Hòa thượng Thích Hiển Kỳ
28/03/2015 13:54 (GMT+7)


Hòa thượng Thích Hiển Kỳ (釋 顯 奇, 1863-1936) thế danh Trần Quốc Lượng 1 (陳 國 亮) tự Trần Quốc Ngởi 2  (陳 國 義), lúc ở Trung Quốc dùng tên Trần Cát Tường (陳 吉 祥), khi tu đạo Minh Sư có pháp danh Đắc Chân (得 真), Nhiên Công (然 公). Sư pháp hiệu Hiển Kỳ, sinh năm Quý Hợi (1863) niên hiệu Tự Đức thứ 17, đời Hoàng đế Dực Tông Anh triều Nguyễn, nước Việt Nam, tương ứng vào niên hiệu Đồng Trị thứ 2, đời vua Mục Tông triều Thanh, nước Trung Hoa; quê ở tại xóm Rạch Quau, huyện Cần Giuộc, tỉnh Gia Định 3 nước Việt Nam.

Hoà thượng là đệ tử nối pháp của Đại sư Cổ Hư Đế Nhàn (古 虛 諦 閑,1858-1932), thuộc thế hệ thứ 18 dòng phái Ngọ Đình (của Pháp sư Chánh Thời, 午 亭 正 時, 1564-1610), đời thứ 20 chi phái Cao Minh Tự, đời thứ 48 tông Thiên Thai chánh thống do Tổ Trí Khải sáng lập. Hiện nay, Hòa thượng được suy tôn là Sơ tổ tông Thiên Thai Giáo Quán tại Việt Nam.


Chân dung HT.Thích Hiển Kỳ - Ảnh: PG Long An

Ở tuổi niên thiếu, khoảng cuối thế kỷ thứ XIX, Hòa thượng đảnh lễ Lão sư Lưu Đạo Nguyên (tục gọi là Lưu Minh, gốc người Trung Hoa) xuất gia tu đạo Minh Sư 4,  được ban pháp danh Đắc Chân, tu học tại các Phật đường vùng Sài Gòn, Gia Định, Chợ Lớn, Thủ Dầu Một, Biên Hòa, Long An và thường theo hầu cận lão sư Lưu Đạo Nguyên cùng Tổ sư Trương Đạo Dương; sau đó được hướng dẫn về Thanh Sơn Đạo Giáo Thuần Dương Cung tại Hương Cảng, học đạo. Sau khi các vị trưởng bối liễu đạo, Hòa thượng kế thế chức trụ trì Thanh Sơn Đạo Quán. Rồi Tổ sư Đông Sơ Trương Đạo Dương 5 và Lưu Đạo Nguyên cũng thoát hóa, Hòa thượng được đại hội suy tôn lên ngôi Tổ sư, Trưởng môn phái đạo Minh Sư, Hương Cảng, Trung Quốc.

Minh Sư là Đạo tu Tiên, giáo lý pha lẫn cả 3 tôn giáo lớn là Khổng giáo, Lão giáo và Phật giáo. Do đó, Hòa thượng có điều kiện thường xem coi, đọc tụng kinh điển của đạo Phật. Nhận thấy quả vị cứu cánh của đạo Tiên không đưa đến giải thoát giác ngộ, vẫn còn thuộc trong vòng luân hồi lục đạo khổ đau; trái lại, chỉ mới là quả A-la-hán của đạo Phật mà đã dứt mọi sự sinh tử, trừ tất cả phiền não, chứng Hữu dư Niết-bàn, an vui tự tại vô ngại; huống hồ quả vị Vô dư Niết-bàn của Phật vị lại càng cao siêu, huyền diệu hơn bội phần. Cho nên Hòa thượng bắt đầu suy tư và thường lưu tâm một cách đặc biệt đến những sinh hoạt về đạo Phật. Hòa thượng thường được Pháp sư Diệu Tham 6 và cư sĩ Cao Hạc Niên 7 sách tấn, khuyến khích trở về với Phật giáo.

