Thành kính tưởng niệm Từ Vân Đại lão Hòa thượng, bậc Cao Tăng Thạc đức tạo tiền đề cho cuộc chấn hưng
Phật giáo Việt Nam vào
đầu thế kỷ XX. Nhân kỷ niệm ngày Viên tịch lần thứ 79, chúng ta cùng
nhau ôn lại Hành trạng của Ngài, làm ngọn Hải Đăng mãi soi đường cho hậu
thế tiếp bước Tiền nhân.
Hòa thượng thuộc dòng Thiền Lâm
Tế Gia Phổ đời thứ 39, pháp danh Ngộ Đạo hiệu Từ Vân. Thế danh Đinh Công
Thân, sinh năm Bính Dần (1866) Niên hiệu Tự Đức năm thứ 20, tại làng
Định Yên, Lấp Vò (nay huyện Lấp Vò tỉnh Đồng Tháp). Thân phụ là Cụ ông
Đinh Công Thành và thân mẫu là cụ bà Lê Thị Hoài. Gia đình 7 anh em,
Ngài thứ tư. Sinh trong gia đình trung lưu phúc hậu, theo truyền thống
đạo Phật.
Thuở nhỏ Ngài tỏ vẻ khác hơn các trẻ khác, không thích ăn sang mặc đẹp, ít nô đùa, ưa trầm tư và ham đọc sách Thánh Hiền.
Năm Bính Tuất (1886) niên hiệu
Đồng Khánh năm thứ 2, vừa tròn 21 tuổi, sau khi đi chiêm bái vùng thất
sơn mầu nhiệm Châu Đốc, bỗng nhiên
Bồ Đề tâm hoa khai, Ngài đến An Phước Tự tại quê nhà cầu lão Tổ Đạt Hóa hiệu Nguyên Hòa làm Bổn Sư Hòa thượng cạo tóc
xuất gia và ban pháp danh Ngộ Đạo hiệu Từ Vân.
Năm Mậu Tý (1888) niên hiệu Đồng
Khánh năm thứ 4, Ngài thọ giới Sa di tại Giới đàn An Phước do Thiền sư
Minh Thông hiệu Hải Huệ đương vi Đường đầu Hòa thượng, Ngài Phổ Minh
đương vi Yết Ma A xà lê, Ngài Đạt Hóa đương vi Giáo Thọ A xà lê.
Năm Tân Mão (1891) niên hiệu
Thành Thái năm thứ 3, Ngài đăng đàn thọ Tỳ kheo, Bồ tát giới tại Giới
đàn Tiên Thiện – Từ Lâm nơi Tổ đình Phước Hưng, Sa Đéc do Thiền sư Minh
Thông hiệu Hải Huệ đương vi Đường đầu Hòa thượng, Thiền sư Hải Huệ hiệu
Chân Giác đạo nhân (HT. Tổ Mẹ Nội) đương vi Yết Ma A xà lê, Thiền sư Như
Khả hiệu Chơn Truyền đương vi Giáo thọ A xà lê.
Và sau đó Ngài vâng lệnh Hòa thượng Bổn sư về lo
Phật sự ở Tổ đình Tân Long, Làng Tân Thuận Tây, Cao Lãnh (nay thuộc Tp. Cao Lãnh).
Năm Ất Tỵ (1905) niên hiệu Thành Thái năm thứ 7, Hòa thượng Bổn sư
Viên tịch, lo tang lễ hiếu sự xong, Ngài tiếp tục kế nghiệp Phật sự Tổ đình Tân Long.
Năm Ất Mão (1915) niên hiệu Duy
Tân năm thứ 9, Ngài bắt đầu mở trường Gia giáo dạy học và chuẩn bị khắc
Mộc bản được trích một trong những Kinh, Luật, Luận và các tác phẩm của
Ngài trước tác biên soạn diễn nôm . . .
Năm Kỷ Mùi (1919) niên hiệu Khải
Định năm thứ 4, Đại Giới đàn Minh Phước tổ chức tại Tổ đình Phước Hưng,
Sa Đéc. Ngài được cung thỉnh đương vi Đường đầu Hòa thượng, Ngài Bửu
Phước Khai Sơn Phước Ân Tự đương vi Tuyên luật sư Yết ma A xà lê, Ngài
Vạn Hiển Trụ trì Phước Hưng đương vi Giáo thọ A xà lê.
Năm Tân Dậu (1921) niên hiệu
Khải Định năm thứ 6, Ngài tiếp tục xây thêm Tăng xá, tiện nghi phòng ốc
để tiếp Tăng chúng tứ phương tụ hội học tu. Giáo dục đào tạo Tăng tài,
trong đó xuất sắc nhất là Huệ Quang đắc pháp và sau này được cung thỉnh
lên ngôi Hòa thượng Thượng thủ Giáo hội Tăng Già Nam Việt.
Năm Giáp Tý (1924) niên hiệu
Khải Định năm thứ 9, Ngài sang Ấn Độ chiêm bái Phật tích và các nước :
Trung Quốc, Thái Lan, Miến Điện, Lào, Campuchia để nghiên cứu tình hình
chấn hưng Phật giáo thế giới trong khu vực.
