M ột trong những
vấn đề chính trong xã
hội ngày nay mà Phật
Giáo cần phải đối phó là
Phật Giáo phải có cái
dũng để ngăn chặn những
kẻ xấu vì lòng cuồng
tíntôn giáo, vì vô
minh, vì tự ty trước
Phật Giáo v..v.. nên
thường xuyên ra công
xuyên tạc đánh phá Phật
Giáo trong sách lược xâm
lăng văn hóa và tôn giáo
của dân tộc Việt
Nam.Trọng trách này đòi
hỏi chúng ta phải vận
dụng đến trí tuệ, đến sự
hiểu biết, và nhất là
đến tâm từ bi của Phật
Giáo trong mục đích
chuyển hóa.
Trong
một phần trên tôi đã nêu
lên một sự kiện, đó là:
vì không còn chỗ đứng,
không còn cơ cứu vãn ở
Tây phương, cái nôi của
Ki Tô Giáo trước đây, Ki
Tô Giáo đã có kế hoạch
vớt vát qua sách lược
xâm lăng văn hóa và tôn
giáo ở Á Châu, trong đó
có Việt Nam. Toan tính
của Ki Tô Giáo trong
sách lược này là mang đồ
Tây phương đang từ bỏ,
phế thải dần dần, để
nhập cảng sang Á Châu
với tất cả những thủ
đoạn không chính đáng
với mục đích cải đạo Á
Châu dựa trên một môn
thần học mới mang mỹ
danh “Thần học Ki Tô
Giáo theo cung cách Châu
Á”.Tuy trong thực
tế Ca Tô Giáo Rô Ma và
Tin Lành vẫn còn chống
đối nhau, thù ghét nhau,
nhưng về phương diện
truyền đạo sang Á Châu,
cả hai giáo phái Ki Tô
này đều hợp sức cùng
nhau sử dụng vũ khí
“Thần học Ki Tô Giáo
theo cung cách Châu Á”,
phối hợp với những
thủ đoạn như dùng vật
chất để mua chuộc giới
chức có quyền cũng như
khuyến dụ dân nghèo, và
dùng chiêu bài chính trị
như Dân Chủ, Đa Nguyên,
Nhân Quyền, Tự Do Tôn
Giáo v..v.. để cải đạo Á
Châu.Công Giáo dựa thế
Vatican, Tin Lành dựa
thế cường quốc Mỹ, và
có vẻ như Nhà
Nước cũng như Phật Giáo
Việt Nam khá thụ động
trước âm mưu xâm lăng
văn hóa và tôn giáo này.Đây
chính là vấn nạn mà Phật
Giáo Việt Nam cần phải
quan tâm và đối phó.
Vậy thì chúng
ta cần phải biết rõ kế
hoạch xâm lăng văn hóa
và tôn giáo ở Á Châu của
Ki Tô Giáo là như thế
nào.
Bản
“Tông Huấn Giáo Hội
Tại Á Châu” của
Giáo Hoàng John Paul II
tung ra cuối năm 1999 và
cuốn “Thần Học Ki Tô
Giáo Theo Cung Cách Châu
Á”, một tuyển tập
gồm các bài viết của Mục
sư Tống Tuyền Thịnh
(Choan Seng Song), người
Đài Loan, được một số
nhân viên trong Ủy Ban
Đoàn Kết Công Giáo T.P.
HCM tuyển dịch và ấn
hành vào tháng 8 – 1991,
về bản chất không khác
gì nhau, vì cùng nhắm
một mục đích: cải đạo Á
Châu qua những thủ đoạn
có thể nói là bất chính
và bất lương trí
thức.Điều đáng để ý là
Công Giáo Việt Nam đã
lấy một tác phẩm thần
học của một Mục sư Tin
Lành làm đề tài hội thảo
với mục đích rao bán
“quyền năng cứu chuộc”
của Thiên Chúa.Đây là
một chuyện hiếm có, vì
từ xưa tới nay, Công
Giáo luôn luôn khẳng
định Giáo hội Công Giáo
là phương tiện cứu rỗi
duy nhất, không có sự
cứu rỗi ở ngoài giáo hội
Công Giáo, theo như tinh
thần bản văn Dominus
Jesus mà Hồng Y
Ratzinger tung ra trước
đây, với sự chấp thuận
của Giáo hoàng John Paul
II.Điều này cho thấy
Công Giáo và Tin Lành
cùng có chung một sách
lược cải đạo Á Châu dựa
trên cái gọi là
“Thần học Ki Tô Giáo
theo cung cách Á Châu.”
.Nhưng điều đáng nói ở
đây là tuy Vatican đã
biết rõ là chẳng làm gì
có cái gọi là sự “cứu
rỗi” của Giêsu (qua sự
kiện Giáo hoàng John
Paul II công nhận thuyết
Big Bang, thuyết Tiến
Hóa, và phủ nhận sự hiện
hữu của thiên đường và
hỏa ngục), Vatican vẫn
tung ra những tài liệu
như “Tông Huấn Giáo
Hội Tại Á Châu” ,“Dominus
Jesus”, phụ họa với
tài liệu “Thần Học
Ki Tô Giáo Theo Cung
Cách Châu Á” của
mục sư Tống Tuyền Thịnh
ở Đài Loan, để rao bán
“ơn cứu chuộc” của Giêsu
cho đám dân thấp kém, ít
hiểu biết.Đó là đạo đức
tôn giáo của các bậc
lãnh đạo Công Giáo cũng
như Tin Lành.