Sau nhiều lần đắn đo suy nghĩ, đến mùa xuân năm Nhâm Tuất (1922), Dân Quốc thứ 11, Hòa thượng đến Quán Tông Giảng Tự, núi Tứ Minh, huyện Cẩm, tỉnh Chiết Giang, đảnh lễ Đại sư Đế Nhàn 8 xin quy hướng Tam bảo. Ban đầu vào buổi chiều, Hòa thượng đọc luật Tỳ Ni Nhật Dụng, rồi được truyền trao Tam quy, và tiếp thọ Sa-di thập giới; sau cùng cung thỉnh Thập sư đăng đàn thọ Đại giới, đến sáng sớm ngày khánh đản Đức Quán Thế Âm thì viên mãn Bồ-đề Tam Tụ Tịnh Giới, được ban cho pháp danh Nhiên Công, pháp hiệu Hiển Kỳ.

Sau khi trở về Hương Cảng, Hòa thượng cải đổi Thuần Dương Cung thành Thanh Sơn thiền viện, làm vị khai sơn trụ trì đời thứ nhất. Từ đây, Hòa thượng ngày đêm tinh tu yếu chỉ Tam Quán của tông môn và chuyên trì niệm Phật theo truyền thống Thai Tịnh, được Tổ Đế Nhàn ngợi khen. Sau này, Hòa thượng khai sáng Cửu Long Đường, thuộc khu Du Ma Địa, Hương Cảng, để làm nơi chuyên tu cho những vị Tăng thích nhập thất, ẩn tu.

Năm 1924, Hòa thượng Hiển Kỳ cung thỉnh Pháp sư Phạt Khả quang lâm Thanh Sơn thiền viện, giảng kinh Lăng Nghiêm, pháp hội rất hưng thịnh, thính chúng ngồi đầy chật giảng đường. Từ năm Ất Sửu (1925), tại Hương Cảng, các lão Hòa thượng đồng ý mỗi năm luân phiên tổ chức Đại giới đàn tại các đạo tràng: chùa Bảo Liên, núi Đại Tự của Hòa thượng Phạt Khả; Thanh Sơn thiền viện, núi Thanh Sơn của Hòa thượng Hiển Kỳ; chùa Lăng Vân, núi Quan Âm của Hòa thượng Diệu Tham, ngõ hầu tiếp dẫn hậu lai, báo Phật ân đức. Bốn Hòa thượng Hiển Kỳ, Kỷ Tu 9, Quán Thanh và Diệu Tham được hàng cư sĩ tại gia và giới tử tôn xưng là “Chư Sơn Tứ Lão Bồng” (諸 山 四 老 蓬, Bốn cánh buồm của Phật giáo).

Năm Mậu Thìn (1928), Hòa thượng được cung thỉnh làm Đàn đầu Hòa thượng Đại giới đàn tại Hương Cảng. Hòa thượng Kỷ Tu làm Yết-ma A-xà-lê, Hòa thượng Phạt Khả làm Giáo thọ A-xà-lê. Tại đàn này, hai vị Tăng và một vị Ni người Việt Nam xuất gia thọ Cụ túc giới, đó là các ngài Thích Liễu Đàn, Thích Liễu Học và Thích nữ Liễu Tướng. Ni trưởng Liễu Tướng (tức Bà Thoại Tám) gọi Hòa thượng là chú ruột, là người khai sơn chùa Pháp Võ, huyện Nhà Bè, tỉnh Gia Định, Việt Nam.

Năm Tân Mùi (1931), Pháp sư Ải Đình 10 trụ trì chùa Trúc Lâm ở Trấn Giang đến Hương Cảng hóa đạo, cũng từng cư trụ ở Thanh Sơn thiền viện giảng kinh, dạy luận một thời gian khá lâu, thính chúng rất đông, đạo tràng hưng thịnh.

