N
gày nay,
thế giới đã nhận thức được chân
giá trị của Phật Giáo. Phật Giáo
là một Đạo [danh từ “tôn giáo”
theo nghĩa của Tây phương không
thích hợp với Phật Giáo] mà cốt
tủy giáo lý về phương diện xã
hội là về lòng từ bi và chủ
trương hòa bình. Hơn gì hết,
Phật Giáo lại là Đạo của trí
tuệ. Trí tuệ là đặc tính quý báu
nhất của con người. Cách đây hơn
2500, Đức Phật đã dạy chúng ta
như vậy trong Kinh Kalama, Người
khuyên chúng ta nên sử dụng trí
tuệ thay vì vội tin. Phải chăng
vì vậy mà ngày nay hiện tượng
Phật Giáo nở rộ khắp nơi trên
thế giới, nhất là trong phương
trời Âu Mỹ, không còn xa lạ gì
với chúng ta, và đã trở thành
một sự kiện không ai có thể phủ
nhận.
Là Phật tử,
chúng ta ai cũng biết đến những
khẳng định mà trong lịch sử nhân
loại, chỉ có Đức Phật mới có nói
lên được: “Tất cả mọi chúng sinh
đều có Phật Tánh” và “Ta là Phật
đã thành, các con là Phật sẽ
thành”. Nếu chúng ta đã chấp
nhận Đức Phật là Giáo Chủ của
Đạo Phật mà không hề thắc mắc,
thì Đức Phật là vị Giáo Chủ duy
nhất trên thế gian đã tôn trọng
phẩm giá của con người đúng
nghĩa là một con người. Người cư
sĩ Phật Giáo nên cảm thấy mình
hãnh diện khi được ở trong một
Đạo giáo duy nhất trên thế giới
tôn trọng bản chất bình đẳng của
con người. Đạo Phật tôn trọng
con người là con người chứ không
hạ con người xuống hàng súc vật
như con cừu, con chiên, con bò,
con ngựa, để bị chăn dắt. Người
cư sĩ Phật Giáo cũng nên cảm
thấy mình đang ở trong một Đạo
đúng nghĩa là một Đạo, một con
đường tu tập, tự lực tự cường,
tự tu tự chứng để tiến lên những
cảnh giới cao hơn cảnh giới
thông thường của đa số quần
chúng.
Phải chăng
cũng vì những sắc thái xã hội
đượm màu từ bi và hòa bình của
Phật Giáo, và cũng vì lịch sử
truyền Đạo của Đạo Phật trên
2500 năm qua không hề vấy một
giọt máu, mà Liên Hiệp Quốc đã
tôn vinh ngày đản sinh của Đức
Phật là ngày Đại Lễ Tôn Giáo của
thế giới? Đại Lễ Phật Đản do
Liên Hiệp Quốc vừa tổ chức rất
huy hoàng ở Thái Lan trong tháng
5 vừa qua để kỷ niệm ngày đản
sinh thứ 2550 của Đức Phật đã
chứng minh hơn gì hết lý tưởng
vị tha và hòa bình của Phật Giáo
là những tiêu chuẩn đạo đức mà
thế giới ngày nay rất cần đến.
Và Đại Lễ Phật Đản năm nay được
tổ chức tưng bừng ở nhiều nơi ở
Việt Nam, từ Bắc vào Nam, đã cho
mọi Phật Tử chúng ta thấy một sự
kiện: Đạo Phật là nền tảng đạo
đức và tinh thần không thể thiếu
của người dân Việt Nam.
Thật vậy,
ảnh hưởng của Phật Giáo trên nền
văn hóa dân tộc thực là sâu đậm,
sâu đậm đến độ người ta không
còn phân biệt được đâu là văn
hóa Phật Giáo và đâu là văn hóa
dân tộc. Đây là một sự kiện
không ai có thể phủ bác. Sở dĩ
như vậy là vì Phật Giáo đã đi
vào dân tộc Việt Nam, không bằng
con đường giáo điều khô cứng,
không bằng con đường ru ngủ dân
chúng (có tác dụng như thuốc
phiện) với những hứa hẹn hão
huyền, mà bằng con đường trí
thức, con đường phát triển trí
tuệ, tự lực tự cường, và nhất là
không chống lại những truyền
thống của dân tộc Việt Nam. Với
những giáo lý nhân bản và những
triết thuyết cao siêu, phù hợp
với tinh thần khoa học, Phật
Giáo đã đáp ứng được những đòi
hỏi suy luận trí thức của giới
có học. Với bản chất hòa bình,
bao dung, bình đẳng, và những
giáo lý giản dị, Phật Giáo cũng
đã đáp ứng được khao khát của
giới bình dân, ít học. Từ đó,
Phật Giáo đã đi vào dân gian,
hội nhập trong dân gian, trên
mọi giới, để tạo nên một tinh
thần Phật Giáo dính liền với một
tinh thần yêu nước cao độ của
người Việt Nam.
