Nhận định về trang sử Đại Việt, nhà thơ Hồ Dzếnh đã viết:
“Trang sử Phật
Đồng thời là trang sử Việt
Trải bao độ hưng suy
Có nguy mà chẳng mất.”
Điều này nói lên rằng,
đạo Phật liên hệ mật thiết đến sự tồn vong của dòng sinh mệnh Việt Nam.
Trong đó, Phật giáo thời Trần, với sự ra đời của thiền phái Trúc Lâm Yên
Tử - một thiền phái mang đậm bản sắc của Phật giáo Việt Nam, của văn
hóa dân tộc Việt Nam - là một điểm son trong lịch sử dân tộc.
Đây là giai đoạn thống
nhất tư tưởng của các thiền phái, xây dựng mẫu người Phật giáo lý tưởng,
hình thành hệ tư tưởng “Cư trần lạc đạo”, như là bản tuyên ngôn của con
đường sống đạo.
Ở đây chúng tôi dựa vào
tác phẩm Khóa hư lục của Trần Thái Tông, Cư trần lạc đạo của Trần Nhân
Tông, Phật tâm ca của Tuệ Trung Thượng Sĩ để làm sáng tỏ hình ảnh con
người Đại Việt trong xã hội Lý - Trần, mong sao có thể góp một phần nhỏ
vào việc tìm hiểu về tinh thần thiền học Trúc Lâm, cũng như những đóng
góp của dòng thiền này cho Phật giáo nói riêng và trong dòng chảy của
lịch sử nước nhà nói chung.
Phật giáo Lý-Trần xây dựng Phật giáo nhất tông
Nhờ sự phát triển của
mười thế kỉ trước nên khi đất nước độc lập, Phật giáo Việt Nam càng có
điều kiện phát triển mạnh mẽ hơn. Phật giáo lúc này không chỉ ảnh hưởng
to lớn trong đời sống tâm linh, đời sống văn hóa của dân tộc mà còn chi
phối đến chính trị, xã hội, v.v…
Lúc này, các vương triều
phong kiến cần tìm chỗ dựa vững chắc về ý thức hệ – một công cụ tinh
thần để quản lí và xây dựng đất nước – mà Phật giáo lúc này có một thế
lực mạnh và có một lực lượng quần chúng đáng kể; nhiều nhà sư am hiểu
nhiều ngôn ngữ, thông suốt Tam tạng kinh điển, nhiều Tăng Ni, Phật tử đã
tham gia vào việc giải phóng dân tộc, nên việc các vương triều Việt Nam
bấy giờ chọn đạo Phật làm quốc giáo cũng là lẽ đương nhiên.
Phật giáo thời này không
chỉ bó hẹp trong nhà chùa, lo truyền đạo, chăm sóc đời sống tâm linh cho
con người mà còn đóng góp nhiều công sức trong công cuộc dựng nước và
giữ nước. Lúc đầu các thiền sư đời Lý trực tiếp tham dự chính sự, tiếp
sứ thần ngoại bang (như thiền sư Pháp Thuận và Vạn Hạnh thuộc thiền phái
Tỳ-ni-đa-lưu-chi, thiền sư Ngô Chân Lưu thuộc thiền phái Vô Ngôn Thông,
v.v…).
Về sau, vì các vua đời Lý
so với các vua thời Đinh, Lê thì giỏi hơn rất nhiều về phương diện học
thức, sự sùng Phật của họ có tính cách tâm linh và trí thức lớn, trong
triều đã xuất hiện nhiều người có Nho học, trong số này có nhiều người
do các thiền sư đào tạo, cho nên các thiền sư chỉ đóng góp về phương
diện chỉ đạo tinh thần mà khỏi phải trực tiếp làm những việc tiếp sứ,
thảo chiếu dụ và văn thư, v.v…
Việc vua Trần Thái Tông
lên ngôi báu khai sáng ra triều đại nhà Trần là đáp ứng nhu cầu cấp
thiết của đất nước lúc bấy giờ. Một là thâu giang sơn về một mối, thống
nhất từ trong ý chí thể hiện qua hành động. Hai là trên dưới đồng lòng
cùng nhau xây dựng phát triển đất nước thịnh vượng và bảo vệ vững chắc
các thành quả đạt được.
Ngoài việc thực hiện hai
mục tiêu đề ra, Trần Thái Tông còn đặt ra cho mình một nhiệm vụ hết sức
trọng đại: chủ trương đặt nền móng thống nhất các thiền phái hiện có như
Tỳ-ni-đa-lưu-chi, Vô Ngôn Thông, Thảo Đường tiến đến sát nhập và hình
thành dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử duy nhất đời Trần.