Năm Quý Dậu (1933), khai phương tiện giới đàn tại chùa Thanh Sơn, Hoà thượng được cung thỉnh làm Đàn đầu Hòa thượng, Pháp sư Phật Thọ làm Giáo thọ A-xà-lê, Pháp sư Tâm Sự làm Yết-ma A-xà-lê, chư Tăng trong chùa làm thất vị Tôn chứng sư và tứ vị Dẫn lễ sư. Tuy là phương tiện giới đàn, nhưng đàn tràng suốt bảy ngày đêm, truyền từ Ngũ giới cho đến Bồ-tát giới với tất cả lễ nghi phải biết của người xuất gia. Đàn này, có ba vị Tăng người Việt Nam thọ đại giới là các ngài Thích Liễu Thiền, Thích Liễu Lạc và Thích Liễu Chứng.

Năm Ất Hợi (1935), Hòa thượng được tứ chúng đồng cung thỉnh làm Yết-ma A-xà-lê tại Đại giới đàn chùa Bửu Lâm núi Phụng Hoàng, Pháp sư Kỷ Tu làm Đàn đầu Hòa thượng, Pháp sư Phạt Khả làm Giáo thọ A-xà-lê. Đàn tràng kéo dài suốt 21 ngày, Tăng Ni tứ chúng thọ giới và hộ đàn đông như mở hội. Đàn này, có một vị người Việt Nam thọ giới Cụ túc là ngài Thích Liễu Tức (1915-1978).

Hòa thượng Thích Hiển Kỳ vốn là người văn hay chữ tốt. Lúc sinh thời, ngài thường kết giao thâm tình với các danh nho, văn nhân tại Hương Cảng, họ thường đến chùa Thanh Sơn, cùng uống trà ở Hải Nguyệt Đình, ngâm vịnh thi phú. Trạng nguyên Quỳnh Sơn Lâm sưu tập văn thơ, văn sĩ Trần Bá Đào viết đề mục, làm thành Thanh Sơn thiền viện đại quán. Sách gồm có: Hiển Kỳ trụ trì sự lược; các bài ký nói về chùa Thanh Sơn; hơn 60 bài thơ của Hòa thượng Thích Hiển Kỳ, trong đó có nhiều bài có nội dung răn dạy chúng Tăng về oai nghi và những điều thiết yếu trong việc tu trì hàng ngày để có được sự an lạc, giác ngộ và giải thoát, tự tại.

Lúc tuổi đã quá thất tuần, Hòa thượng cảm thấy thân thể mỏi mệt, bèn di huấn hàng môn nhân lần cuối cùng, những việc cần làm đã làm xong; ngày đêm sáu thời, Hòa thượng chú tâm tỉnh lặng, chân không ra khỏi thất, tay không rời chuỗi hạt, miệng luôn niệm hồng danh Tây Phương tam thánh hiệu, nhất tâm bất loạn động.

Ngày 4 tháng 3 năm Bính Tý, nhằm ngày 26 tháng 3 năm 1936 dương lịch, niên hiệu Bảo Đại năm thứ 11 triều Nguyễn tại Việt Nam; tương ứng vào thời Trung Hoa Dân Quốc năm thứ 25, Hòa thượng an nhiên viên tịch tại Thanh Sơn thiền viện, Hương Cảng, hưởng thế thọ 74 tuổi, 24 hạ lạp.

