|
Tượng thiền sư Từ Đạo Hạnh - Ảnh: Internet |
1. Trong trường kỳ lịch sử Việt Nam, danh nhân thiền sư Từ
Đạo Hạnh (?- 1117) là một trong những hiện tượng văn hóa chứa đựng
nhiều điều nghịch lý:
- Ông là người có một tiểu sử minh bạch, có tên húy
(Từ Lộ), tên cha (Từ Vinh), tên mẹ (Tăng Thị Loan) và quê hương bản
quán rõ ràng (hương Yên Lãng, nay thuộc phường Láng Thượng, quận Đống
Đa- Hà Nội). Ấy thế mà rồi ông được tôn vinh vào hàng Thánh, thánh Láng,
thánh Từ Đạo Hạnh, có phép thần thông rồi thác sinh làm vua Lý Thần
Tông (1128- 1138), sau còn là hậu thân Lê Thần Tông (1619- 1643)
-
Hành trạng của ông sớm được văn bản hóa trong sử sách (An Nam chí
lược, 1333, Thiền uyển tập anh, 1337, Việt điện u
linh, 1329, Đại Việt sử ký toàn thư, 1479 và những bia ký
khác) song đồng thời vẫn luôn luôn được thêu dệt, huyền thoại hóa, cổ
tích hóa, dân gian hóa...
- Từ điểm nhìn địa- văn hóa có thể nhấn
mạnh thêm, gắn với tên tuổi và cuộc đời hành đạo của ông, cả vùng quê
sinh (chùa Láng- Chiêu Thiền tự) và nơi qua đời (chùa Thầy- Thiên Phúc
tự) đều là thắng tích, di tích lịch sử lớn của đất nước. Đó cũng là
những nơi tổ chức nhiều lễ hội, hội chùa, trò diễn sự tích, thơ ca đề
vịnh và đi vào tục ngữ, ca dao:
- Hạn hán xuống
thăm cha,
Mồng bảy tháng ba lên thăm mẹ.
-
Nhớ ngày mồng bảy tháng ba,
Trở vào hội Láng, trở ra hội
Thầy...
Và thêm nữa, Chủ tịch Hồ Chí Minh (1890- 1969) đều
đã đến thăm cả hai di tích này. Vào ngày 4 tết Bính Tuất (tức 5- 2-
1946), Người đã về chùa Láng khai mạc chợ phiên của nhân dân ngoại thành
Hà Nội ủng hộ Nam Bộ chống Pháp. Trong thời kỳ đầu kháng chiến chống
Pháp, Người đã ba lần đến thăm và làm việc tại chùa Bối Am, tục gọi chùa
Một Mái, là một điểm trong quần thể di tích chùa Thầy.
Tất cả
những điều nói trên đặt ra yêu cầu cần đi sâu khảo sát, lý giải hiện
tượng văn hóa Từ Đạo Hạnh liên quan với hai di tích lịch sử quan trọng:
chúa Láng- chùa Thầy.
2. Cả hai nơi chùa Láng và
chùa Thầy đều giống nhau một điểm là thờ Từ Đạo Hạnh và thờ cả Lý Thần
Tông.
Sách Đại Nam nhất thống chí chép về chùa Chiêu
Thiền: “Ở trại Yên Lãng, huyện Vĩnh Thuận, là chỗ Từ Đạo Hạnh tu luyện
thường ngày. Nay trong chùa thờ Từ Đạo Hạnh, lại thờ Lý Thần Tông. Chùa
có hòm gỗ chứa sách Phạn bằng lá đồng là di tích xưa”, đồng thời ghi về
chùa Thiên Phúc: “Ở chân núi Sài Sơn, huyện Yên Sơn, xưa gọi là am Hương
Hải, lại gọi là viện Bồ Đà. Trong chùa, phía tả thờ tượng thiền sư họ
Từ, phía hữu thờ tượng vua Lý Thần Tông, ở giữa thờ tượng Phật”. Gắn nối
với những sự kiện được ghi trong sách Thiền uyển tập anh thì
biết rằng thiền sư Tà Đạo Hạnh sinh ra và hành đạo chủ yếu ở địa bàn
chùa Láng. Xét đoạn dẫn: “Vua thuận theo lời tâu của Sùng Hiền hầu. Sư
bèn đi ngay đến phủ đệ của Sùng Hiền hầu, vào thẳng nơi phu nhân đang
tắm mà nhìn. Phu nhân tức giận nói lại với chồng. Nhưng Sùng Hiền hầu đã
biết trước nên không căn vặn gì”. Điều này phải chăng đã hé lộ khả năng
nhà sư đã thực hiện một thủ thuật “chữa bệnh” như thế nào đó cho vợ
Sùng Hiền hầu. Thêm nữa, các tài liệu đều xác nhận chùa Thầy- Thiên Phúc
tự là nơi sư “trút xác”. Vậy có phải chùa Thầy là nơi sư tu tập nhiều
năm hay chỉ đến trụ trì sau sự kiện “chữa bệnh” cho vợ Sùng Hiền hầu và
ngay thời gian bà sinh con thì sư “trút xác” tại miền non cao này? Xin
đặt một dấu hỏi ở đây về cái chết khá bí ẩn cũng như mối quan hệ đáng
ngờ giữa Từ Đạo Hạnh và hậu thân của ngài là Dương Hoán Lý Thần Tông?
Song dù thế nào thì hiển nhiên mối quan hệ Từ Đạo Hạnh- Lý Thần Tông và
hai vùng đất thiêng chùa Láng- chùa Thầy đã gắn liền như một chỉnh thể
văn hóa- lịch sử thống nhất, vừa huyền ảo vừa tiềm ẩn một khả năng đầy
tính hiện thực nào đó.
3. Xem xét riêng ở phạm
vi chùa Láng có thể thấy thiền sư Từ Đạo Hạnh đã tạo nên một vùng quang
phổ văn hóa rộng lớn. Trước hết, đó là sự hiện diện điểm di tích chùa
Láng gắn liền với tên tuổi nhà sư, một nơi còn để lại nhiều bia ký, một
ngôi chùa qua nhiều lần trùng tu đến nay vẫn tồn tại cả quần thể kiến
trúc tọa lạc giữa khoảng đất rộng, còn nhiều bóng cổ thụ, hài hòa với
không gian và cảnh quan thiên nhiên.
|
Chùa Láng - Ảnh: chuaviet.com.vn |
Bân cạnh chùa Láng được coi là trung tâm lại đã
hình thành cả một tiểu vùng văn hóa Láng với nhiều đền miếu, chùa
chiền, trải dọc theo bờ sông Tô Lịch. Đó là chùa Nền tương truyền chính
là nền nhà của Từ Đạo Hạnh, chùa Hoa Lăng (xưa còn gọi Ba Lăng) là nơi
thờ phụ mẫu vốn rất nổi tiếng “Nam thiên tích tự hiện Ba Lăng, nhất
phương thắng cảnh, thiên cổ danh lam” (Nơi trời Nam có chùa Ba
Lăng, thắng cảnh một phương, danh lam ngàn đời”. Điều đáng chú ý là chùa
Ba Lăng chính là nơi bà Tăng Thị Loan từng đến tu, dựng xây chùa và qua
đời, sau được vua Lý Thần Tông xuất tiền tôn tạo, tạc tượng phối thờ
quan Đô sát Từ Vinh (cha), bà Tăng Thị Loan (mẹ) và chính Từ Đạo Hạnh.
Thực tế này càng chứng tỏ ngờ vực về mối quan hệ Từ Đạo Hạnh- Lý Thần
Tông trên kia là có cơ sở. Về sau này, vua Lý Anh Tông (1138- 1175) cho
mở mang chùa Láng phối thờ cả Từ Đạo Hạnh và Lý Thần Tông. Hàng năm, đến
ngày giỗ thánh 7 tháng 3 âm lịch, nhân dân mở hội Láng rước thánh từ
chùa Láng qua sông Tô Lịch lên chùa Hoa Lăng thăm mẹ. Lời tục truyền “Hạn
hán xuống thăm cha, mùng 7 tháng ba lên thăm mẹ” chính là nói về
sự kiện này.
Cách chùa Láng khoảng vài ba cây số còn có chùa Duệ
Tú (thuộc thôn Tiền, xã Dịch Vọng, huyện Từ Liêm, phủ Quốc Oai trấn Sơn
Tây, nay thuộc địa phận quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội). Nơi đây thờ
thiền sư Đại Điên, người có tên tục là Lê Nghĩa, có cha là Lê Hưng, mẹ
là Nguyễn Thị Phan, Trong sách Thiền uyển tập anh và một số
nguồn tư liệu khác cho rằng Từ Đạo Hạnh đối nghịch với Đại Điên và ông
chính là hậu thân Điều Ngự Giác Hoàng, vậy mà ông lại được dân làng
trọng vọng, được lập làm thành hoàng, được các triều đại phong kiến sắc
phong và ban thêm mỹ tự Huệ Trí đại vương. Thêm nữa, cũng vào ngày 7
tháng ba hàng năm, dân làng vẫn mở hội chùa và dẫn lại sự tích thiền sư.