Sự kiện ra đời dòng thiền
này có ý nghĩa rất lớn, nó đáp ứng nhu cầu lịch sử của dân tộc là xây
dựng một đất nước Đại Việt độc lập tự chủ, không chỉ được xác định trên
cương thổ biên giới mà còn độc lập tự chủ trên mọi lĩnh vực chính trị,
kinh tế, văn hóa và ngay cả tôn giáo.
Thế nên, dù trong cương
vị là Hoàng đế hay là Thái thượng hoàng, hay là Thiền sư, ngài luôn khát
khao thiết lập dòng thiền mới mang tính cách Đại Việt và thật phù hợp
với bối cảnh lịch sử dân tộc đã sang trang và tình hình phát triển đất
nước Đại Việt.
Thực tế, tư tưởng lập
thiền phái mới này được manh nha từ khi Phật giáo có chủ trương mới,
nhập thế, tùy tục, tùy duyên nhưng bất biến để đáp ứng nhu cầu lịch sử
dân tộc đặt ra của một đất nước vừa độc lập và đang thực hiện thống nhất
trên mọi phương diện.
Là ông vua đầu tiên nhà
Trần, dưới cái nhìn của một nhà chính trị, Trần Thái Tông càng cương
quyết thực hiện ý tưởng đó, chấp nhận lời khuyên của Quốc sư Phù Vân như
là quan điểm chính trị, phục vụ đạo pháp và dân tộc: “phàm làm đấng quân nhân thì phải lấy ý muốn thiên hạ làm ý muốn của mình, lấy tâm thiên hạ làm tâm của mình”, thì ý tưởng thống nhất các thiền phái thành Phật giáo nhất tông là điều tiên quyết đối với sứ mệnh quốc gia và đạo pháp.
Dưới ảnh hưởng lớn lao
của Trần Thái Tông, ba thiền phái Tỳ-ni-đa-lưu-chi, Vô Ngôn Thông, Thảo
Đường đã theo thời gian lịch sử dần dần sát nhập. Cũng chính hướng đi
này, về sau, Tuệ Trung Thượng Sĩ, Trần Nhân Tông đã khai mở dòng thiền
Trúc Lâm Yên Tử phát triển, đi vào lòng dân tộc, một dòng thiền không
chỉ tiếp thu tinh hoa quá khứ mà còn tổng hợp được những cống hiến của
thời đại mình.
Tại đây, chúng ta có thể
nói, nội dung tư tưởng triết lý của Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử đều dựa
vào Khóa hư lục như là một nền tảng để các vị Tổ dòng thiền này lấy đó
làm kim chỉ nam sáng lập và truyền thừa. Nếu Trần Thái Tông là người
manh nha kết cấu, đặt nền tảng, thì Trần Nhân Tông là người đầu tiên làm
cho Thiền phái Trúc Lâm thăng hoa, sống mãi với thời gian, không gian
trên mảnh đất Việt Nam thân thương này.
Triều Lý trải qua tám đời
vua, ngôi truyền hơn 200 năm. Với cái nhìn khách quan lịch sử trong
tiến trình dựng nước và giữ nước lúc thịnh cũng như trên đà suy vong của
triều đại nhà Lý, để rồi phải trao vận mệnh quốc gia cho nhà Trần,
chúng ta thấy rằng ngoài sức mạnh toàn dân, thì vai trò của các ông vua
đối với thần dân qua các triều đại là vô cùng quan trọng đối với xã hội
phong kiến.
Hình ảnh con người Đại Việt trong xã hội Lý-Trần
Quan điểm Phật tại tâm
Tư tưởng chủ đạo của Phật
giáo Trúc Lâm là “cư trần lạc đạo”, “tức tâm tức Phật”. Quan niệm này
đã có mặt từ thời vua Trần Thái Tông, khi nhà vua bỏ ngai vàng vào núi
để tìm Đạo và được Quốc sư Viên Chứng thức tỉnh: “Trong núi vốn không có
Phật. Phật chỉ có ở trong tâm. Tâm lặng mà biết thì đó đích thị là
Phật”, và ít nhiều Trần Nhân Tông cũng đã kế thừa được từ Tuệ Trung
Thượng Sĩ, một con người vĩ đại mà Trần Nhân Tông đã ca ngợi:
“Càng nhìn càng cao
Càng khoan càng bền
Thoạt nhìn thấy trước
Bỗng phía sau liền
Đó chính đạo Thiền
Của riêng Thượng sĩ”.
Đó là tiền đề để sau này
khi dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử ra đời đã có những đóng góp tích cực cho
đất nước, đã giải quyết được những vấn đề thực tiễn của xã hội, giúp
nhân dân Đại Việt lúc ấy sống vui vẻ trong đất nước mình, hăng say lao
động và bảo vệ cuộc sống ấy.
