Lão Pháp Sư thượng Tịnh hạ Không, thế danh là Từ Nghiệp
Hồng, Ngài sanh tháng 2
năm 1927, tại huyện Lư Giang tỉnh An Huy Trung Quốc. Thời thiếu niên
Ngài học ở
trường trung học Quốc Lập thứ ba và trường trung học Nam Kinh Thị Lập
thứ nhất,
năm
1949 Ngài
đến Đài Loan, phục vụ ở Thật Tiễn Học Xã, lúc có thì giờ
Ngài
nghiên cứu học tập kinh sử triết học. Năm 26 tuổi bắt đầu học Phật ăn
trường
chay, đầu tiên cầu học với nhà triết học giáo sư Phương Đông Mỹ. Kế đến
theo
học với cao tăng Mật Tông Đại Sư Chương Gia 3 năm. Sau cùng đến Đài
Trung cầu
pháp với nhà Phật học Lão Cư Sĩ Lý Bỉnh Nam 10 năm, tổng cộng học tập
Phật Pháp
13 năm. Ngài tinh thông kinh luận của các tông phái Phật Giáo và học
thuyết của
những tôn giáo khác như Nho, Đạo, Cơ Đốc, Islam v.v., đặc biệt là đối
với Tịnh
Độ Tông Phật Giáo tận tâm tận lực chuyên tu chuyên hoằng, được thành tựu
rất là
huy hoàng.
Năm
1959, vào năm 33 tuổi, Ngài được thế độ ở chùa Lâm Tế vùng Viên Sơn
thành
phố Đài Bắc, pháp danh là Tịnh Giác, pháp tự là Tịnh Không. Sau khi thọ
giới cụ túc Ngài đi khắp nơi giảng kinh thuyết pháp ở Đài Loan và các
nước trên
thế giới. Trước sau đã giảng giải như Kinh Hoa Nghiêm, Kinh Pháp Hoa,
Kinh Lăng
Nghiêm, Kinh Viên Giác, Tịnh Độ Ngũ Kinh (Kinh Vô Lượng Thọ, Kinh A Di
Đà, Kinh
Quán Vô Lượng Thọ Phật, Đại Thế Chí Bồ Tát Niệm Phật Viên Thông Chương,
Phẩm Phổ
Hiền Hạnh Nguyện), Kinh Kim Cang, Kinh Địa Tạng, Kinh Phạm Võng, Kinh
Nhân
Vương, Kinh Đại Bát Nhã Cương Yếu, Bát Nhã Tâm Kinh, Kinh Bát Đại Nhân
Giác,
Kinh Tứ Thập Nhị Chương, Kinh Thù Thắng Chí Lạc, Kinh Đương Lai Biến,
Kinh Thập
Thiện Nghiệp Đạo, Kinh Kiết Hung, Lục Tổ Đàn Kinh, Sa Di Luật Nghi Yếu
Lược,
Đại Thừa Khởi Tín Luận, Vãng Sanh Luận, Đại Trí Độ Luận, Bách Pháp Minh
Môn Luận, Duy Thức Nghiên Cứu, Bát Thức Quy Củ Tụng, Trung Phong Tam
Thời Hệ
Niệm, Phật Giáo Tam Tạng kinh điển mấy mươi bộ. Ngoài ra, Ngài còn giảng
Thái
Thượng Cảm Ứng Thiên và Liễu Phàm Tứ Huấn, còn có chương trình Nhân Ái
Hòa Bình
Giảng Đường, giảng kinh thuyết pháp 40 mấy năm chưa từng gián đoạn, hiện
nay có
phát hành nhiều loại băng giảng cassette, băng giảng video, đĩa CD -
MP3, đĩa
VCD - DVD, có đến mấy ngàn tập. Cho đến nay mỗi ngày 4 tiếng đồng hồ ở
trong
phòng ghi hình giảng Kinh Hoa Nghiêm, vui với kinh pháp, chưa hề mỏi
mệt.
Năm 1960, Ngài được mời làm giảng sư ở Tam Tạng Học
Viện chùa Thập Phổ thành phố Đài Bắc.
Năm 1961, nhận lời đảm nhiệm ủy viên hoằng pháp và ủy
viên văn hiến của Hội Phật Giáo Trung Quốc.
Năm 1965, đảm nhiệm ủy viên thiết kế của Hội Phật Giáo
Trung Quốc.
Năm 1972, đảm nhiệm tổng chủ giảng Đại Chuyên Phật Học
Giảng Tọa của Hội Phật Giáo Trung Quốc.
Năm 1973, đảm nhiệm Viện Nghiên Cứu Phật Học Viện Học
Thuật Trung Hoa, giáo thọ ủy viên biên dịch Hội Chú Thích Kinh Phật Ngữ
Dịch Đài
Loan.
Năm 1975, đảm nhiệm làm giáo thọ Văn Hóa Đại Học Triết
Học Hệ Trung Quốc, và giáo thọ Thiên Chúa Giáo Đông Á Tinh Thần Sinh
Hoạt Nghiên
Cứu Tập Sở.
Năm 1977, đảm nhiệm viện trưởng Viện Nội Học Trung
Quốc.
Năm 1979, đảm nhiệm viện trưởng Viện Tịnh Độ Thật Tiễn
Trung Quốc.
Ngài trước sau sáng lập Hội Hoa Tạng Pháp Thí, Thư
Viện Thị Thính Phật Giáo Hoa Tạng, Hội Gây Quỷ Phật Đà Giáo Dục, Tịnh
Tông Học
Hội Hoa Tạng v.v..., tổ chức Phật Giáo Giáo Dục và mấy chục
ngôi đạo tràng chuyên
tu chuyên hoằng pháp môn tịnh độ. Ngài là người tiên
phong trong việc sử dụng hệ thống truyền thanh, đài truyền hình, truyền
hình vệ
tinh, mạng lưới thông tin toàn cầu, dùng phương tiện truyền thông hiện
đại để
truyền bá chánh pháp, đẩy mạnh nền giáo dục của Phật Đà.
In
Đại Tạng Kinh miễn phí biếu tặng, ấn tống những loại sách thiện của nhà
Nho, như
Tứ Thư Ngũ Kinh, An Sĩ Toàn Thư, Liễu Phàm Tứ Huấn v.v… Những loại sách
này
khuyên người đoạn ác tu thiện, nâng cao phẩm chất lương thiện, khôi phục
lại tâm
tánh, đề xướng đạo đức, cải thiện phong hóa xã hội, hoằng dương kinh
sách và tạo
ra âm tượng có liên quan văn hóa truyền thống của Trung Quốc.
Mấy chục năm nay đã ấn tống các loại kinh luận sách thiện lên đến hơn 10
triệu
cuốn, còn in rất nhiều hình chư Phật Bồ Tát và lịch đại Tổ Sư Đại Đức
mấy triệu
tấm, các loại máy niệm Phật, băng niệm Phật, biếu tặng lưu thông trên
toàn thế
giới.
Năm 1977, Ngài bắt đầu nhận lời mời thuyết giảng ở hải ngoại đẩy mạnh
nền giáo
dục của Phật Đà. Chỉ rõ phương châm nền giáo học của Đại Thừa chủ yếu là
phá
trừ mê tín, phá mê khai ngộ, lìa khổ được vui, khải phát chân trí huệ,
khiến cho
xã hội đại chúng hiểu rõ chân vọng, chánh tà, đúng sai, thiện ác, lợi
hại, để
xây dựng lý trí, đại giác, phấn phát, tiến thủ, lạc quan, tạo một lý
tưởng nhân
sanh quan vũ trụ quan, thì mới có thể giải quyết được tất cả khổ nạn của
chúng
sanh, đạt được mục tiêu giáo dục hạnh phúc chân thật vĩnh hằng, cứu cánh
viên
mãn.
Vì
muốn để cho cái lý tưởng này thực hiện được, nên Ngài trước sau ở Đài
Loan, Hồng
Kông, Tân Gia Ba, Mã Lai Á, Hoa Kỳ, Gia Nã Đại, Úc Đại Lợi,
Tây
Ban Nha, Anh
Quốc v.v... đề xướng chỉ đạo thành lập có hơn 50 mấy ngôi đạo tràng Tịnh
Tông Học
Hội, đảm nhiệm chức vụ cố vấn hoặc đạo sư của mấy chục đoàn thể Phật
Giáo và
đoàn thể xã hội. Cùng năm, Ngài còn đề xướng chỉ đạo cho con cháu người
Trung
Hoa khắp trên thế giới nên xây dựng Trung Hoa Dân Tộc Bá Tánh Tông Từ
(đền thờ
tổ tông), hy vọng cách giáo hóa này, khiến cho mọi người đều biết Thành,
Tín,
Trung, Kính, Hiếu Đạo, Luân Thường Đạo Lý, Thuần Phong Mỹ Tục, Hưng Long
Quốc
Vận, Thực Hiện Thái Bình. Ngài cũng nghĩ rằng Văn Ngôn Văn (cổ văn), là
quá
khứ, hiện tại, vị lai, ba đời cùng chung thông dụng ngôn ngữ văn tự, văn
hóa
Trung Hoa rất độc đáo khác thường, là một nền văn hóa trên thế giới phát
minh vĩ
đại nhất, cũng là mấy ngàn năm bảo tàng trí huệ của nhân loại, cùng với
người
hiện đại kết tinh thành một thể. Mỗi một người là con cháu của Viêm
Hoàng (tổ
tiên của người trung hoa), đều phải có trách nhiệm nghĩa vụ đem nền văn
hóa này
tiếp tục truyền thừa, phát dương quang đại.
Năm 1985, Ngài di cư sang Hoa Kỳ, thời gian Ngài hoằng
pháp trên đất Mỹ, do bởi Ngài có sự liên hệ đoàn kết với các chủng tộc,
xã hội
được an hòa, nâng cao phương diện đạo đức, có sự cống hiến rất nỗi bật,
tháng 8
năm 1995, Ngài được tiểu bang Texas nước
Mỹ phong tặng Công Dân Danh Dự của tiểu
bang, và thành phố Dallas cũng phong tặng Công Dân Danh Dự của thành
phố. Thời
gian hoằng pháp ở đây, đã từng được mời đi giảng ở trường Đại Học Lý
Công Tân
Gia Ba, trường Đại Học tiểu bang Maine nước Mỹ, trường Đại Học
Deanza-College
tiểu bang Texas, trường Đại Học Hawai, và các trường Đại Học ở Úc Châu
như
Melbourne, Sydney, Queensland v.v… Ở các nước á châu như trường Đại Học
Phụ Nhân
Đài Loan, trường Đại Học Văn Hóa Trung Quốc, trường Đại Học Thành Công,
trường
Đại Học Trung Sơn v.v... và đài truyền thanh, trên đài truyền hình thì
có chương
trình thuyết giảng Phật học chuyên giảng đề tài. Ngài đi đến nơi nào
thuyết
giảng thì có rất nhiều thính chúng lắng nghe pháp âm, pháp duyên của
Ngài rất
thù thắng, được tứ chúng đệ tử hết lòng ủng hộ.
Tháng 5 năm 1995, được sự chỉ đạo của Ngài, Cư Sĩ Lâm
Phật Giáo Tân Gia Ba và Tịnh Tông Học Hội liên kết sáng lập Lớp Bồi Huấn
Nhân
Tài Hoằng Pháp, và chỉ dạy công việc giáo học hằng ngày.
Tháng 5 năm 1998, ở Cư Sĩ Lâm Phật Giáo Tân Gia Ba bắt
đầu tuyên giảng Kinh Hoa Nghiêm, cũng đồng thời tuyên giảng Kinh Vô
Lượng Thọ.
Từ năm 1998, ở Úc Châu và Tân Gia Ba hai nơi này tích
cực đẩy mạnh lý niệm văn hóa đa nguyên, xúc tiến hòa bình, xã hội an định. Ngoại trừ ra ở Tân Gia Ba chủ động đi thăm
viếng các đoàn thể Tôn giáo và trợ
giúp sự nghiệp từ thiện xã hội, ở Úc Châu tham gia diễn đàn tôn giáo,
trợ giúp
trường Đại Học Griffith thành lập Trung Tâm Văn Hóa Đa Nguyên, và trường
Đại Học
Queensland thành lập Học Viện Nghiên Cứu Giải Quyết Xung Đột và Hòa
Bình.
Tháng 5 năm 2000, nhận lời mời của Cục Tôn Giáo Trung
Quốc, Ngài cùng với những vị lãnh tụ của 9 đại tôn giáo Tân Gia Ba, đi
thăm
viếng các đại đoàn thể tôn giáo Trung Quốc, xây dựng mối quan hệ thân
thiện.
Tháng 1 năm 2001, bắt đầu ở Úc Châu dự bị xây dựng
Tịnh Tông Học Viện, để bồi dưỡng trao dồi càng nhiều nhân tài Phật Giáo
cho hàng
hậu học. Ngài hiện cư ngụ tại Úc Châu, ngoại trừ mỗi ngày 4 tiếng đồng
hồ ở
trong phòng ghi hình tuyên giảng Kinh Hoa Nghiêm, cũng thường đi Hồng
Kông và
Tân Gia Ba hoằng pháp.
Tháng 5 năm 2002, được trường Đại Học Griffith mời làm
Giáo Sư Danh Dự, tháng 6 được trường Đại Học Queensland mời làm Giáo Sư
Khách
Tọa, và được thành phố Toowoomba phong tặng Công Dân Danh Dự của thành
phố.
Giữa
tháng 8 năm 2002, được trường Đại Học Griffith phong tặng Tiến Sĩ Danh
Dự.
Tháng 7 năm 2003, với chức phận Giáo Sư đại biểu
trường Đại Học Griffith đến Thái Lan tham gia Hội Nghị Thế Giới Hòa Bình
Liên
Hiệp Quốc.
Tháng 4 năm 2004 được trường Đại Học Queensland Úc
Châu phong tặng Tiến Sĩ Danh Dự.
Tháng 6 năm 2004, bộ tôn giáo Indonesia tổ chức thành
đoàn phỏng vấn lãnh tụ tôn giáo, thỉnh mời Ngài làm Cố Vấn Danh Dự, đi
thăm
viếng Ai Cập, Ý Đại Lợi và Vatican, nhờ vào thông qua tôn giáo giao lưu
tiến đến
tìm hiểu với nhau, cùng xây dựng ý thức chung.
Tháng 8 năm 2004, được trường Đại Học Châu Lập Islam
Giáo Indonesia phong tặng Tiến Sĩ Danh Dự.
Tháng 8 năm 2004, được mời tham gia Hội Nghị Quốc Tế
do Liên Hiệp Quốc Giáo Khoa Văn tổ chức cử hành tại Okayama Nhật Bản, và
phát
biểu chuyên giảng đề tài.
Tháng 6 năm 2005, do bởi Ngài tích cực đẩy mạnh nền
văn hóa đa nguyên, tôn giáo hòa hài, liên hệ đoàn kết chủng tộc và nổ
lực công
việc giáo dục thế giới, được Nữ Hoàng Anh Quốc ban tặng Huân Chương AM.
|