Kể từ khi
Phật Giáo du nhập vào Việt Nam
đến nay đã ngót hai mươi thế kỷ,
Phật Giáo chưa bao giờ phản bội
dân tộc, liên kết với kẻ ngoại
xâm, giết hại đồng bào. Phật
Giáo Việt Nam chưa bao giờ nhận
lệnh của bất cứ chức sắc ngoại
quốc nào, lệ thuộc bất cứ một tổ
chức chính trị hay tôn giáo quốc
tế nào. Và cũng nhờ đó mà Việt
Nam đã bao lần thành công trong
việc đánh đuổi ngoại xâm, từ
những thế kỷ đầu cho tới hạ bán
thế kỷ 20. Với một lịch sử du
nhập như vậy chúng ta hẳn không
lấy làm lạ khi thấy tinh thần
Phật Giáo thể hiện sâu đậm trong
mọi bộ môn của nền văn hóa Việt
Nam như văn chương, thi ca bác
học cũng như bình dân, trong
nghệ thuật, kiến trúc, điêu khắc
v.v...
Trong một
bài tham luận nho nhỏ cỡ này tôi
chỉ xin tự giới hạn trong vài
nét đại cương về chủ đề "Cư Sĩ
Phật Giáo Việt Nam trong Thời
Đại Mới.”, vì tôi tin rằng giới
cư sĩ Phật Giáo sẽ phải giữ một
vai trò và một địa vị xứng đáng,
quan trọng trong xã hội Việt
Nam, nhất là trong thời đại mà
những tệ đoan xã hội theo nếp
sống Tây phương đã phần nào làm
suy yếu nền đạo đức tinh thần cổ
truyền của xã hội Việt Nam.
Những ý kiến sau đây chỉ là từ
những suy tư cá nhân, và chắc
chắn còn nhiều thiếu sót. Tôi
tin tưởng rằng nếu giới cư sĩ
chúng ta chịu khó bắt tay vào
làm việc, đóng góp ý kiến v..v..
về vị thế của Phật Giáo trong
thời đại mới, thì Phật Giáo sẽ
có nhiều cơ hội phát triển, và
do đó sẽ có nhiều đóng góp tích
cực cho sự an sinh của quần
chúng Việt Nam.
Đúng ra thì
vai trò của người cư sĩ Phật
Giáo Việt Nam khá nặng nề, hai
vai gánh vác hai nhiệm vụ quan
trọng trong vấn đề Hộ Pháp. Một
mặt, người cư sĩ Phật Giáo phải
tích cực trong vấn đề hoằng
dương Đạo Pháp theo nghĩa vừa
phải giúp các phương tiện, vật
chất cũng như tinh thần, để quý
Thầy an tâm tu theo Chánh Pháp,
vừa phải tự thân học hỏi và tu
tập Phật Pháp. Quý Thầy là những
người đã theo một con đường mà
tuyệt đại đa số chúng ta không
theo được. Quý Thầy là những bậc
xuất gia, còn chúng ta là những
người tại gia. Là những người cư
sĩ tại gia, chúng ta phải đối
diện với tất cả những vấn đề gia
đình, xã hội, cộng đồng v..v..
trong đó có những vấn đề cần
phải đối phó. Một trong những
vấn đề chính trong xã hội ngày
nay cần phải đối phó là chúng ta
phải có cái dũng để ngăn chặn ma
quân, những kẻ xấu vì lòng cuồng
tín tôn giáo, vì vô minh, vì tự
ty trước Phật Giáo v..v.. nên
thường xuyên ra công xuyên tạc
đánh phá Phật Giáo. Trọng trách
này đòi hỏi chúng ta phải vận
dụng đến trí tuệ, đến sự hiểu
biết, và nhất là đến tâm từ bi
của Phật Giáo trong mục đích
chuyển hóa.