Các thiền sư giai đoạn
này đã có ý thức đi tìm một hướng đi mới cho Phật giáo. Kết quả, thiền
phái Thảo Đường, Trúc Lâm ra đời, giới xuất gia không còn đóng khung
hoạt động trong ngôi chùa, họ cũng kết hợp với Phật tử tham gia công tác
xã hội. Cuộc sống của giới xuất gia từ đây nặng tính thế tục.
Chủ trương tùy tục hình
thành và đi vào đời sống thực tiễn. Tùy tục là sống theo với đời mà vẫn
giác ngộ. Rõ ràng, Phật giáo là cuộc sống, không có sự phân biệt bất cứ
thành phần nào trong xã hội.
Vấn đề cốt lõi đời sống
Phật giáo, theo nếp sống thiền là cần phải xử lý tâm “biện tâm”: “mạc
vấn đại ẩn tiểu ẩn, hưu biệt tại gia xuất gia, bất câu tăng tục, chỉ yếu
biện tâm” (chẳng ở nơi thành thị, phố phường đông đúc, chẳng phải nơi
khu rừng ẩn dật, không phân biệt tại gia xuất gia, chẳng nề tăng tục,
chỉ cốt tỏ lòng).
Đây chính là quan điểm mà
Trần Thái Tông đã đề xuất trong Thiền tông chỉ nam. Con người có thể
giác ngộ ngay trong đời sống thường nhật của mình:
“Bụt ở trong nhà
Chẳng phải tìm xa
Nhân khuấy bản nên ta tìm Bụt
Đến cốc hay Bụt chỉn là ta”. [1]
(Trần Nhân Tông, Cư trần lạc đạo phú, hội thứ 5)
Hay là:
“Tâm tức là Phật,…
niệm tức là bụi trần, không vướng một mảy may, niệm trần vốn tịnh, nên
nói như như bất động tức là thân Phật. Thân Phật tức là thân ta, không
có hai tướng” (Trần Thái Tông, Niệm Phật luận).
Như vậy, giác ngộ hay
không giác ngộ là tự mỗi bản thân con người, vì tự họ có khả năng giác
ngộ. Chính trên cơ sở lý luận ấy mà tư tưởng “ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ
tâm” mới có thể xuất hiện. Và cũng chính trên cơ sở lý luận ấy mà quan
điểm chính trị lấy ý muốn của thiên hạ làm ý muốn của mình, lấy tấm lòng
của thiên hạ làm tấm lòng của mình mới có khả năng triển khai, thực
hiện.
Xuất phát từ một cơ sở lí
luận như thế, vua Trần Thái Tông mới viết một loạt các tác phẩm lý luận
nhắm đến cho tất cả mọi người chứ không chỉ dành riêng cho một thành
phần ưu đãi nào của xã hội hay Phật giáo, đó là Phổ thuyết tứ sơn, Phổ
thuyết sắc thân, Phổ khuyến phát bồ-đề tâm và Phổ thuyết hướng thượng
nhất lộ.
Từ đó, chúng ta không
ngạc nhiên gì khi Trần Nhân Tông xây dựng chủ thuyết cư trần lạc đạo, tư
tưởng ở đời mà vui với đạo, càng làm sáng tỏ tinh thần tùy duyên để con
người an trú với đạo:
“Mình ngồi thành thị
Nết dụng sơn lâm”. (hội thứ nhất)
Ta có thể hiểu đời là
thành thị, đạo là sơn lâm. Tuy vậy, cuộc sống thực tiễn cho thấy, một
người dù ở thành thị gánh vác bao nhiêu việc đời, song họ biết xử lý
công việc với lòng trong sạch chẳng khác gì ở núi rừng. Đây chính là
quan điểm “chẳng phải đại ẩn, tiểu ẩn, không phân biệt tại gia xuất
gia”. Người Phật tử Đại Việt thời Trần chỉ tùy duyên, tùy thuận vào mối
liên hệ, phân công của xã hội theo khả năng của mình mà thể hiện đời
sống đạo bằng cách:
“Dứt trừ nhân ngã
Thì ra thực tướng Kim-cương
Dừng hết tham sân
Mới làu lòng mầu Viên giác”. (hội thứ hai)
Như vậy, không có vấn đề phải tìm một nơi nào khác ngoài chỗ mình đang sống để tìm ra sự giác ngộ:
“Miễn được lòng rồi
Chẳng còn phép khác”. (hội thứ hai)
Thế đã rõ, đối với Trần
Nhân Tông, Phật giáo là cuộc sống, không có sự cách ly phân biệt, bởi vì
Phật giáo là gì nếu không phải đó là một quá trình đi tìm chân lý. Mà
chân lý thì không nằm trong Phật giáo, mà nằm chính ngay ở giữa lòng
cuộc sống. Quan điểm ấy được gói gọn ở đoạn kết của bài phú Cư trần lạc
đạo:
“Ở đời vui đạo hãy tùy duyên
Đói cứ ăn đi mệt ngủ liền
Trong nhà có báu thôi tìm kiếm
Đối cảnh vô tâm, chớ hỏi thiền”.
Từ đó, Trần Nhân Tông cho rằng không phải đến núi Cánh Diều của Yên Tử hay tại am Sạn của Đông sơn mà có sự giác ngộ:
“Áng tư tài tính sáng chẳng tham
Há vì ở Cánh Diều Yên Tử
Răn thanh sắc niềm dừng chẳng chuyển
Lọ chi ngồi am Sạn non Đông”.[2]
Những danh lam thắng cảnh
ấy chỉ để cho ta chiêm ngưỡng vẻ đẹp của non sông mà tu tâm dưỡng tính,
chứ sự giác ngộ hiện hữu ngay giữa đời. Đây cũng chính là chủ trương
“hòa quang đồng trần” mà Tuệ Trung Thượng Sĩ đã đề ra, tức là phải nhập
cuộc với đời sống trần tục và phải làm cho đời luôn tươi sáng. Con người
không cần đi tìm Phật ở đâu xa, Phật hiện hữu ngay trong tâm thức mình,
chỉ cần lặng lòng mà biết:
“Mày ngang mũi dọc cũng như nhau
Phật với chúng sinh không khác mặt”.[3]
Cho nên, Tuệ Trung Thượng
Sĩ đã hát ca về Phật giữa trần thế, Phật với ta chẳng khác gì trong
thực tại đời thường. Con người thật của chúng ta là Phật, còn con người
mà chúng ta tưởng thật với cái tâm vọng động của tham, sân, si là con
người giả. Mỗi người cần trở về với con người thật. Đó là giá trị nhân
sinh cao ngất mà Tuệ Trung và các thiền sư Trúc Lâm nhìn nhận như là một
lời giải đáp tại sao chúng ta hiện hữu trên đời này.
Với quan điểm về Phật tại
tâm như thế sẽ cung cấp cho con người một lý tưởng sống đẹp, cao quý đủ
để tạo một cảm hứng sáng tạo vươn lên, không những cho một đời mà nhiều
đời, thậm chí cho đến khi mỗi con người đều trở thành một vị Phật. Sự
thành Phật ở đây lại không khác gì là nhận chân con người thật của chính
mình ngay chính cõi lòng.
Rõ ràng, Tuệ Trung đã
muốn tuyên thuyết thông điệp thiền “bất lập văn tự, giáo ngoại biệt
truyền, trực chỉ nhân tâm, kiến tánh thành Phật”:
“Phật Phật Phật bất khả kiến
Tâm tâm tâm bất khả thuyết”.
(Phật Phật Phật không thể thấy được
Tâm tâm tâm không thể nói được)
(Phật tâm ca)
Phật và tâm, phàm phu và bậc Thánh chỉ là khái niệm giả danh trên ngôn từ chữ nghĩa của tư duy hữu ngã phân biệt:
“Xưa không có tâm
Nay không có Phật
Phàm, thánh, người, trời nhanh như chớp giật
Tâm thể không phải cũng không trái
Phật tính không hư cũng không thực”
(Phật tâm ca)
Vén bức màn vô minh để
trở về thực tại là tâm ý của Tuệ Trung muốn khai mở tâm thức người học
thiền. Theo ông, suối nguồn hạnh phúc không phải được định chế trên cái
tâm thường xuyên hay sinh diệt thường tình mà thực sự an lạc khi biết
hướng tâm vào thực tại:
“Tâm là Phật
Phật là tâm
Tính huyền diệu thì sáng, linh và thông suốt xưa nay
Mùa xuân tới, hoa xuân cười
Mùa thu về, không chỗ nào là nước thu không sâu”
Tâm Phật và tâm chúng
sanh đâu có sai khác, bởi một điều đơn giản, ai cũng hiểu rằng Phật là
người đã chứng ngộ nhờ công phu tự thân tu tập. Chúng sanh ai cũng thế
thôi! An nhiên vui đạo mà sống, xuân về thì hoa nở, thu đến nước lại
trong, có gì để bận tâm đâu. Đây là nếp sống bình thường tâm thị đạo mà
Tuệ Trung khẳng khái hát ca về ông Phật của chính mình.
Con người giác ngộ với những phẩm hạnh cao cả
Nếu văn học Phật giáo đời
Lý khi đề cập đến hình ảnh con người, dù là con người vô ngã, vô úy,
v.v… đi nữa, chỉ gợi chứ ít khả tả, thì đến văn học Phật giáo thời Trần,
nhất là tác phẩm Khóa hư lục của Trần Thái Tông đã sử dụng bút pháp tả
thực để mô tả con người từ hình thể bên ngoài đến nội dung bên trong.
Lần đầu tiên trong lịch
sử văn học Phật giáo nước nhà, Trần Thái Tông lấy con người từ trong
hiện thực cuộc sống làm đối tượng để khắc họa nên hình ảnh con người.
Con người trong Khóa hư lục là con người được hóa hiện từ cuộc sống trần
tục của nó từ tính chất đói ăn khát uống, yêu ghét buồn vui, đến sự đắm
chìm trong các dục, v.v…
Tất cả được mô tả như là
một hiện tượng thẩm mỹ, có sự vận động tâm linh đa chiều luôn diễn biến
không ngừng. Hình ảnh con người được xác lập như là một chủ thể, một
nhân vật trung tâm với xác thân bị giới hạn được đề cập và nhìn nhận từ
nhiều khía cạnh khác nhau ở trong tác phẩm. Trong ý nghĩa đó, con người
thấy những giới hạn, khuyết tật của chính mình để vượt thoát, an trú
trong đời sống hạnh phúc.
Con người giác ngộ trong
Khóa hư lục được bắt nguồn từ khát vọng của Trần Thái Tông muốn lên núi
Yên Tử tu hành để làm Phật. Đọc Khóa hư lục, chúng ta thấy Trần Thái
Tông xác lập con người là con người “kiến tính”: “phàm người học đạo,
chỉ cần thấy tính” (Tọa thiền luận). Còn trong bài Phổ khuyến bồ đề tâm
văn, ông viết: “do thấy ánh sáng trí tuệ, phản chiếu lại mình thấy được
tính mà thành Phật”.
Con người muốn thấy được
tính thì phải tự thân hành trì, không thể trông cậy vào ai. Rõ ràng, con
người giác ngộ là con người tự tìm lại chính mình. Phật và chúng sanh
không khác. Trong bài Niệm Phật luận, Trần Thái Tông khẳng định: “thân
ta tức thân Phật, không có hai tướng”. Ý tưởng đó sau này được Tuệ Trung
diễn dịch “khi mê không biết ta là Phật” trong Thượng sĩ ngữ lục; còn
Trần Nhân Tông thì “nhân khuấy bản nên ta tìm Bụt, đến cốc hay chỉn Bụt
là ta” trong Cư trần lạc đạo phú.
Sinh mệnh con người rốt
cuộc chỉ “mệnh tựa ngọn đèn trước gió, thân như bọt nước đầu ghềnh”.
Cuộc đời thật mong manh, đầy mộng mị, con người cần giáp mặt, vượt
thoát. Ngay cả công danh phú quý chỉ là giấc mộng dài. Ai thấu hiểu nỗi
lòng tác giả khi chính mình từng vượt thoát, bước ra khỏi sự mộng mị của
cuộc đời.
Chính lẽ đó, nhà vua
không dưới mười hai lần mô tả về giấc mộng “vô thường” trong tác phẩm
Khóa hư lục, tiêu biểu như: “công danh lừng lẫy, chẳng qua một giấc mộng
dài; phú quý hơn người, khó tránh hai chữ vô thường”[4].
Nhờ nhận chân cuộc đời là
mộng, tâm thức con người mở rộng vô cùng, độ lượng hết thảy. Nhờ triết
lý ấy mà Trần Thái Tông tỉnh thức, trở thành bậc vĩ nhân, thành vị minh
quân của quốc gia, thành ngọn đuốc của Thiền tông, xem tính mạng như
lông hồng, xem ngai vàng như chiếc giày rách, miễn sao ích nước lợi nhà.
Phải chăng con người giác
ngộ là con người tự do ra vào thế giới vô thường ảo ảnh; họ là con
người ung dung tự tại đi bất cứ nơi nào họ muốn: “nay ta vì các
ngươi không ngại miệng hùm vuốt râu, đầu gậy tiến bước. Nơi nơi gió táp
thông reo, lặng nơi trăng chiếu hồ trong. Lúc đi như mây bay nước chảy.
