Vừa lên ngôi, Lý Thái Tổ đã có kế hoạch đưa đạo Phật
vào cuộc sống, thiết lập nền văn hóa Việt Nam. Song song với công việc
triều chính, vua hạ chỉ cho lập chùa, chú tượng, đúc chuông, thỉnh kinh,
chép kinh, xây tàng kinh các (cất giữ Đại tạng kinh), cổ súy thanh niên
ưu tú của Thăng Long xuất gia đầu Phật. Đại Việt sử ký toàn thư ghi:“Năm
1010, vua cho dựng tám chùa ở phủ Thiên Đức, lại trùng tu chùa quán ở
các lộ và độ cho làm Tăng hơn nghìn người”…;
Lý Thái Tông, con trưởng của Lý Thái Tổ tiếp nối cha,
ngộ Phật lý rất sâu. Vẫn còn lại một sáng tác ghi cuộc đàm đạo giữa Lý
Thái Tông với các đại thiền sư về tâm của Phật, của Tổ: “Bát Nhã
chân vô tông/ Nhân không ngã diệc không/ Quá hiện vị lai Phật/ Pháp tánh
bản tương đồng” (nghĩa là: Tông chỉ của Bát Nhã vốn là “Không
Tánh”/ Người và ta đều là “Không Tánh”/ Chư Phật quá khứ,
hiện tại, vị lai/ Cùng một pháp tánh “Không Tánh” ấy).
Qua đây, có thể hình dung ra tri kiến Phật học của
Lý Thái Tông. Với sở kiến của Thái Tông, Phật là pháp tánh “Không
Tánh”. Chúng sinh cũng vậy. Tri kiến này phù hợp với giáo lý Bắc
truyền và Nam truyền của Phật giáo thế giới hiện đại, Kinh tạng Pàli
Nikàya ghi: “Ai thấy pháp là thấy Duyên Khởi; ai thấy Duyên Khởi là thấy
pháp; ai thấy pháp là thấy Phật, ai thấy Phật là thấy pháp”.
Cái thấy ấy là cái thấy của trí tuệ rất huyền, là
thông tuệ của Thái Tông mà các nhà Nho đương thời và về sau không rõ
được. Chính sự thông tuệ ấy đã soi sáng việc triều, việc nước!
Từ Lý Thái Tổ đến Lý Thái Tông đã cho hai lần thỉnh
kinh và thỉnh đủ hai đại tạng, ba lần chép kinh là đã có 5 đại tạng, xây
tàng kinh các để chứa kinh. Đại việt sử ký toàn thư ghi:
“Năm 1029,…, xuống chiếu độ dân trong nước làm
Tăng. Mùa thu, tháng 9, năm 1020, Nguyễn Đạo Thanh đi sứ về xin được
kinh Phật Tam Tạng; xuống chiếu ban Tăng Thống Phí Trí sang Quảng Châu
đón”...;
“Năm 1023, mùa thu, tháng 9, xuống chiếu chép
Kinh Tam tạng để ở kho Đại Hưng”…;
“Mùa đông, tháng 10 năm 1041 vua (Lý Thái Tông)
ngự đến núi Tiên Du xem làm Viện Từ Thị Thiên Phúc. Khi về xuống chiếu
phát 7.560 cân đồng trong kho để đúc tượng Phật Di Lặc và hai tượng Bồ
Tát Hải Thanh và Công đức cùng chuông để ở viện ấy”.
Nhà vua làm thế không đơn thuần do mộ Phật, đáp
nghĩa các sư. Mà đây là cách thiết lập nền văn hóa Phật giáo Việt Nam
theo ý đồ của Vua Việt Nam và thiền sư Việt Nam để độc lập và đề kháng
với văn hóa phương Bắc vốn nặng màu Khổng, Lão, để nuôi dưỡng tinh thần
tự chủ, tự lực, tự cường của dân tộc. Ngôi chùa là một trung tâm văn hóa
của cư dân, của cộng đồng. Chùa là nơi quy tụ quần chúng và phát triển
tín ngưỡng, nuôi dưỡng từ bi, trí tuệ, nuôi sống tâm linh con người. Chế
độ làng xã, văn hóa làng xã gắn liền với văn hóa chùa chiền được hình
thành từ dụng ý đầy công phu như vậy. Thời Lý, có lúc cả ngàn thanh niên
đi tu để giữ chùa và để giữ văn hóa ... Đức Phật nói: “Ta là Phật đã
thành, các ngươi là Phật sẽ thành”, đi theo Phật là để trở thành Phật –
tinh thần này là vận dụng để hưng khởi, để dân tộc đứng dậy, không phải
cúi đầu trước thế lực nào, tạo thành sức mạnh dân tộc.
Ngôn ngữ của đạo Phật là ngôn ngữ trí tuệ và ngôn ngữ
của tâm lý. Việc xây chùa, chú tượng, đúc chuông, thỉnh kinh, chép
kinh, xây tàng kinh các, cổ súy thanh niên Thăng Long xuất gia đầu Phật –
bậc minh quân muốn mở trí tuệ, mở tầm nhìn... Dấu ấn và thái độ của
người đứng đầu đất nước với Phật giáo rất rõ, là chủ trương chính trị
kết hợp với chủ trương văn hóa. Chủ trương này vốn đã được đại đế A Dục
của xứ Ấn thành công từ Thế kỷ thứ III trước Công nguyên. Đại đế A Dục
dùng giáo lý đạo Phật để làm chính trị, để xóa hận thù và khổ đau do
chiến tranh. Ý thức lãnh đạo đất nước không phải bằng khí giới mà bằng
giáo lý và tình thương của Lý Thái Tổ và các vua đời Lý – là ý thức của
các nhà lãnh đạo chính trị.