Đệ tử nối pháp từ đạo Minh Sư chuyển qua đạo Phật rất nhiều, tiêu biểu như: Hòa thượng Thích Liễu Huyễn, trụ trì đời thứ 2 Thanh Sơn thiền viện. Đặc biệt có bảy vị đệ tử người Việt, có pháp hiệu chữ “Liễu” sau khi thọ giới đều đã trở về Việt Nam để hoằng pháp; do đó, công đức của Hòa thượng Hiển Kỳ rất to lớn, được tôn xưng là Sơ tổ tông Thiên Thai Giáo Quán thời hiện đại tại Việt Nam. Đó là các vị: HT.Thích Liễu Đàn (1887-1951), khai sơn chùa Pháp Hoa, huyện Mang Thít, tỉnh Vĩnh Long; HT.Thích Liễu Học (1874-1942), khai sơn chùa Pháp Giới, quận Tân Bình, tỉnh Gia Định; HT.Thích Liễu Thiền (1885-1956), khai sơn chùa Bồ Đề, huyện Cần Giuộc, tỉnh Chợ Lớn; HT.Thích Liễu Lạc (1879-1937), khai sơn chùa Pháp Minh, huyện Đức Hòa, Gia Định; HT.Thích Liễu Chứng (1883-1946), khai sơn chùa Vĩnh Long, huyện Cần Giuộc, tỉnh Chợ Lớn; HT.Thích Liễu Tức (1915-1978), trụ trì chùa Vĩnh Long, huyện Cần Giuộc, tỉnh Chợ Lớn; NT.Thích nữ Liễu Tướng (1890-1976), khai sơn chùa Pháp Võ, huyện Nhà Bè, tỉnh Gia Định 11

***

Trên đây là tiểu sử của Hòa thượng Thích Hiển Kỳ, một Tăng sĩ người Việt Nam mà lại được cung thỉnh làm Đàn đầu Hòa thượng nhiều Đại giới đàn tại Hương Cảng, Trung Hoa. Ngài kế thừa trực tiếp truyền thống tông Thiên Thai từ Tổ Cổ Hư Đế Nhàn, thuộc đời thứ 48; ngài lại truyền thừa cho bảy vị đệ tử người Việt kể trên để tân truyền tông Thiên Thai Giáo Quán vào Việt Nam thời hiện đại. Do đó, công đức của ngài quả thật là cao sâu; Giới đàn Hiển Kỳ trân trọng tôn vinh ngài là thế.

TT.Thích Tắc Phi
(Theo
Cao tăng tông Thiên Thai Trung Hoa, Nxb.Phương Đông, 2011; nxb Đồng Nai tái bản, 2012, 2 tập)

 _____________________

1 Sách Thiên Thai tông Quán tông giảng tự chí của Pháp sư Giác Quang ghi là Trần Xuân Lượng (陳 春 亮).

2 Người miền Nam Việt Nam thường nói chữ ‘Nghĩa’ thành ‘Ngởi” hay ‘Ngãi’, do kỵ húy dưới thời Nguyễn.

3 Nay là tỉnh Long An. Sách Thiên Thai tông Quán tông giảng tự chí chép Tổ Hiển Kỳ là người Trung Quốc. Khi ở Trung Quốc, có thể Tổ phải ẩn giấu tung tích, sợ kỳ thị chủng tộc, khó hành đạo.

4  Đạo Minh Sư phục hưng vào triều Minh, Trung Quốc (1368-1644), truyền bá rải rác khắp vùng Đông Á và Đông Nam Á. Sách Thiên Thai tông Quán tông giảng tự chí ghi là Đạo giáo thuộc phái Tiên Thiên (道 教 先 天 道).

5 Tổ sư Trương Đạo Dương (1835-1879) quê ở tỉnh Chiết Giang, Trung Quốc, tu hành tại động Triều Nguyên, núi La Phù, tỉnh Quảng Đông. Là một tu sĩ trẻ, nhiều lần hăng hái xuất dương ra nước ngoài hoằng đạo, nên thường đến Việt Nam. Trong niên hiệu Tự Đức, năm 1863, Tổ sư từ Thái Lan đến Hà Tiên kiến tạo Quảng Tế Phật Đường. Năm Tân Mùi (1871), tại Trung Quốc, ngài được suy tôn làm Tổ sư đời thứ 16 đạo Minh Sư, tôn hiệu Đông Sơ Tổ sư, Chưởng quản tông phái.

Sau đó, Tổ sư Đông Sơ dưới dạng lương y qua Việt Nam, xây Minh Đức Phật Đường ở Cầu Kho, tỉnh Chợ Lớn. Người Hoa, người Việt học đạo rất đông. Tổ sư trở về Quảng Đông và tịch năm Kỷ Mẹo (1879), thế thọ 44 tuổi.