Khi đứng như núi yên non trấn. Lời lời như Thích-ca sống, câu câu thái
độ Đạt-ma Tổ sư. Phóng đi thì mở ra tám chữ, thu lại thì một cửa hết
lối; trong hang quỷ ma là lâu đài Di-lặc, dưới núi tối có cảnh giới
không khách của Phổ Hiền. Nơi nơi tạng lớn sáng rực, chân tính là pháp
môn không hai”[5].
Như vậy, Trần Thái Tông
đã trở thành con người biểu tượng thời đại, và để vươn tới thế giới tự
do ấy, con người cần phải vượt qua tất cả giáo điều, tất cả khái niệm,
lối tư duy hữu ngã sáo mòn, thay vào đó là thái độ sống vô trước, vô
chấp. Con người đó sẽ liễu đạt “tâm tức là Phật, không cần tu thêm gì
cả”.
Tuệ Trung Thượng Sĩ đã
từng tiêu dao, phóng cuồng trong cái thế giới vô thường. Trong ảo mộng
phù du, cấu bẩn của xác thân, con người tự chuyển hóa thanh tịnh cõi
lòng, vì thế, Tuệ Trung mới xác định “thanh tịnh pháp thân” chính là “ra vào trong nước đái trâu, chui rúc giữa đống phân ngựa.”
Rõ ràng, có sự đồng điệu
giữa những con người giác ngộ. Từ ý niệm “trong ảo sắc cũng là chân sắc,
nơi phàm thân cũng là pháp thân”, Trần Thái Tông đã ung dung cất lên
tiếng cười trào lộng của tâm hồn khai phóng “Tăng già nói dối an rồi đó,
cười ngất người ngoài chẳng tự hay”[6] (Niệm tụng kệ).
Đó cũng chính là hình ảnh
con người vô ngã bước ra từ thế giới thực tại duyên khởi, thể nhập với
đời. Thẩm thấu triết lý vô ngã trong sự hiện hữu của con người, mỗi cá
thể sẽ có thái độ sống vô chấp, nên đâu đâu cũng là thế giới chân tâm
thanh tịnh.
Bên cạnh đó, qua Khóa hư lục,
chúng ta còn thấy hiện lên con người giác ngộ với những cảm nhận về cái
đẹp. Cảm hứng nghệ thuật trong Khóa hư lục về thế giới con người thật
đẹp đẽ, hoành tráng, thiêng liêng nhưng cũng đượm chất cô liêu huyền ảo,
khắc sâu vào tận cõi lòng.
Thế giới sáng tạo được
khai mở tột cùng làm tuôn chảy những dòng suối thi ca. Bằng chất liệu
thiên nhiên, ngôn ngữ của một tâm hồn chứng ngộ, bài pháp Tứ diệu đế khô
khan đã hóa thành bài văn diễm lệ với hình ảnh sống động, con người hữu
tình. Hình ảnh bốn núi được khắc họa bằng bốn mùa trong năm sinh động
vô cùng.
Thông qua sự miêu tả từng
mùa, tâm trạng con người được thể hiện với bao sắc màu tương ứng. Con
người dường như cảm nhận cái đẹp từ trong hiện hữu cuộc sống với bốn mùa
đổi thay. Đọc mấy câu miêu tả về mùa xuân, biểu tượng cho sinh, lòng ta
như tràn trề sức sống mới: “một trời sáng đẹp, xóm thôn liễu biếc đào
hồng, muôn dặm phong quang, chốn chốn oanh ca bướm múa”[7].
Ý tứ thâm trầm, lời văn
óng mượt đọc lên nghe như phảng phất một hương thơm kì diệu, thanh thoát
vô cùng. Thiên nhiên như hòa điệu với thế giới nội tâm con người. Điều
này chúng ta chỉ có thể tìm thấy ở những tâm hồn chứng ngộ, mà Trần Thái
Tông, Tuệ Trung Thượng Sĩ và Trần Nhân Tông là những con người điển
hình ấy vậy.
Con người nhập thế (đóng góp cho xã hội)
Phật giáo Đại Việt với
nền Phật giáo thế sự, lấy chủ trương tùy tục để nhập thế. Và quan điểm
vào đời ấy tùy thời, tùy yêu cầu từng giai đoạn lịch sử giao phó mà Phật
giáo tham gia đóng góp cho nước nhà. Nó trở thành sợi chỉ đỏ xuyên suốt
cho đường lối thiền phái hoạt động, từ đó và sau này:
“Trần tục mà nên, phúc ấy càng yêu hết tấc
Sơn lâm chẳng cốc, họa kia thực cả đồ công”[8]
(Hội thứ 3)
Chính tư tưởng tu hành và
giác ngộ ngay giữa trần tục đã hình thành nên mẫu người Phật tử biết
đem đạo ứng dụng vào đời. Chính Trần Thái Tông là người sống trong thế
giới sặc mùi danh lợi, thế mà ông vẫn giải thoát và lãnh đạo nhân dân
thắng lợi cuộc chiến chống quân Nguyên lần thứ nhất và cũng là người chủ
trương đặt nền móng cho thiền phái Trúc Lâm ra đời.
Không chỉ Trần Thái Tông
mà một loạt thiền sư xuất gia tại gia của giai đoạn này đều tích cực
tham gia vào các hoạt động của đời sống kinh tế, chính trị của đất nước.
Họ có thể là những nhà tư tưởng chiến lược, tướng cầm quân, nhà tri
thức lớn, nhà thơ-văn, thầy thuốc tùy theo sự phân công và khả năng mà
sẵn lòng tham gia cống hiến, sống đúng đạo lý như Trần Nhân Tông nói
trong Cư trần lạc đạo:
“Sạch giới lòng, chùi giới tướng, nội ngoại nên Bồ-tát trang nghiêm
Ngay thờ chúa, thảo thờ cha, đi đỗ mới trượng phu trung hiếu”[9]
(Hội thứ 6)
Hình tượng này là tiêu
biểu cho mẫu người Đại Việt nói chung, chứ không phải riêng gì cho Phật
giáo. Những người làm nên sự nghiệp hào hùng của dân tộc ta vào thời này
hầu hết là Phật tử.
Điển hình cho mẫu người
lý tưởng này là Tuệ Trung Thượng Sĩ. Ông có thái độ sống nhập thế tích
cực vì dân vì nước chứ không riêng vì sự giải thoát của mình. Ông trở
thành vị tướng tài có công trong cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông,
đồng thời cũng là thiền sư ngộ đạo thể hiện rõ sự tự tại, giải thoát.
Vận dụng tinh thần nhập
thế của thiền phái, Trần Thánh Tông cùng Trần Nhân Tông làm nên điều kỳ
tích là lãnh đạo thành công hai cuộc chiến đấu vệ quốc xảy ra năm 1285
và 1287. Quan điểm đoàn kết thân dân chỉ thực hiện được khi mọi người
dân cùng chung một quyền lợi và nghĩa vụ với người lãnh đạo đất nước.
Trần Hưng Đạo viết Hịch tướng sĩ để cụ thể hóa vấn đề đó với toàn bộ tướng tá binh sĩ dưới trướng của mình. Còn Trần Nhân Tông thì với chủ thuyết Cư trần lạc đạo, hướng đến việc xây dựng mẫu người Phật tử nhằm bảo vệ và chấn hưng đất nước.
Mỗi khi sự tồn tại quyền
lợi của người này là điều kiện, nhân tố cho quyền lợi người kia thì tất
cả đồng phát triển. Từ đó, mọi người dân hiểu yêu nước là yêu đạo, yêu
gia đình là yêu cha mẹ, bà con, yêu mối tình vợ chồng, con cái trẻ thơ;
yêu mộ phần tổ tiên là yêu hồn thiêng sông nước.
Vì vậy, thiền phái Trúc
Lâm nhập thế tích cực hơn nữa. Sau thời kỳ Bắc thuộc, Đại Việt không
ngừng vạch định chính sách phát triển đất nước bằng cách mở rộng bờ cõi.
Đến đời Trần, yêu cầu phát triển kinh tế, phục hưng các giá trị văn
hóa, việc gia tăng dân số trong thời bình trở nên vấn đề hàng đầu.
Hơn nữa, công cuộc chấn
hưng đất nước đòi hỏi phải thực hiện việc tái thiết các công trình văn
hóa bị kẻ thù tàn phá. Dưới tác động của chủ trương xây dựng mẫu người
Phật tử lý tưởng, người dân sẽ tích cực tái thiết.
Cư trần lạc đạo phú, Trần Nhân Tông đã nói rõ việc tái thiết quốc gia đó thật sinh động “Dựng cầu đò, giồi chiền tháp, ngoại trang nghiêm sự tướng hãy tu”[10] (Hội thứ 8).
Bên cạnh đó, Trần Nhân
Tông còn khuyến cáo người dân hãy tinh tấn rèn lòng làm Bụt như là sự
thăng tiến đạo đức bằng nhiều phương thức để giác ngộ:
“Rèn lòng làm Bụt, chỉn xá tua một sức dồi mài
Đãi cát kén vàng, còn lại nhiều phen lựa lọc”
(Hội thứ 8)
Và còn nhiều phương thức
khác nữa mà Trần Nhân Tông đã dành cả “hội thứ 9” để trình bày từ thời
Sơ tổ Đạt-ma gặp vua Lương Vũ Đế cho đến Thiền sư Linh Vân Chí Cẩn khi
thấy hoa đào nở rộ mà giác ngộ, đại sư Hương Nghiêm khi cuốc đất, hòn đá
văng vào cây trúc mà liễu đạo.