Năm Ất Sửu (1925) Khai Trường Kỳ
tại Tổ đình Tân Long Ngài đương vi Chứng minh và Pháp Sư, Ngài Từ Văn
chùa Hội Khánh, Bình Dương đương vi Hòa thượng Bố tát, Ngài Trí Thiền,
Sắc tứ Tam Bảo tự, Rạch Giá đương vi Hòa thượng Thiền Chủ, Ngài Khánh
Hòa chùa Tiên Linh, Bến Tre đương vi Hòa thượng Chứng Đàn, Ngài An Lạc
chùa Vĩnh Tràng, Mỹ Tho đương vi Hòa thượng Bố tát, Ngài Như Lý – Thiên
Trường, Bửu Lâm Tự, Mỹ Tho đương vi Hòa thượng Chánh Chủ sự, Ngài Thiên
Ân chùa An Phước, Lấp Vò đương vi Hòa thượng Bố tát . . . Các bậc Lão
tiền bối khai Trường Hương năm này quy tụ Danh Tăng để thảo kế hoạch trù
bị cho cuộc
Chấn Hưng Phật giáo đầu thập niên 20 của thế kỷ XX.
Năm Bính Dần (1926) niên hiệu Bảo Đại năm thứ 2,
Đại giới Đàn Nguyên
Hòa tổ chức tại Bổn Tự Tân Long, Ngài đương vi Đường đầu Hòa Thượng,
trong giới tử của đàn giới này có Ngài Thích Thành Đạo (khai sơn Phật Ấn
tự, nay thuộc Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh) đắc giới.
Năm Đinh Mão (1927) niên hiệu
Bảo Đại năm thứ 3, Đại giới đàn Minh Phước tại Tổ đình Phước Hưng, Sa
Đéc Ngài được cung thỉnh đương vi Đường đầu Hòa thượng, Ngài Bửu Phước
đương vi Yết ma A xà lê, Ngài Vạn Hiển đương vi Giáo thọ A xà lê. Sau
đó, Ngài sang Lào dự Đại hội Phật Giáo khu vực.
Năm Canh Ngọ (1930) niên hiệu
Bảo Đại năm thứ 6, Đại giới đàn Nguyên Hòa tại Bổn tự Tân Long, Ngài
đương vi Đường đầu Hòa thượng, Ngài Bửu Phước đương vi Yết ma A xà lê,
Ngài Vạn Hiển đương vi Giáo thọ A xà lê.
Năm Giáp Tuất (1934) Đại giới đàn tổ chức tại Chùa An Phước, làng Định Yên, Lấp Vò, Ngài đương vi Đàn đầu Hòa thượng.
Duyên Ta bà quả mãn, thuận thế
vô thường, sinh diệt quy luật, Ngài an nhiên tọa hóa vào ngày 25 tháng 5
năm Giáp Tuất (06 -06 – 1934) niên hiệu Bảo Đại năm thứ 10.
Trụ thế 68 Xuân. Pháp lạp 40 Hạ, Trụ trì 43 Đông.
Lúc sinh tiền Ngài đào tạo chúng
đệ tử học điêu khắc để chế tác mộc bản các Kinh, Luật, Luận hiện đang
tàng bản ở Tổ đình Tân Long:
- Kim Cang Kinh
- Lục Tổ Bửu Đàn Kinh diễn nghĩa (văn Nôm – lục bát)
- Di Giáo Kinh chú giải
- Tứ Thập Nhị Chương chú giải
- Sa di Luật nghi chú giải
- Quy Sơn cảnh sách chú giải
- Quy Nguyên trực chỉ
- Hứa sử truyện vãn
- Thiền Cơ Ngộ Đạo truyện (chữ nôm)
- Chư Sám Quốc Âm
- Thập Nhị đại nguyện vương quốc âm
- Tam quy ngũ giới thích nghĩa (nôm)
- Phục Sơ Giác Bổn diễn ca tập
- Thần Chung Tịnh Độ kinh
- Niệm Phật pháp môn công cứ. . .
(Tài công khắc mộc bản Hán nôm
gồm đệ tử Ngài như các vị: Tịnh Tu, Tịnh Tư, Tịnh Tâm, Tịnh Ý, Tịnh Huệ,
Tịnh Chí, Huệ Thành, Mỹ Quang, Chơn Huệ. . .)
Cuộc đời hạnh hóa đạo của Ngài rất bình dị, chân tu thật học, nghiêm trì
giới luật,
là một trong những bậc Cao Tăng Thạc Đức tạo tiền đề cho cuộc chấn hưng
Phật giáo Nam bộ vào đầu thế kỷ XX và Huệ Quang Hòa thượng tiếp tục
theo gương sáng của Ngài, hợp tác với Hòa thượng Khánh Hòa cùng phát
động phong trào chấn hưng Phật giáo.
Chúng
đệ tử xuất gia với Ngài như: Tịnh Đắc, Tịnh Nhãn, Tịnh Toàn, Tịnh Trí,
Tịnh Thắng, Tịnh Tu, Tịnh Tư, Tịnh Kiên, Tịnh Nghiêm (Khai sơn chùa
Thành Hoa, huyện Chợ Mới, An giang, tục gọi là Đạo Nằm), Tịnh Lý, Tịnh
Huệ, Pháp Lý, Pháp Tư . . .
Thích Vân Phong kính biên soạn
Theo: phatgiao.org.vn