6 Pháp sư Diệu Tham (妙 参, 1873-1930) họ Dung, quê ở huyện Dương Giang, tỉnh Quảng Đông. Năm 1888, đậu Tú tài; năm 1892, xuất gia với Pháp sư Đáo Hải, năm 1893 thọ giới Cụ túc với Luật sư Hạo Tịnh tại chùa Long Xương, núi Bảo Hoa, rồi nhập thất 3 năm tại chùa Giang Thiên, núi Kim Sơn, kế tiếp hành cước tham phỏng khắp nơi. Sau, Sư kiến lập chùa Viên Thông và đạo tràng Tử Trúc Lâm tại núi Quán Âm, Hương Cảng. Năm 1925, Sư làm Giám viện hợp cùng trụ trì Pháp sư Kỷ Tu tận lực kiến tạo chùa Bảo Liên. Năm 1930, Sư tịch thế thọ 68 tuổi, tăng lạp 37 năm.

7 Cao Hạc Niên (高 鶴 年, 1872- ?) tên thật Hằng Tùng, quê ở huyện Hưng Hóa, tỉnh Giang Tô. Lúc nhỏ, ông nhờ học đạo mà hiểu biết được sinh tử là việc lớn, nên phát nguyện đi tham học với những vị tri thức ở khắp các tỉnh thành Trung Quốc, rồi đến trú tại núi Kê Túc, tỉnh Vân Nam. Năm 1921, ông sửa ngôi nhà của mình làm thành Viện Trinh Tiết Tịnh Độ An Lão. Năm 1911, do các huyện ở miền Bắc tỉnh Giang Tô, Trung Quốc thường bị hạn hán, đất ruộng ngập nước mặn, nạn châu chấu, nhất là hạn hán năm 1929 kéo dài, nên ông lập ra 10 trại thí cháo để giúp đỡ dân nghèo. Đến năm 1948, ông ẩn tu trong núi Chung Nam.

8 Tổ sư Đế Nhàn (諦 閑) xem đầy đủ tiểu sử trong Cao tăng tông Thiên Thai Trung Hoa.

9 Pháp sư Kỷ Tu (紀 修, ? -1938): quê huyện Tứ Ấp, tỉnh Quảng Đông, ước chừng sanh năm 1860. Trong niên hiệu Quang Tự (1875-1908), Sư vào núi Đơn Hà, tỉnh Quảng Đông xuất gia; thọ giới cụ túc ở chùa Hoa Đảnh Đài, núi La Phù. Năm 1908, Sư tham phỏng nhiều danh sơn, đại sát khắp vùng Giang Nam. Năm 1914, Sư dừng chân ở chùa Giang Thiên, núi Kim Sơn, Trấn Giang, chuyên tu mật hạnh. Năm 1938, Sư viên tịch ở chùa Bảo Liên, thế thọ khoảng hơn 70 tuổi, trà tỳ được một ly nhỏ xá-lợi màu đen huyền.

10 Pháp sư Ải Đình (靄 亭, 1893-1947): họ Ngô, quê ở huyện Thái, Giang Tô. Sư xuất gia với ngài Văn Tâm; năm 1914, học Đại học Hoa Nghiêm ở Thượng Hải. Năm 1928, Sư sáng lập Phật học viện Trúc Lâm ở Trấn Giang. Năm 1932, thành lập Đông Liên Giác Uyển và thư viện Phật giáo, lưu thông kinh sách, phát hành tạp chí Nhân Hải Đăng. Sau, Sư sáng lập và cổ xúy phong trào trường học miễn phí ở Cửu Long, Ma Cau. Năm 1947, Sư tịch, hưởng dương 55 tuổi.

11 Thời bấy giờ, vùng Cần Giuộc, Cần Đước thuộc tỉnh Chợ Lớn; vùng Đức Hòa, Nhà Bè thuộc tỉnh Gia Định.

Các tin đã đăng: