Vua Đinh ghi dấu lần đầu tiên
trong lịch sử Việt Nam, vua lập chức Tăng thống Phật giáo (người đứng
đầu giáo hội) và đặt chức quan Tăng lục. Động thái này, Đại Việt sử ký
toàn thư ghi: “Năm Thái bình thứ hai (971) bắt đầu quy định cấp bậc
văn, võ, tăng đạo… Tăng thống Ngô Chân Lưu được ban hiệu là Khuông Việt
đại sư, Trương Ma Ni làm Tăng lục…”. |
Đại sư Ngô Chân Lưu là tăng tài xuất chúng, được
phong làm quốc sư – thày của vua. Sang thời tiền Lê và thời Lý, đại sư
Khuông Việt tiếp tục làm Tăng Thống và quốc sư, tham dự triều chính.
Việc Khuông Việt thiền sư khuông phò nước Việt qua 3 triều đại: Đinh,
Lê, Lý là tinh thần dân tộc rất đặc thù của Phật giáo Việt Nam: phục vụ
đất nước, phục vụ nhân dân vì đất nước, vì nhân dân, mà không phải phục
vụ quyền lợi riêng một dòng họ, triều đình. Tinh thần khoáng đạt này
khác với tinh thần “trung thần bất sự nhị quân” (tôi trung không thờ hai
chúa) của nhà Nho.
Về Lý Công Uẩn, Đại Việt Sử Ký Bản Kỷ
Toàn Thư ghi: “Họ Lý, tên húy là Công Uẩn, người châu Cổ Pháp (Bắc Hà)
Bắc Giang, mẹ họ Phạm,…, sinh ngày 12 tháng 2 năm Giáp Tuất, niên hiệu
Thái Bình thứ năm (974), thời Đinh. Lớn lên làm quan nhà Lê, thăng đến
chức Điện Tiền Chỉ Huy Sứ. Khi Ngọa triều băng, tự lập làm vua, đóng đô ở
thành Thăng Long. Ở ngôi 18 năm (1010 - 1028), thọ 55 tuổi (974 -
1028), băng ở điện Long An, táng ở Thọ Lăng. Vua ứng mệnh trời, thuận
lòng người, nhân thời mở vận, là người khoan thứ, nhân từ, tinh tế hòa
nhã, có lượng đế vương”.
_______________
Về sư Vạn Hạnh, Việt Nam Phật giáo Sử
Luận ghi:
“Thiền sư Vạn Hạnh là một bậc đàn em của sư
Pháp Thuận, nhưng cũng đã cùng Pháp Thuận phù tá vua Lê Đại Hành. Vạn
Hạnh, mà sau này được nhà Lý tôn xưng quốc sư, rất giỏi về chính trị và
đã sử dụng sấm vĩ một cách tài tình trong cuộc cách mạng bất bạo động
đưa Lý Công Uẩn lên ngôi vua”. | Có
hai điều kiện để xác định sự hưng thịnh của Phật giáo gắn với sự hưng
thịnh của đất nước: có các vua giỏi, có các thiền sư giỏi nhưng với điều
kiện cấp lãnh đạo tiếp thu giáo lý và thực hành giáo lý. Giáo lý của
đạo Phật không duy trì cái ngã và vô úy. Không duy trì cái ngã, đã vô úy
thì ắt can đảm, dũng cảm. Sức mạnh đến từ đó, sức mạnh không phải ai
đem đến ban tặng. Thời nào cũng vậy, tư duy của người trí tuệ là không
muốn bị lệ thuộc, muốn được độc lập trong tương quan, tự chủ trong tương
quan. Đại Việt sử ký toàn thư và Việt Nam Phật giáo sử luận cho biết:
Lý Công Uẩn là vị vua sùng Phật, chịu sự ảnh hưởng giáo dục từ sư Lý
Khánh Văn và sư Vạn Hạnh từ năm lên ba tuổi. Vua được đào tạo tư tưởng,
giáo lý đạo Phật từ nhỏ. Quốc sư Vạn Hạnh là thầy dạy học và dạy đạo của
Lý Công Uẩn. Về mối quan hệ này, Đại Việt sử ký toàn thư viết: “Vua
sinh ra mới ba tuổi, mẹ ẵm đến nhà Lý Khánh Văn, Khánh Văn bèn nhận làm
con nuôi. Bé đã thông minh, vẻ người tuấn tú khác thường. Lúc còn nhỏ
đi học, nhà sư ở chùa Lục Tổ là Vạn Hạnh thấy, khen rằng “đứa bé này
không phải là người thường, sau này lớn lên ắt có thể giải nguy gỡ rối,
làm bậc minh chủ trong thiên hạ”.
Được sự vận động ngầm của các thiền sư, Lý Công Uẩn
Thân vệ lên ngôi hoàng đế năm 1010, hiệu là Lý Thái Tổ, mở ra cơ nghiệp
nhà Lý. Theo Đại việt sử ký toàn thư, Vạn Hạnh bảo Lý Công Uẩn rằng: “Mới
rồi, tôi thấy chữ bùa sấm kỳ lạ, biết họ Lý cường thịnh, tất dấy lên cơ
nghiệp. Nay xem trong thiên hạ người họ Lý rất nhiều, nhưng không ai
bằng Thân Vệ là người khoan thứ, nhân từ, được lòng dân, lại đang nắm
binh giữ quyền trong tay, đứng đầu muôn dân chẳng phải Thân Vệ thì còn
ai nữa”.
