nói "Không khí ở đây rất thanh bình, Phật giáo đã bổ sung thêm cho giá trị
của đảo".
Thánh đảo đã mang lại niềm vui và
sức sống cho mọi người. Nơi đây không những chăm sóc cho các trẻ em thường lui
tới từ ngôi làng Lamlash mà còn là "nghĩa trang" cho các cụ già.
Thánh đảo có thể ví như một Trung tâm huấn luyện đội quân cảm tử cho quân đội.
Và đặc biệt nó vẫn là một nơi hấp dẫn cho các trường đại học gởi sinh viên đến
để nghiên cứu về sinh thái và thú vật, vì Thánh đảo vẫn là nơi trú của các loài
thú hiếm.
Hơn thế nữa, Thánh đảo đang điều
khiển một cộng đồng đa dạng và luôn đổi mới. Nơi đây, bạn có thể tìm thấy đủ
mọi thành phần: giám đốc công ty, cựu chiến binh Việt Nam, cựu binh, tu sĩ, thợ
xây dựng, sinh viên, dân nghiện....
"Vâng, ở đây, chúng tôi có mọi
thứ", Alex Duncan, 43 tuổi , vị Tri khách của tu viện, trước kia anh ta là
một giáo viên dạy trống chuyên nghiệp và cũng từng là một công nhân dầu khí,
"ngay cả những người vô đạo, những bà đồng cốt cho đến các tay 'anh chị'
với vết xăm đầy trên cơ bắp... mọi người đều được đón tiếp miễn là họ đừng phá
rối là được. Nói chung tất cả đều đến đây với mục đích tìm học liệu pháp của
Phật giáo để tự chữa bệnh cho bản thân. Ðối với những người ở được một năm hoặc
lâu hơn, vì sự cách ly có thể tạo ra một cú sốc lớn. Mọi người đều nghĩ rằng
cách ly là biện pháp ban đầu tốt nhất để 'tân hành giả' khỏi phải đối đầu với
những chi phối 'tới tấp' của ngoại cảnh. Nội quy và giới luật ở đây rất nghiêm
khắc, bất kỳ ai có những vấn đề gì sẽ tự phơi bày ngay. Ðây là một nơi tốt nhất
để đối mặt với chính mình và sự cách ly hoàn toàn đó sẽ tạo ra một hiệu quả rất
lớn".
Mặt trời chiếu khuất bên kia đỉnh
núi và hoàng hôn buông xuống Thánh đảo, Samye Ling, mọi vật nơi đây dường như
đang quyện lẫn vao nhau như sự quan sát của Thượng tọa Yeshe Losal: "Thiên
nhiên, con người và tôn giáo luôn ở trong sự hài hòa". Các người con Phật
đang tụng kinh, trì chú với âm thanh vang rền bên trong chánh điện dưới ánh đèn
mờ nhạt, các chú bồ câu bay lượn qua cửa sổ và đậu trên nóc tu viện, Shiwa đang
tươi cười, ngoài kia chim hải âu đang réo gọi, tiếng re ré của gà rừng và các
con hàu thì đang bò qua lại trước hang động của Thánh Molaise, còn những 'tân
hành giả' thì đang tĩnh lặng thiền định trong thiền phòng.
Cảnh vật làm mọi người nhớ lại
khuyến cáo của vị Tri khách Alex Duncan: "Ðây không phải là nơi để nghỉ
mát, mà là Thánh Ðịa (Holy Place) để mọi người tôn kính và quy ngưỡng".
Theo Julia Wilkinson, DISCOVERY, 11/1997