Cho nên Trần Nhân Tông nói cách thức giác ngộ có khác nhau nhưng chân lý là một:
“Vậy cho hay
Cơ quan tổ giáo
Tuy khác nhau nhiều đàng
Chẳng mấy tấc gang”[11]
(Hội thứ 9)
Sống ở đời mà vui với đạo
theo vua Trần Nhân Tông là cuộc sống thiền. Đã là thiền thì tùy duyên,
tùy căn, tùy thời mà sống với đạo. Đó là tìm sự giác ngộ ngay giữa đời
thường mà tích cực đóng góp cho đời cho đạo:
“Thượng tướng ấy
Cốc một chân không
Dùng đòi căn khí
Nhân lòng dạ vướng chấp khôn thông
Há cơ tổ này còn thửa bí
Chúng tiểu thừa cốc hay chửa đến, Bụt xá ngăn bảo sở hóa thành
Đấng thượng sĩ chứng thực mà nên, ai ghẽ có sơn lâm thành thị”[12]
(Hội thứ 12)
Vậy là thiền phái Trúc
Lâm với tinh thần nhập thế đã góp phần giải quyết một loạt vấn đề đặt ra
cho Phật giáo Đại Việt, đáp ứng các nhu cầu đòi hỏi của dân tộc. Sau
thời Trần Nhân Tông, Phật giáo còn tích cực nhập thế với những nhiệm vụ
mới mà lịch sử giao phó.
Như vậy, dòng thiền Trúc
Lâm do vua Trần Nhân Tông thành lập đã có những tác động to lớn đối với
lịch sử dân tộc và Phật giáo, được kế thừa liên tục thậm chí cho đến
ngày nay.
Nó không những làm nền
tảng cho sự phát triển phật giáo Việt Nam mấy trăm năm tiếp theo mà còn
tạo tiền đề cho sự nghiệp Nam tiến của dân tộc trong mấy trăm năm ấy.
Đây không những là dòng thiền do một người Việt Nam sáng lập mang đậm
văn hóa và tinh thần của người Việt Nam, mà còn có những đặc điểm về học
lý và thực tiễn tu tập nhằm đáp ứng lại yêu cầu phát triển của lịch sử
dân tộc.
Một thiền phái thừa hưởng
tinh hoa của ba dòng thiền, thống nhất ý chí toàn dân, góp phần xây
dựng đất nước Đại Việt hòa bình thịnh vượng. Một thời đại anh dũng chiến
thắng ngoại xâm với ý thức dân tộc cao ngất nhưng lại lấy Thiền tông
làm chỗ dựa tinh thần. Mà sự kết hợp giữa hai yếu tố này – yêu nước và
mộ thiền – đã tạo nên những thành tựu văn hóa lớn lao in đậm vào lịch
sử.
Đây là bài học quý báu
cho Phật giáo Việt Nam hiện tại. Chúng ta cần phải phát huy tinh thần
“nhập thế tích cực”, xây dựng một mẫu người mô phạm lý tưởng để làm thân
giáo cho tăng ni tín đồ.
Tuy nhiên, chúng ta cũng
không thể đem nguyên mô hình của phật giáo Trúc Lâm để áp dụng cho xã
hội ngày nay, mà phải biết thừa hưởng có sáng tạo tư tưởng “Cư trần lạc
đạo”, “tức tâm tức Phật”, có như thế mới mang lại sức sống mới cho Phật
giáo, tạo cho Phật giáo một thế đứng vững chắc giữa lòng xã hội.
------------------------------------------------------
[1] Viện văn học, Thơ văn Lý-Trần, tập 2, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1989, tr. 506.
[2] Viện văn học, Sđd, tr. 506.
[3] Viện văn học, Sđd, tr. 285.
[4] Viện văn học, Sđd, tr. 62.
[5] Nguyễn Đăng Thục, Thiền học Trần Thái Tông, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội, 1996, tr. 221-222.
[6] Viện văn học, Thơ văn Lý-Trần, sđd, tr. 139.
[7] Viện văn học, Thơ văn Lý-Trần, sđd, tr. 45.
[8] Viện văn học, Sđd, tr. 506.
[9] Viện văn học, Sđd, tr. 507.
[10] Viện văn học, Sđd, tr. 508.
[11] Viện văn học, Sđd, tr. 508.
[12] Viện văn học, Sđd, tr. 509.
Theo: Tập san Pháp luân