Nhưng trước
hết, để có thể thi hành hữu hiệu
những nhiệm vụ trên, chúng ta
cần phải biết chúng ta nên có
một cuộc sống như thế nào trong
xã hội thế tục. Đức Phật đã thấy
rõ không phải ai cũng có thể
sống một đời sống tu hành cho
nên Người đã đưa ra những tiêu
chỉ cho những Phật tử thông
thường như chúng ta trong đời
sống xã hội, thường ngày va chạm
với những thực tế phũ phàng của
cuộc sống. Trong Trường Bộ Kinh,
Đức Phật đã vạch rõ cho chúng ta
thấy sự nghèo khổ là nguồn gốc
của vô luân và tội ác như trộm
cướp, gian lận, bạo hành, sân
hận, độc ác v.v... Đức Phật đề
nghị rằng muốn giải quyết vấn đề
tội ác, điều kiện kinh tế của
dân chúng phải được tăng tiến.
Người đã chỉ rõ cho Phật tử tầm
quan trọng của sự cải tiến tình
trạng kinh tế của con người.
Nhưng điều này không có nghĩa là
Đức Phật khuyên mọi người đi
tích lũy của cải bằng bất cứ
phương tiện nào để thỏa lòng
tham và chấp vào vật chất vì đây
là điều trái ngược với giáo lý
căn bản của Người.
Đức Phật đã
dạy một người dân thường tên là
Dighajanu là có bốn điều kiện
đưa hạnh phúc đến cho con người
ở trên cõi đời: Thứ nhất: chăm
chỉ, cố gắng đạt tới "nhất nghệ
tinh nhất thân vinh"; Thứ nhì:
phải bảo vệ tài sản kiếm dược
một cách chính đáng bằng mồ hôi,
nước mắt; Thứ ba: kết bạn với
các thiện tri thức nghĩa là
những người đạo đức, học rộng
biết nhiều, phóng khoáng và
thông minh, để giúp mình tiến bộ
trên Chánh Đạo, xa lánh ác
nghiệp; và Thứ tư: tiêu pha
trong khả năng và dành một phần
cho những việc thiện, không bần
tiện mà cũng không hoang phí.
Sau đó Đức Phật nêu ra 4 đức
tính đưa đến hạnh phúc trong
tương lai của con người, và đây
mới là những mối "phúc thật"
chính tông:
l: phải có
lòng tin vào những giá trị đạo
đức, tinh thần và trí thức
(Saddha);
2: phải giữ
năm giới căn bản của Phật tử
(Sila);
3: Thực hành
hạnh bố thí, lòng quảng đại,
không bám chặt vào của cải
(Caga);
4: Phát triển
trí tuệ trên con đường diệt khổ,
nhằm cứu cánh Niết Bàn (Panna).
Như vậy
chúng ta thấy rằng giáo lý của
Đức Phật nhằm tạo ra sự ổn định
kinh tế gia đình và từ đó đưa
đến sự ổn định và phát triển
kinh tế quốc gia mang lại hạnh
phúc cho dân chúng. Nếu giới cư
sĩ Phật Giáo chúng ta được trang
bị bằng một căn bản xã hội như
trên thì chắc chắn chúng ta có
thể đóng góp rất nhiều để mang
phúc lợi đến cho dân tộc.
Phật Giáo
không thể đứng ngoài dân tộc, do
đó, ngoài trách nhiệm tinh thần
đối với Phật Giáo, người cư sĩ
Phật Giáo còn phải có bổn phận
đối với quốc gia dân tộc, một
bổn phận nặng nề hơn, vì sự tồn
vinh của dân tộc cũng là sự tồn
vinh của Phật Giáo. Nếu chúng ta
không hiểu được điều này thì
không bao giờ có thể hiểu được
cái sinh lực Phật Giáo trong
lòng dân tộc. Điều này chứng tỏ
Phật Giáo đương nhiên là một
thực thể trong mọi hoạt động xã
hội của dân tộc. Muốn duy trì
cái sinh lực Phật Giáo này trong
lòng dân tộc, người cư sĩ Phật
Giáo phải tích cực trong nhiệm
vụ chung là xây dựng đất nước.
Đạo Phật là đạo cứu khổ. Khổ có
mặt khắp mọi nơi trên đất nước.
Cho nên, Phật Giáo Việt Nam cần
phải đi vào xã hội nhiều hơn nữa
để thể hiện tinh thần Đại Thừa.
Phật Giáo Việt Nam cần phát
triển mạnh những hoạt động từ
thiện trong xã hội như mở các
lớp học tình thương Phật Giáo,
cô nhi viện Phật Giáo, viện
dưỡng lão Phật Giáo, trạm y tế
hay nếu có khả năng, nhà thương
Phật Giáo v.v... ngoài những
việc cứu trợ thiên tai có tính
cách ngắn hạn. Chúng ta phải
quan niệm những hoạt động từ
thiện nói trên như là một con
đường tu tập, thể hiện giáo lý
từ bi của đạo Phật, chứ không
phải là phương tiện truyền đạo,
đi kiếm "linh hồn" cho Phật.
Trong thời
đại mới, người cư sĩ Phật Giáo
không có quyền chỉ biết đến tôn
giáo của mình mà còn phải mở
mang kiến thức trong những lãnh
vực khác như khoa học, xã hội
v..v.. và cả về các tôn giáo
khác, từ đó mới có thể nhận thức
đúng được giá trị của Phật Giáo,
không những trong dân tộc mà còn
cả trong cộng đồng thế giới. Để
có thể thực hiện được điều này,
chính sách giáo dục của Nhà Nước
và chương trình giáo dục của
Phật Giáo hiển nhiên giữ một vai
trò quyết định. Mục đích của
Giáo dục là giáo dục quần chúng,
mở mang dân trí. Mở mang dân trí
để Việt Nam có thể học những
kinh nghiệm lịch sử, theo kịp
những tiến bộ của nhân loại, và
giáo dục quần chúng để duy trì
tinh thần yêu nước, tạo nên căn
bản dựng nước và giữ nước, và
nhất là để gìn giữ và phát huy
nền văn hóa cổ truyền dân tộc,
coi đây như là một cách bảo tồn
phẩm cách quốc gia. Giáo dục
phải được đặt lên hàng ưu tiên
trong những quốc sách. Tại các
nước tân tiến, ngân sách quốc
gia dành cho giáo dục bao giờ
cũng chiếm một tỷ lệ đáng kể.
Trong lịch
sử Việt Nam, Phật Giáo đã giữ
một vai trò quan trọng trong
việc giáo dục quần chúng. Khi
xưa, phần lớn công việc giáo dục
quần chúng tại các làng mạc là
do các Tăng, Ni đảm nhiệm. Chùa
được coi như là một trung tâm
giáo dục của mỗi địa phương. Với
sự tiến bộ của nhân loại, vấn đề
giáo dục không còn thu hẹp trong
những chủ đề văn chương chữ
nghĩa hay đạo đức, luân lý tôn
giáo mà phải mở rộng ra nhiều bộ
môn khác. Do đó trách nhiệm giáo
dục quần chúng ngày nay nằm
trong tay chính quyền. Điều này
không có nghĩa là vai trò giáo
dục quần chúng của Phật Giáo đã
chấm dứt. Trái lại, sự đóng góp
của Phật Giáo trong nền giáo dục
đại chúng hiện nay cần thiết hơn
bao giờ hết, nhất là khi ảnh
hưởng sa đọa của những nền văn
hóa ngoại lai đang lợi dụng sự
mở mang kinh tế của nước nhà để
xâm nhập xã hội Việt Nam, gây ra
tâm trạng tôn thờ vật chất, coi
rẻ đạo đức, nguồn gốc của tham
nhũng, vị kỷ, vô lương tâm.
Hiển nhiên
là giáo dục học đường không
không đủ, vì thời gian các con
em học tại trường quá ít và
thường là để hết thì giờ vào
những môn học chung hay chuyên
môn. Cho nên, giáo dục gia đình
cũng là một phần bổ túc quan
trọng trong vấn đề giáo dục toàn
bộ con người. Trong lãnh vực
này, giới cư sĩ có thể đóng góp
rất nhiều. Đại cương thì các bậc
cha mẹ, anh chị trong gia đình
phải kiểm soát đời sống của các
em nhỏ để kịp thời ngăn chặn
những ảnh hưởng xấu do bọn người
vô lương kiếm lợi bằng cách làm
ô nhiễm đầu óc lớp trẻ qua sách
báo, phim ảnh đồi trụy, hoặc đầu
độc các em bằng ma túy, thuốc lá
hay rượu. Phụ huynh học sinh cần
đòi hỏi chính quyền ra những đạo
luật nghiêm trị những kẻ phạm
pháp trong lãnh vực đầu độc đầu
óc và thân thể lớp trẻ này. Phụ
huynh học sinh cũng phải đòi hỏi
chính quyền ra những đạo luật
ngăn cấm trẻ em vị thành niên
uống rượu, hút thuốc lá, lái xe
hơi, xe gắn máy v.v... và đưa ra
những chính sách lành mạnh hóa
xã hội, cấm nhập cảng phim ảnh,
sách báo mà nội dung có tính
cách bạo tàn hay khiêu dâm.
Người cư sĩ Phật Giáo sống trong
xã hội phải có trách nhiệm trước
những vấn nạn xã hội. Cho nên,
người cư sĩ Phật Giáo trước hết
phải tự mình làm gương cho con
em qua một lối sống lành mạnh và
đạo đức, khuyến khích con em học
những ngành hữu dụng, gia nhập
những đoàn thể để có những sinh
hoạt tập thể lành mạnh như Hướng
đạo, Gia Đình Phật Tử v.v...
Phật Giáo cũng nên góp ý cùng
chính quyền và đóng góp vào việc
thành hình một chương trình giáo
dục hợp lý. Chương trình giáo
dục nàv phải phù hợp với hoàn
cảnh lịch sử, địa lý, kinh tế
của đất nước.
Việt Nam có
nhiều vấn nạn cần phải giải
quyết. Bản Dự thảo chính trị cho
Đại Hội X vừa qua đã công nhận
Việt Nam còn những khuyết điểm
và yếu kém trong nhiều mặt của
xã hội. Việc giải quyết những
khuyết điểm và yếu kém trong xã
hội nằm trong tay Nhà Nước, vì
Nhà Nước có đủ quyền lực và
phương tiện để giải quyết, nếu
thực tâm muốn giải quyết. Lẽ dĩ
nhiên có nhiều khó khăn, nhưng
không phải là không thể giải
quyết nổi, hay ít ra cũng cải
tiến để cho tình trạng trở nên
tốt đẹp hơn. Trong đường lối
giải quyết quan trọng này, giới
cư sĩ Phật Giáo cũng nên tích
cực góp phần với Nhà Nước, không
nên phó mặc mọi trách nhiệm cho
Nhà Nước.
Trên đây
chỉ là vài ý kiến của tôi về vai
trò của cư sĩ Phật Giáo Việt Nam
trong thời đại mới. Đối với Phật
Giáo Việt Nam, tôi chỉ có một hi
vọng. Đó là, trong mục đích tìm
ra một hướng đi đích thực cho
Phật Giáo Việt Nam trong thế kỷ
21, Phật tử chúng ta, tăng cũng
như tục, hãy tích cự học hỏi để
thấu hiểu và hội nhập được những
chân lý vô ngã, vô thường của
Đức Phật, ngồi lại với nhau, xóa
bỏ những khác biệt có tính cách
cục bộ, lấp đi cái hố ngăn cách
giữa những Giáo Hội Phật Giáo ở
trong nước cũng như ở hải ngoại,
để có thể định một đường hướng
tương lai cho đạo Phật ở Việt
Nam, một đường hướng có lợi cho
dân tộc và Đạo Pháp. Tôi ước
mong các vị tôn đức trong Phật
Giáo hãy rút lấy những kinh
nghiệm trong quá khứ, nhận rõ
tình trạng Phật Giáo hiện nay,
hướng dẫn giới cư sĩ chúng tôi,
ngồi cùng với nhau để lái con
thuyền Phật Giáo Việt Nam thuận
buồm xuôi gió trên giòng chấn
hưng và phát triển Phật Giáo ở
Việt Nam. Tôi cũng hi vọng cuộc
Hội Thảo Phật Giáo này sẽ là
bước mở đầu quyết định cho tương
lai Phật Giáo ở Việt Nam.
Chú
thích
1
GSTS, Trần Chung Ngọc, Hoa Kỳ