Có một ngôi chùa rất nhỏ nhưng chứa đựng triết lý sâu
sắc, được xây dựng vào đời thứ hai của nhà Lý: chùa Một Cột. Đại
việt sử ký toàn thư ghi: “Mùa đông 1049, dựng chùa Diên Hựu (Một Cột)”.
Diên Hựu – có nghĩa là dài lâu. Một Cột – được hiểu là thống nhất một
mối nhưng tương quan. Chùa Việt Nam thật lạ - một cột, cây đàn của Việt
Nam thật lạ - đàn bầu một dây mà ra muôn điệu. Tư duy của Việt Nam cũng
lạ. Một là tất cả. Triết lý được biểu hiện hình ảnh cụ thể, qua kiến
trúc thống nhất và vẫn đa sắc màu, đa dạng và dị biệt. Chùa Một Cột là
dấu ấn vật thể gắn bó với nghìn năm, gắn với triết lý Việt Nam, với tư
duy của bậc cao minh trị quốc thời Lý.
Tiếp nối Lý Thái Tổ, Lý Thái Tông, đời thứ ba của
triều Lý – Lý Thánh Tông cũng mang đậm dấu ấn Phật giáo. Vua là một
thiền sư, là tổ thứ hai của phái Thảo đường Việt Nam. Đại Việt sử ký
toàn thư cho biết:
“Mùa hạ, tháng 4 (1056), làm chùa Sùng Khánh Báo
Thiên, phát 1 vạn 2 nghìn cân đồng để đúc chuông lớn. Vua thân hành làm
bài minh”.
“Mùa xuân, tháng giêng (1057), xây bảo tháp Đại
Thắng Tự Thiên cao vài chục trượng (12 tầng), tức là tháp Báo Thiên”.
“Mùa đông, tháng 12 (1057), làm hai chùa Thiên
Phúc và Thiên Thọ. Đúc hai tượng Phạn Vương và Đế Thích bằng vàng để
phụng thờ (triều Trần làm lễ yết chùa tại hai chùa này)”.
Trí tuệ Phật giáo của Thánh Tông biểu hiện ra việc
hành xử, lãnh đạo đã đưa đất nước đến gần điểm cực thịnh (để sau đó đến
Lý Nhân Tông đưa đất nước vào thời cực hưng thịnh). Việc đúc chuông, chú
tượng, xây chùa tháp là tiếp tục xây dựng văn hóa, đạo đức riêng cho
Việt Nam, để ổn định nhân tâm, củng cố đoàn kết, gây dựng mạnh mẽ ý thức
độc lập, tự chủ của dân tộc, mà không đơn thuần là việc làm tín ngưỡng.
Và như vậy, chùa Một Cột, tháp Báo Thiên, Văn Miếu –
Quốc tử giám đều được xây dựng ở triều đại nhà Lý, là những công trình
kiến trúc quý giá vẫn hiện hữu cho đến ngày hôm nay. Trường Đại học đầu
tiên của Việt Nam được xây dựng năm 1049 (nếu so sánh với Hoa Kỳ, thì
thấy rất lâu sau mới có Trường Đại học đầu tiên của Hoa Kỳ, Đại học đầu
tiên của Hoa Kỳ được mở năm 1804). Nhưng thiết nghĩ, giá trị cao hơn
những công trình kiến trúc ấy là những giá trị của ý nghĩa vô ngã, từ
bi, trí tuệ và thiền định mà các công trình ấy nói lên. Giá trị trừu
tượng nhưng tích cực, thiết thực và cụ thể. Tiếng chuông chùa đánh lên
không phải vật chất, nó mang hồn Phật giáo, hồn kinh kệ và chuyên chở
theo hồn tư tưởng. Nhận xét chung về triều Lý, Gs Hoàng Xuân Hãn đánh
giá: “Đời Lý có thể gọi là đời thuần từ nhất trong lịch sử nước ta. Đó
chính là ảnh hưởng của đạo Phật”.
Thời Lý, các danh tăng Phật giáo có nhiều, sau Khuông
Việt, Pháp Thuận, Vạn Hạnh là thiền sư Huệ Sinh, Mãn Giác, Không Lộ...
Các thiền sư đều chứng ngộ sự thật về khổ, vô thường, vô ngã – một nguồn
giáo lý hưng khởi, trí tuệ, từ bi và vô úy, sức mạnh tâm lý và tinh
thần được phát huy cao độ. Thiền sư Không Lộ, cái tên của thiền sư:
Không Lộ - con đường vô ngã, tánh không - đã nói với thời đại nhiều điều
và đó là sở đắc của các thiền sư Việt Nam: “Hữu thời trực thượng cô
phong đỉnh/ Trường Khiếu nhất thanh hàn thái hư” (Có lúc lên tận đỉnh
núi cao/ Kêu dài một tiếng lạnh không gian). Chính cái sở đắc, cái
tâm, tuệ vô ngã ấy đã làm cóng lạnh đoàn quân xâm lược hung hãn Nguyên
Mông. Vô ngã làm cóng lạnh thế giới hữu ngã. Tinh thần vô úy của đạo
Phật thổi hồn vào tinh thần dân tộc, làm bốc cháy tinh thần dân tộc, tạo
thành sức mạnh dân tộc. Các vua đời Lý, một số đại thần, tướng quân và
các danh tăng là các nhân tố chính của sức mạnh tinh thần, sức mạnh
chính trị và sức mạnh văn hóa. Bởi vậy, ở đời Lý: Phật giáo là của dân
tộc và dân tộc là của Phật giáo. Đấy là hai tên gọi của một thực thể
Việt Nam. (Còn nữa)