Như vậy, cái nhìn hiện thực cho thấy một hình ảnh sư Đại Điên pháp
thuật tài ba, được tôn trọng, kính thờ, còn tư duy huyền thoại in đậm
sắc màu Mật tông lại cho thấy một pháp sư Đại Điên đối lập và chịu thất
bại trước thiền sư Từ Đạo Hạnh. Dẫu sao, ông cũng là nhân vật lịch sử có
quan hệ chặt chẽ với Từ Đạo Hạnh và góp phần tạo nên truyền thuyết
trong cả một hệ thống văn hóa dọc bờ sông Tô.
4.
Từ chùa Láng đi khoảng 20 km là đến chùa Thầy. Chùa được xây dựng vào
thời Lý Nhân Tông (1072- 1127). Theo thuyết phong thủy thì núi Sài là
con rồng lẻ đàn, nhà chùa được dựng vào giữa hàm rồng, sân chùa là lưỡi
rồng, Thủy Đình là Ngọc, còn núi non xung quanh là rùa, phượng chầu về.
|
Chùa Thầy - Ảnh: cad.vn |
Mặc dù sử sách cổ không miêu tả thật rõ nhưng
vẫn có thể tính đến hai khả năng về thời gian sư Từ Đạo Hạnh đến tu tập,
hoặc ngài đến từ sớm, từng dạy học, hái thuốc giúp dân và tổ chức những
trò vui như đánh vật, đá cầu, hát chèo, múa rối nước, hoặc ngài đến đây
vào khoảng cuối đời gần với sự kiện “thác sinh” thành Lý Thần Tông. Dù
thế nào thì ngài vẫn được kính thờ, đặc biệt trở nên kỳ vĩ với huyền
tích ở hang Thánh Hóa, nơi vách hang đá có những vết lõm tượng hình như
vết đầu, vết chân và vết tay mà thiền sư tì vào lúc trút xác. Với uy
vọng ấy, chùa ngài tu được gọi là chùa Thầy, núi ngài hóa là núi Thầy,
làng ngài sống là làng Thầy, tất cả hợp thành một không gian văn hóa in
đậm dấu ấn danh nhân Từ Đạo Hạnh.
Dân gian có câu “Nhất vui
là hội chùa Thầy”. Lễ hội ngày 7 tháng ba diễn ra hết sức sôi động,
đặc biệt có biểu diễn trò múa rối nước ở nhà Thủy Đình giữa hồ Long
Trì. Theo khảo sát của một số nhà nghiên cứu, thiền sư Từ Đạo Hạnh đồng
thời còn là một nghệ sĩ chèo và có những đóng góp quan trọng trong bước
đi ban đầu của bộ môn nghệ thuật sân khấu dân tộc đặc sắc này. Qua thời
gian tám, chín thế kỷ, vùng quê chùa Thầy lại góp thêm nhiều tên tuổi
danh nhân, góp thêm nhiều trang thơ ca đề vịnh, góp phần làm sáng danh
hình tượng danh nhân văn hóa Từ Đạo Hạnh và cảnh quan thắng tích chùa
Thầy.
5. Danh nhân văn hóa- thiền sư- nhà thơ Từ
Đạo Hạnh là người đã tạo lập và xác định vững chắc mối quan hệ chùa
Láng, chùa Thầy, góp phần mở mang, phát triển vùng văn hóa phía Tây Hà
Nội, mở ra chiều hướng giao lưu sinh động cho vùng đệm văn hóa Hà Nội-
Hà Tây. Có thể nói thêm rằng hiện tượng danh nhân văn hóa Từ Đạo Hạnh đã
có nhiều khúc xạ qua thời gian và không gian, trong đó tàng trữ nhiều
yếu tố của Phật- Nho và Đạo giáo, đồng thời thể hiện khả năng trầm tích
nhiều yếu tố folklore và còn bảo lưu cho đến tận ngày nay. Đó cũng chính
là điều kiện cho trí tưởng tượng dân gian cất cánh, là cơ sở để gắn kết
hai địa danh, hai tiểu vùng văn hóa chùa Láng, chùa Thầy qua sự tích
thiền sư Từ Đạo Hạnh đậm đặc màu sắc văn hóa tâm linh, vẻ kỳ ảo và cuốn
hút của hình tượng danh nhân văn hóa.
NGUYỄN HỮU SƠN (Tạp Chí Sông
Hương)