Bằng tài đa văn quảng kiến, một lòng vì nước, chính
thiền sư Vạn Hạnh đã thuyết phục được nhà Vua xuống chiếu dời đô từ Hoa
Lư ra Đại La – Thăng Long. Sư Vạn Hạnh, không chỉ được biết đến là một
thiền sư lỗi lạc còn được biết đến như một nhà phong thủy, dịch lý thời
danh. Việt Nam Phật giáo sử luận, Nguyễn Lang ghi: “Ta có nhiều lý
do để tin rằng Quốc sư Vạn Hạnh, thầy của Lý Công Uẩn, là người đã
thuyết phục vua này dời đô từ Hoa Lư ra Thăng Long trong ý nguyện bảo vệ
cho nền độc lập lâu dài…”. Tầm nhìn của Quốc sư Vạn Hạnh là rất
lớn. Lý Nhân Tông (1072 -1127) đã ca ngợi: “Vạn Hạnh dung tam tế/
Chân phù cổ sấm ky/ Hương quan danh Cổ Pháp/ Trụ tích trấn vương kỳ”,
dịch là: “Vạn Hạnh thông rõ ba đời (quá khứ, hiện tại, tương lai)/ Ngữ
ngôn phù hợp muôn lời sấm xưa/ Quê hương Cổ Pháp bây giờ/ Dựng cây tích
trượng, kinh đô vững bền”.
Quốc sư Vạn Hạnh là hình ảnh tiêu biểu về những gì mà
Phật giáo Việt Nam và một tu sỹ Phật giáo Việt Nam đã đóng góp cho dân
tộc.
Năm 1010, vua Lý Thái Tổ tự tay viết chiếu dời đô
truyền khắp thiên hạ rằng:
“Xưa nhà Thương đến vua Bàn Canh năm lần dời đô;
nhà Chu đến vua Thành Vương cũng ba lần dời đô. Phải đâu các vua thời
Tam đại theo ý riêng mình mà tự tiện chuyển dời? Chỉ vì muốn đóng đô ở
nơi trung tâm, mưu toan nghiệp lớn, tính kế muôn đời cho con cháu; trên
vâng mệnh trời, dưới theo ý dân, nếu thấy thuận tiện thì thay đổi. Cho
nên vận nước lâu dài, phong tục phồn thịnh. Thế mà hai nhà Đinh, Lê lại
theo ý riêng mình, khinh thường mệnh trời, không theo dấu cũ của Thương,
Chu, cứ đóng yên đô thành ở nơi đây, khiến cho triều đại không được lâu
bền, số vận ngắn ngủi, trăm họ phải hao tổn, muôn vật không được thích
nghi. Trẫm rất đau xót về việc đó, không thể không dời đổi.
Huống gì thành Đại La, kinh đô cũ của Cao Vương: ở
vào nơi trung tâm của trời đất; được cái thế rồng cuộn, hổ ngồi. Đã
đúng ngôi Nam Bắc Đông Tây; lại trên hướng nhìn sông dựa núi. Địa thế
rộng mà bằng; đất đai cao mà thoáng. Dân cư khỏi chịu cái cảnh khốn khổ
ngập lụt; muôn vật cũng rất mực phong phú tốt tươi. Xem khắp đất Việt
ta, chỉ nơi này là thắng địa. Thật là chốn tụ hội trọng yếu của bốn
phương đất nước; cũng là nơi kinh đô bậc nhất của đế vương muôn đời.
Trẫm muốn dựa vào sự thuận lợi của đất ấy để định
chỗ ở. Các khanh nghĩ thế nào?”
Lý Công Uẩn được giáo dục ở nhà chùa từ thuở nhỏ,
dưới sự chăm sóc nuôi dạy của thiền sư Lý Khánh Văn và Vạn Hạnh, bản tâm
thấm nhuần giáo lý trí tuệ, từ bi, vô ngã, vị tha và vô úy của Phật
giáo, đã tự mình đặt nền móng vững chắc cho thời kỳ độc lập, tự chủ của
dân tộc song hành với chủ trương phát huy văn hóa Phật giáo, có tầm nhìn
rộng và xa về lịch sử, thời đại. Quyết định dời đô về thành Đại La
(Thăng Long – Hà Nội) vì sự vững bền của đất nước, đã truyền vào lịch sử
dân tộc một sức sống mãnh liệt của trí tuệ, từ bi và tinh thần độc lập,
tự chủ, bất khuất. Trí tuệ ấy, tinh thần ấy là sức mạnh của Bắc thắng
Tống, Nam bình Chiêm; cũng chính là sức mạnh của ba lần đại phá quân
Nguyên Mông, đánh sụp quân Minh, Thanh; sức mạnh của chiến thắng xâm
lược Pháp, Mỹ... Trí tuệ ấy, tinh thần ấy đã mở ra một nghìn năm lịch sử
Thăng Long – Hà Nội, thủ đô của hòa bình, ánh sáng của xã hội chủ nghĩa
Việt Nam bây giờ: Thăng Long là ý nghĩa hưng khởi của đất nước, hưng
khởi sức mạnh của dân tộc, của hồn thiêng đất nước. (Còn nữa) |
Hòa thượng Thích Chơn Thiện
(Người Đại biểu nhân dân)