Nội
dung bản “Tông Huấn
Giáo Hội Tại Á Châu”
của Giáo hoàng Công Giáo
John Paul II là một mớ
trích dẫn từ Thánh Kinh
Ki Tô Giáo một cách chọn
lọc, ngoài toàn bộ vấn
đề (out of context),
đưa ra những luận
điệu lừa dối những đầu
óc yếu kém, ít học, về
một chương trình cứu độ
của Thiên Chúa tại Á
Châu trong khithực chất
chỉ là âm mưu xâm lăng
văn hóa và tôn giáo Á
Châu.
Khi
cuốn Thần Học Ki Tô
Giáo Theo Cung Cách Châu
Á của Mục sư Tống
Tuyền Thịnh được Ủy Ban
Đoàn Kết Công Giáo T.P.
HCM dùng làm đề tài thảo
luận cho một cuộc hội
thảo vào đầu thập niên
1990, thì Tỳ Kheo Thích
Nhật Từ ở Việt Nam đã
thuyết trình một bài Phê
Bình cuốn sách này trong
cuộc hội thảo đó, vànhư
chúng ta đã biết,
Tỳ Kheo Thích
Nhật Từ đã vạch ra những
sai lầm của Mục sư Tống
Tuyền Thịnh qua những
thủ đoạn xuyên tạc lịch
sử, xuyên tạc và hạ thấp
giáo lý Phật Giáo để tô
hồng quảng cáo cho cái
gọi là “quyền năng cứu
chuộc” của Thiên Chúa mà
chúng ta đã biết đó chỉ
là một sự mê tín tiền –
Darwin và sự vô nghĩa
hậu – Darwin.Bài
thuyết trình của Tỳ Kheo
Thích Nhật Từ đã được in
thành sách ở Việt Nam và
được phổ biến trên một
số trang nhà Phật Giáo,
và được in lại trong
cuốn “Ki-Tô Giáo: Kế
Hoạch Cải Đạo Á Châu”,
nhà xuất bản Á Châu, Hè
2005, cùng với hai tác
giả khác:Ngô Triệu Lịch
và Trần Chung Ngọc.Hai
tác giả này đã phê bình
chi tiết bản “Tông
Huấn Giáo Hội Tại Á
Châu” của Công Giáo
và đã vạch ra những thủ
đoạn bất chính trong
sách lược cải đạo Á Châu
của Ki Tô Giáo trong
cuốn sách trên.
Tiếc
thay, một con én không
làm nổi mùa xuân.Từ
1991 đến nay, ngoài Tỳ
Kheo Thích Nhật Từ, có
vẻ như thật hiếm hoi,
khó mà tìm được những
trưởng tử Như Lai quan
tâm đến mặt trận văn hóa
để bảo vệ Đạo Pháp.
Dưới
chiêu bài Thần Học
Ki Tô Giáo Theo Cung
Cách Châu Á, Ki Tô
Giáo toan tính mang đồ
phế thải ở Âu Châu sang
tặng Á Đông, theo ngôn
từ trong bản “Tông
Huấn Giáo Hội Tại Á
Châu” của Giáo
hoàng John Paul II.
Nhưng nền thần học Ki Tô
Giáo, bất kể với nhãn
hiệu gì, ngày nay đã
không còn chỗ đứng trong
những xã hội văn minh
tân tiến.Bởi vì, trước
những khám phá khoa học
mà không ai có thể phủ
bác về nguồn gốc vũ trụ,
về thuyết Tiến Hóa
v..v.., mà chính Giáo
Hoàng của Công Giáo cũng
phải chấp nhận, một
Thiên Chúa “sáng tạo” ra
vũ trụ và con người cách
đây khoảng 6000 năm như
được viết trong Thánh
Kinh đã trở thành một
chuyện vô nghĩa, chỉ còn
có thể mê hoặc được
những đầu óc chưa được
mở mang đúng mức.
Thực
chất nền thần học Ki Tô
Giáo là gì.Không ai rõ
hơn là chính những người
trong đạo.Chúng ta hãy
đọc một đoạn trong cuốn
Một Linh Mục Hiện
Đại Xét Về Giáo Hội Lỗi
Thời Của Mình (A
Modern Priest Looks At
His Outdated Church),
một cuốn sách đã được
một số trí thức trong
cũng như ngoài giáo hội
ca tụng, của linh mục
James Kavanaughnhận xét
như sau về nền Thần học
Công Giáo, trang 6:
Tuy nhiên, nền Thần học
của chúng ta đã trở
thành một trò chơi học
thuật.Đó là một mớ luật
lệ tích tụ trong sự cay
đắng tôn giáo của những
cuộc tranh chấp nhỏ
mọn.Đó
là một chuyện cổ tích về
những chân lý đã nhàm
chán, chỉ có tác dụng
tước đoạt trách nhiệm cá
nhân của con người và hạ
thấp con người thành một
nô lệ vô danh sợ sệt.
Thần học đã
tước đoạt đầu óc con
người và chỉ để lại
trong họ những lời học
thuộc lòng...
Đó là nền Thần học mà
tôi đã học và truyền lại
trong mọi kỳ xưng tội mà
tôi nghe, trong mọi lớp
học tôi dạy, trong mọi
bài giảng tôi nói cho
đám con chiên đầy mặc
cảm tội lỗi
13
Giáo
sư David Voas, đại học
New Mexico, Hoa Kỳ,tác
giả cuốn sách khảo cứu
Tân Ước nổi tiếng:
Cuốn Thánh Kinh Mang Tin
Dữ: Cuốn Tân Ước
(The Bad News Bible: The
New Testament)
đã viết trong phần dẫn
nhập như sau:
Thật là đáng xấu hổ...
Thần học - chấp nhận như
là môn học về Thiên Chúa
- bị coi là không có chủ
đề nào, hoặc ít nhất là
không có chủ đề nào
chúng ta có thể nghiên
cứu.
Đó là ngành học duy nhất
với những chuyên gia
thực sự không biết mình
đang nói cái gì.
Vì không có chất liệu
cho chủ đề, các nhà Thần
học phải xử dụng đến hai
lãnh vực kỳ quặc: óc
tưởng tượng và Giáo
quyền...Ngày nay, các
tư tưởng gia Ki Tô có
nhiệm vụ chứng tỏ Thánh
Kinh có ý nghĩa, nhất
quán, và có vẻ như là có
thể biện hộ cho vấn đề
luân lý đạo đức trong
đó.Điều này có thể thật
là khó khăn.
14
Ngoài
ra, H. L. Mencken
(1880-1956), một Văn hào
Mỹ, đã viết:
"Thần
học: một nỗ lực để giải
thích cái không thể biết
được bằng cách đặt sự
giải thích vào những cái
không đáng biết"
15
Và
Alfred North Whitehead
(1861-1947), một nhà
Toán học và Triết gia Mỹ
cũng đưa ra nhận định:
Tôi coi nền thần học Ki
Tô Giáo như là một trong
những tai họa lớn của
nhân loại.16
Và
cũng vì vậy mà John E.
Remsburg đã viết trong
cuốn Những Điều
(Công Giáo) Nhận Vơ
Sai Sự Thực (False
Claims, p. 3)
Trong những giới thông
minh ở Âu Mỹ, nền Thần
học Ki Tô trên thực tế
đã chết.17
Đó là
thực chất các nền thần
học của Ki Tô Giáo, và
chúng ta có thể tin chắc
rằng, Thần Học Ki Tô
Giáo Theo Cung Cách Châu
Á, một vũ khí mới
của Ki Tô Giáo trong
sách lược cải đạo Á
Châu, cũng không ra
ngoài những nhận định
như trên củagiới trí
thức, học giả, cũng như
bậc lãnh đạo trong Ki Tô
Giáo.Đây là vấn đề
chúng ta cần nắm vững
nếu chúng ta bắt buộc
phải đối thoại với Ki Tô
Giáo.Tại sao?Nhà thần
học Công Giáo Hans Kung
đã nhận định trong cuốn
Ki-Tô Giáo
(Christianity), trang
783:
Không có hòa bình giữa
các tôn giáo thì sẽ có
chiến tranh giữa các nền
văn minh khác
nhau.Không thể có hòa
bình giữa các tôn giáo
nếu không có sự đối
thoại giữa các tôn
giáo.
Không thể có sự đối
thoại giữa các tôn giáo
mà không có sự nghiên
cứu về những nền tảng
của các tôn giáo.18
Thật
ra thì nhà thần học Hans
Kung chỉ muốn nói đến
các tôn giáo thờ độc
thần như Ki Tô Giáo, gồm
có Công Giáo, Tin Lành,
và Chính Thống, và Hồi
Giáo, Do Thái Giáo, vì
các tôn giáo này, hay hệ
phái tôn giáo này,
thường chém giết tàn sát
lẫn nhau mỗi khi có cơ
hội, kéo dài cho đến tận
ngày nay, chứ nhu cầu
đối thoại không có trong
Phật Giáo, vì bản chất
Phật Giáo là một tôn
giáo, nếu có thể gọi là
một tôn giáo, chủ trương
hòa bình, không chống
đối bất cứ một tôn giáo
nào khác, trừ phi phải
vận dụng trí tuệ để giải
hoặc những chống phá
Phật Giáo, đến từ các
thế lực vô minh.Ở Việt
Nam, theo Linh Mục Lương
Kim Định thì Công Giáo,
khi du nhập vào Việt
Nam, đã biến xã hội Việt
Nam đang thống nhất,
thành hai phe Lương,
Giáo đối nghịch mà sự
nghi kỵ khó có thể xóa
sạch được.Do
đó, dù không có nhu cầu
đối thoại, Phật Giáo
cũng phải nghiên cứu nền
tảng của Ki Tô Giáo để
mà có một căn bản đối
thoại khi cần.Một kiến
thức chắc chắn về nền
tảng của Ki Tô Giáo,
trong thời đại mới, còn
cần thiết hơn nữa, khi
mà Phật Giáo phải đối
diện với sách lược xâm
lăng văn hóa và tôn giáo
của Ki Tô Giáo.
Đối
với người Việt Nam,
chúng ta cần phải ý thức
được rằng chiêu bài “đối
thoại” hay “liên tôn”
của Công Giáochỉ là
những bình phong chiêu
dụ những người ngoại đạo
nhẹ dạ, ngây thơ, kém
hiểu biết, hám danh, lao
đầu vào cái bẫy của Công
Giáomà không biết đến
những âm mưu của họ
trong chính sách xâm
lăng văn hóa và tôn giáo
Á Châu, cũng như không
biết rằng mục đích chính
của Công Giáo không phải
là “đối thoại” hay “liên
tôn” mà chỉ là những
chiến thuật giai đoạn
nhằm mục đích đồng hóa
Phật Giáo vào Ki Tô
Giáo.Cũng may, số người
rơi vào cái bẫy này
không nhiều, không có uy
tín trong quần chúng,
nếu ở trong Phật Giáo
thì thực chất của họ chỉ
là những con nội trùng
kém đạo đức, nên ảnh
hưởng hay kết quả những
cuộc hợp tác “đối thoại”
hay “liên tôn” của họ
với Công Giáo, nếu có,
có thể nói là không đáng
kể, không cần phải quan
tâm.Tuy vậy, Phật tử
cũng không nên vìthế mà
lơi là, không chịu tìm
hiểu kỹ các vấn đề, áp
dụng hạnh từ bi một cách
thiếu sáng suốt, và để
mặc cho Công Giáotự
tung tự tác trong sách
lược cải đạo Á Châu.
Chúng
ta cần phải vạch trần âm
mưu dùng “đối thoại” để
truyền giáo và cải đạo
của Ki Tô Giáo cho quần
chúng biết rõ, báo động
nguy cơ xâm lăng của
Công Giáovà Tin Lành,
và nhất là buộc những
người Công Giáophải
lương thiện, thẳng thắn
và thành thật đối với
chúng ta qua những hành
động cụ thể chứ không
chỉ có trên đầu môi chót
lưỡi hay trên mặt văn
tự. Ví dụ, người Công
Giáongày nay nói rằng
họ có tinh thần dân tộc,
hội nhập văn hóa dân
tộc.Vậy hành động cụ
thể của họ phải là từ bỏ
tinh thần nô lệ Vatican,
từ bỏ lệ thuộc Vatican
về hành chánh cũng như
về vấn đề tâm linh, vì
thực chất cấu trúc của
Vatican là cấu trúc của
một chính quyền, của một
quốc gia, do đó là một
ngoại bang, và tinh thần
dân tộc Việt Nam là
không bao giờ chịu nô lệ
ngoại bang, và văn hóa
Việt Nam thì không bao
giờ có thể tương hợp với
văn hóa Ki Tô Giáo.
Để
cho vấn đề rõ ràng hơn
và cũng để cho người dân
biết rõ hơn về kế hoạch
xâm lược văn hóa và tôn
giáo Á Châu của Vatican,
sau đây tôi sẽ trình bày
sơ lược về vài thủ đoạn
điển hình trong sách
lược cải đạo Á Châu của
Công Giáovà Tin Lành.
1. Thủ
đoạn rất quen thuộc của
Công Giáovà Tin Lành
trong sách lược cải đạo
Á Châu gồm hai mặt: tấn
công và chống đỡ.Trong
mặt tấn công, họ xử dụng
mánh mưu “Thần học
Ki Tô Giáo theo cung
cách Á Châu”, lấy
một số giáo lý của Phật
giáo, xào xáo, thay đổi
làm thành giáo điều của
Ki Tô Giáo, đồng thời
tung ra những bản văn
xuyên tạc, hạ thấp Phật
Giáo, mạ lỵ tăng đoàn
v..v..Nếu Phật Giáo
không có phản ứng thì họ
sẽ lấn tới bằng mọi thủ
đoạn.Nếu Phật Giáo phản
ứng để phản bác thì họ
giữ im lặng, lợi dụng
bản tính hiền hòa và
khoan nhượng tôn giáo
của người dân Á Châu,
đưa ra mặt chống đỡ, tạo
trong quần chúng một ý
tưởng là chính Phật Giáo
là phe khởi xướng cuộc
tranh chấp tôn giáo, gây
chia rẽ, làm mất tình
hòa hợp đoàn kết quốc
gia.Ngoài ra, họ còn
mua chuộc, hối lộ các
chính quyền địa phương
để ngăn chận sự phổ biến
những tài liệu phản
kháng, vạch trần âm mưu
của họ, trong quần
chúng.Thủ đoạn này đã
thành công phần nào ở
Thái Lan và ở Việt Nam.Người
dân ít hiểu biết và ngay
cả chính quyền cũng rất
dễ bị lừa dối bởi thủ
đoạn này, không
nhận thức được bộ mặt
thật của Ki Tô Giáo.
2. Lợi
dụng cảnh nghèo khó của
người dân, họ thường bỏ
tiền ra mua tín đồ, hoặc
giúp đỡ chút ít về vật
chất, đồng thời truyền
đạo bằng những điều mê
hoặc, lừa dối quần chúng
về “ơn cứu chuộc của
Giêsu” mà thực chất chỉ
là một cái bánh vẽ trên
trời.Câu truyền tụng
trong dân gian Việt Nam:
“theo đạo có gạo mà ăn”
không phải là không có
cơ sở thực tế.Đây là
sách lược chung của Công
Giáo và Tin Lành.Ngay
trên đất Mỹ, hiện tượng
Tin Lành bỏ tiền ra mua
tín đồ cũng đã xảy ra ở
một vài nơi.Nhà thờ Tin
Lành ở Harvey đã kêu gọi
dân trong vùng đi lễ nhà
thờ và khi ra về mỗi
người sẽ được tặng
$25.Mục sư cai quản nhà
thờ Harvey tuyên bố:
“Phát tiền ra chỉ là một
phương pháp để truyền bá
phúc âm” (Giving
away cash is just one
way of spreading the
gospels), điều cần là
kéo họ đến nhà thờ để họ
nghe giảng.
3. Họ
đánh đồng quan niệm về
ông Trời của Việt Nam
với Chúa Trời của họ,
bất kể là quan niệm về
ông Trời của Việt Nam
tuyệt đối không phải là
về một anh thợ mộc ở Do
Thái, Giêsu, một người
thường như mọi người
khác nhưng sống với một
ảo tưởng, đã được nền
thần học Ki Tô Giáo dựng
lên làm Chúa cứu thế cho
cả nhân loại.Thủ đoạn
này đang được cả Công
Giáo lẫn Tin Lành khai
thác tối đa để lừa dối
những người dân thấp
kém.
4. Họ
dựng đứng lên những điều
vô cùng hoang đường và
có tính cách huênh hoang
hỗn xược:Đức Phật chỉ
là một nhà tiên tri hay
“ngôn sứ” của Thiên
Chúa, hay đã được Thiên
Chúa mạc khải cho để sửa
soạn cho vai trò cứu thế
của Giê-su v..v..,tuy
rằng chẳng ai biết Thiên
Chúa là cái gì và, như
chúng ta đã biết, thế
giới Tây phương đang
sống như là không có
Thiên Chúa hay ít ra là
không cần đến Thiên
Chúa, một sản phẩm tưởng
tượng của người dân Do
Thái trong thời bán
khai.
5.
Một trong những vũ khí
hữu hiệu nhất của Ki Tô
Giáo là phóng đại bộ mặt
từ thiện bác ái để tô
hồng quảng cáo cho Ki Tô
Giáo trong khi thực chất
những công việc từ thiện
này không như họ thường
quảng cáo.Đây có thể
nói là sự thành công
nhất của giáo hội Công
Giáo, cũng như Giáo hội
đã thành công cấy vào
đầu các tín đồ hình ảnh
một giáo hội thánh
thiện, tông truyền, duy
nhất v..v.. trong khi
thực ra lịch sử của giáo
hội là một lịch sử thô
bạo, đẫm máu, chứa đầy
những chuyện ô nhục nhất
thế gian: thánh chiến;
tòa hình án xử dị giáo;
săn lùng và thiêu sống
phù thủy; chủ trương
diệt chủng Do Thái;
không ít giáo hoàng ác
độc, tàn bạo, hoang dâm,
vô luân; không ít linh
mục loạn dâm: cưỡng dâm
nữ tu Công Giáo (các
sơ), trẻ em phụ tế, nữ
tín đồ v..v... và không
ít nữ tu đang tâm bạo
hành trẻ em cũng như dự
phần trong chính sách
diệt chủng ở Rwanda?Lẽ
dĩ nhiên chúng ta không
thể dựa vào những trường
hợp cá biệt nêu trên để
mà tổng quát hóa vấn đề
đạo đức trong Công
Giáo.Nhưng chúng ta
không thể không đặt ra
câu hỏi:Tại sao một tôn
giáo thường tự nhận là
do Thiên Chúa mạc khải,
do Chúa Giê-su thành
lập, thánh thiện, tông
truyền, duy nhất v..v..
lại có một lịch sử đen
tối như vậy và lại có
thể đào tạo ra một số
linh mục, nữ tu vô đạo
đức như vậy trong khi
những chuyện ô nhục này
không hề xảy ra trong
các tôn giáo mà Ki Tô
Giáo gọi là “thấp
kém”?Câu trả lời nằm
trong câu hỏi đối với
những người không cần
đến kiến thức của các
học giả mà chỉ cần có
một đầu óc còn đôi chút
suy nghĩ để có thể nhận
ra bản chất chân thật
của Ca Tô Giáo là như
thế nào.
Những
tổ chức từ thiện của
Công Giáo đã được B. S.
Rajneesh, tác giả cuốn
Linh Mục và Chính
Trị Gia: Những Mafia của
Linh Hồn (Priests &
Politicians: The Mafia
of the Soul), nhận định
như sau, trang 25:
Nếu con người nghèo đói,
họ có thể dễ bị dụ vào
Ki Tô Giáo, đặc biệt là
Ca Tô Giáo.Những trường
học, nhà thương, và viện
mồ côi của họ chẳng qua
cũng chỉ là những xưởng
để dụ người ta trở thành
tín đồ Ca Tô
19
Rajneesh đã không nhắc
đến sự kiện là với những
sự trợ cấp của chính phủ
và sự đóng góp của những
người có từ tâm, nhiều
cơ sở "từ thiện" đã là
những nguồn kinh tài cho
giáo hội, vơ vét tiền
bạc trên sự đau khổ của
các trẻ em mồ côi và
những người xấu
số.Tưởng chúng ta cũng
nên biết thêm một sự
kiện về những tổ chức
"từ thiện" của
Vatican.Sách vở, báo
chí và TV Âu Mỹ đã phanh
phui ra vụ Vatican dùng
những cơ quan từ thiện
như Caritas
International, Red Cross
và một số tu viện làm
những đường giây gọi là
"Giây chuột" (Ratlines)
với những dịch vụ như
cấp căn cước giả, thông
hànhgiả, tài chánh
v..v.. cho nhiều tội
phạm chiến tranh Đức
Quốc xãẩn náu trong các
tu viện chờ cơ hội chuồn
sang Nam Mỹ, phần lớn là
sang Á Căn Đình
(Argentina).
Nói
tóm lại, những công cuộc
“từ thiện” của Ki Tô
Giáo, Ca Tô Giáo cũng
như Tin Lành, chỉ là
những sơn phết màu mè
che dấu những âm mưu đen
tối đàng sau.Tuy vậy,
những lớp sơn phết này
cũng đánh lừa được nhiều
người, kể cả những chính
quyền phi Ki-Tô không
biết rõ bản chất “từ
thiện” của Ki Tô Giáo,
chỉ nhìn thấy mặt ngoài
thường xuyên được Ki Tô
Giáo thổi phồng mà không
để ý đến những mánh mưu
gây tác hại cho quốc gia
dân tộc về sau
6.Và
gần đây, Công Giáo cũng
như Tin Lành còn đưa ra
sách lược nham hiểm:
dùng bọn người trí thức
nô lệ mất gốc, đưa ra
những tác phẩm xuyên tạc
lịch sử, phủ nhận công
ơn của những anh hùng
dân tộc, tôn vinh những
kẻ bán nước cầu vinh, hạ
thấp nền văn hóa Việt
Nam, nhất là lịch sử và
văn hóa Phật Giáo, hoặc
đánh đồng khập khiễng
vài nét văn hóa Việt Nam
hoặc Phật Giáo với nền
văn hóa Ki Tô, ngụy
trang đằng sau những
chiêu bài đầu môi chót
lưỡi như“Thần học Ki Tô
Giáo theo cung cách Á
Châu”, hoặc “quay về với
truyền thống dân tộc,
hội nhập văn hóa dân
tộc”, trong khi bản chất
độc tôn cuồng tín về
“Chúa KiTô là đấng trung
gian duy nhất”, nô lệ
Vatican vẫn không thay
đổi.
Những
mánh mưu và luận điệu
tuyên truyền lừa bịp của
họ không thể kể hết và
phân tích trong phạm vi
bài viết này.
Vài Lời Kết.
Ngày
nay,Ki Tô Giáo, Công
Giáo và Tin Lành, dựa
vào thế lực giả tạo của
Vatican và thế lực của
cường quốc Mỹ, nấp sau
những chiêu bài như “đối
thoại”, “hòa hợp tôn
giáo”, “tự do dân chủ”,
“nhân quyền”, “tự do tôn
giáo” để thúc đẩy chương
trình bành trướng cải
đạo Á Châu, một lục địa
đông dân và tài nguyên
phong phú.Không còn mấy
giá trị đối với giới trí
thức hiểu biết, mất dần
ảnh hưởng trong những
quốc gia văn minh tiến
bộ, Ki Tô Giáo phải tìm
đất sống ở những nơi
tình trạng xã hội chưa
ổn định, dân trí còn kém
mở mang, và dân chúng
còn nghèo khó, còn chịu
nhiều bất công xã hội.Á
Châu là miếng mồi ngon
nhất, thích hợp nhất, từ
đó nền “Thần học Ki
Tô Giáo theo cung cách Á
Châu” đã được đề
xướng để thực hiện âm
mưu xâm lăng văn hóa và
tôn giáo Á Châu của Ki
Tô Giáo.Âm mưu
này có thành tựu hay
không, tất cả tùy thuộc
thái độ của các Giáo hội
Phật Giáo địa phương và
chính sách giáo dục và
tôn giáo của các chính
quyền địa phương ở Á
Châu.
Qua
sự phân tích ở
trên,chúng ta đã biết
rõ thực chất của cái gọi
là “Thần học Ki Tô
Giáo theo cung cách Á
Châu” là như thế
nào.Đó chẳng qua chỉ là
một tập hợp những thủ
đoạn truyền đạo xảo
quyệt, bất chính, bất
lương trí thức của những
tổ chức thế tục mang
danh tôn giáo.Cho nên
chúng ta không lấy gì
làm lạ trước những phản
ứng của Á Châu để đối
phó với sách lược Cải
Đạo Á Châu của Ki Tô
Giáo. Thái Lan đã có
những phản ứng tích cực
trước những thủ đoạn bất
chính của Ki Tô
Giáo.Trung Quốc có
chính sách rất cứng rắn
đối với Ki Tô Giáo và
mới đây đã tự tấn phong
vài Giám mục Công Giáo
bất kể đến những phản
đối của Vatican muốn giữ
độc quyền trong vấn đề
này.Lòng yêu nước của
dân Nhật đã vô hiệu hóa
sự xâm nhập của Ki Tô
Giáo vào trong xã hội
Nhật.Còn Việt Nam thì
sao?
Theo thiển ý,
Phật Giáo có đủ sáng
suốt để đưa ra một sách
lược đối phó hữu
hiệu.Thật ra sách lược
này rất đơn giản.Chúng
ta chỉ cần đặt nỗ lực
trong vấn đề mở mang dân
trí, đưa ra và phổ biến
rộng rãi trong quần
chúng những sự thật,
tuyệt đối chỉ là những
sự thật, trong Ki Tô
Giáo.Những sự thật này
nằm ngay trong cuốn Kinh
Thánh của Ki Tô Giáo và
lịch sử 2000 năm của Ki
Tô Giáo.Đây là một kho
tài liệu mà chúng ta có
thể khai thác đến vô
tận.Chúng ta hãy nhớ
lời của Samuel Butler:“Người
Ki Tô không sợ những tội
lỗi, họ chỉ sợ sự thật.”
Đối
với những nhà truyền
giáo nói lên những luận
điệu thần học để hạ thấp
Đức Phật, để tô hồng
quảng cáo cho Ki Tô
Giáo, chúng ta chỉ cần
đặt trước mặt họ cuốn
Thánh Kinh của Ki Tô
Giáo và bất cứ cuốn Kinh
Phật nào rồi bảo họ hãy
giải thích sự trái ngược
về luân lý và đạo đức
chứa trong hai cuốn sách
trên, và hãy so sánh tư
cách, trí tuệ của Đức
Phật với tư cách và trí
tuệ của Thiên Chúa trong
Thánh Kinh, cùng bảo họ
hãy so sánh lịch sử
truyền bá Đạo Pháp của
Phật Giáo với lịch sử
truyền đạo của Ki Tô
Giáo.
Tôi
tin rằng Phật Giáo sẽ
phải giữ một vai trò và
một địa vị xứng đáng,
quan trọng trong xã hội
Việt Nam, nhất là trong
thời đại mà những tệ
đoan xã hội theo nếp
sống Tây phương đã phần
nào làm suy yếu nền đạo
đức tinh thần cổ truyền
của xã hội Việt Nam.Tôi
tin tưởng rằng nếu giới
Phật tử chúng ta chịu
khó bắt tay vào làm
việc, đóng góp ý kiến
v..v.. về vị thế của
Phật Giáo trong thời đại
mới, thì Phật Giáo sẽ có
nhiều cơ hội phát triển,
và do đó sẽ có nhiều
đóng góp tích cực cho sự
an sinh của quần chúng
Việt Nam.
Vấn
đề cấp bách của chúng ta
ngày nay là phải xét xem
Ki Tô giáo có thể làm
được những gì với sách
lược Cải Đạo Á Châu của
họ, và sách lược này có
ảnh hưởng gì đến đất
nước Việt Nam.Sách lược
của giáo hội Công giáo
cũng như Tin Lành, chúng
ta đã rõ, là một sách
lược chủ trương xóa bỏ
mọi nền văn hóa phi
Ki-Tô, dùng bạo lực
thắng công lý, dùng gian
xảo, dối trá để lừa dối
dân gian, dùng bả vật
chất và mê tín dị đoan
để chiêu dụ và giữ tín
đồ, dùng những phép lạ
ngụy tạo để huyễn hoặc
làm mê mẩn đầu óc tín đồ
v..v.. Lịch sử thế giới
đã ghi rõ điều này, và
kinh nghiệm cay đắng của
Việt Nam đối diện với sự
xâm nhập của Công Giáo
còn ghi rõ trong sử
sách.Ở đây, sách lược
truyền giáo của Công
Giáo đã đưa tới những
cảnh bất hòa trong những
gia đình nào có người bỏ
tôn giáo truyền thống
của gia đình, của dân
tộc, để tin theo những
lời dụ dỗ huyền hoặc của
Công Giáo, từ bỏ không
còn tôn trọng những lễ
tiết truyền thống trong
gia đình.Công Giáo cũng
đã đưa tới những cảnh
Lương Giáo nghi kỵ, thù
nghịch, tàn sát lẫn nhau
như lịch sử đã chứng
tỏ.Chính quyền và người
dân Việt Nam cần nghiên
cứu kỹ để biết rõ những
âm mưu lũng đoạn quốc
gia Việt Nam, và nhất là
thái độ “không đội trời
chung” của Công Giáo đối
với Cộng Sản, để biết
đường mà tránh đi trên
con đường đưa tới sự tự
hủy diệt.Thế lực của
Công Giáo hoàn vũ ngày
nay chỉ là một lớp sơn
phết bên ngoài, thực lực
càng ngày càng yếu,
không còn nắm quyền sinh
sát như ngày trước, cho
nên muốn gì giáo hội chỉ
còn biết cầu nguyện.
Do đó
chúng ta cần có những
biện pháp đối phó.Tại
sao lại phải đối
phó?Bởi vì KiTô giáo
chưa hề thay đổi trong
sách lược truyền đạo, và
sách lược này luôn luôn
xúc phạm đến các tôn
giáo và các nền văn hóa
truyền thống địa phương.Ki
Tô giáo không thể chấp
nhận ý tưởng hòa hợp tôn
giáo theo quan niệm đa
tôn giáo bình đẳng trên
thế giới.Mục
đích tối hậu của Ki Tô
Giáo là xóa bỏ những nền
văn hóa phi-Ki-Tô để
thay vào đó bằng nền văn
hóa Ki Tô Giáo, một nền
văn hóa chỉ có giới chăn
chiên và con chiên, từ
đó họ mới có thể ngự trị
trên những tín đồ thấp
kém và vơ vét của cải
thế gian như lịch sử đã
chứng tỏ ở Âu Châu.Đây
là một thái độ nguy
hiểm, phương hại đến nền
hòa bình thế giới.
Trên
đây chỉ là vài ý kiến
của một cư sĩ Phật Giáo
Việt Nam trong thời đại
mới.Đối với Phật Giáo
Việt Nam, tôi chỉ có một
hi vọng.Đó là,trong
mục đích tìm ra một
hướng đi đích thực cho
Phật Giáo Việt Nam trong
thế kỷ 21, Phật tử chúng
ta, tăng cũng như tục,
hãy tích cực học hỏi để
thấu hiểu và hội nhập
được những chân lý vô
ngã, vô thường của Đức
Phật, ngồi lại với nhau,
xóa bỏ những khác biệt
có tính cách cục bộ, lấp
đi cái hố ngăn cách giữa
những Giáo Hội Phật Giáo
ở trong nước cũng như ở
hải ngoại, để có thể
định một đường hướng
tương lai cho đạo Phật ở
Việt Nam, một đường
hướng có lợi cho dân tộc
và Đạo Pháp. Tôi ước
mong các vị tôn đức
trong Phật Giáo hãy rút
lấy những kinh nghiệm
trong quá khứ, nhận rõ
tình trạng Phật Giáo
hiện nay, hướng dẫn giới
cư sĩ chúng tôi, ngồi
cùng với nhau để lái con
thuyền Phật Giáo Việt
Nam thuận buồm xuôi gió
trên giòng chấn hưng và
phát triển Phật Giáo ở
Việt Nam.
Cuối
cùng, trong mục đích xây
dựng, tôi xin đặt một
vấn đề trước Phật Giáo
Việt Nam.Như trên tôi
đã trình bày, hào quang
Phật Giáo đã chiếu tỏa
trên toàn cõi Việt Nam
trong 2000 năm.Nhưng
những hào quang đó có
thể duy trì được bao lâu
với hiện tình Phật Giáo
Việt Nam ngày nay và
trước âm mưu cải đạo Á
Châu của Ki Tô Giáo?Đây
là một câu hỏi lớn mà
tôi xin đặt trước quý vị
tôn đức trong Phật Giáo
nơi quê nhà.Kinh điển,
giáo lý sâu sắc của Phật
Giáo có đủ để chuyển hóa
tâm linh con người
không?Khi xưa, người
dân tìm đến Phật Giáo
qua cái gì, phải chăng
qua cái gương đạo đức,
tác phong thoát tục của
các bậc xuất gia?Sức
mạnh của Phật Giáo là ở
đâu?Phải chăng chỉ là ở
bộ áo cà sa và những
nghi thức ma chay cúng
tế?Hay ở vài hình thức
vật chất bên ngoài
v..v..?Ai cũng biết sức
mạnh của Phật Giáo là ý
thức được lý vô thường,
buông bỏ chấp ngã, chấp
danh, chấp tướng, đoàn
kết sống trong lục hòa,
và ý thức được sức mạnh
của Phật Giáo là sức
mạnh tinh thần, sức mạnh
đạo đức của các bậc tu
hành, sức mạnh của
chuyển hóa v..v.. chứ
không phải là những
quyến rũ của danh, lợi,
địa vị, quyền lực, vật
chất v..v...Tôi chỉ đặt
vấn đề trước quý vị,
hiển nhiên quý vị là
những người biết rõ hiện
tình Phật Giáo nơi quê
nhà hơn ai hết, và cũng
hiển nhiên là quý vị có
trách nhiệm trước lịch
sử về sự hưng thịnh hay
suy thoái của Phật Giáo.
__________________________________________________________
Tài Liệu Tham
Khảo:
1.
Mainstream churches in
the West appear to be
dying as societies that
are increasingly secular
see less need for God.
2.
100000 Roman
Catholic priests have
walked out in the last
20 years – more than one
every two hours.Almost
half of all American
priests will leave –
most often, to marry –
before the 25th
anniversary of their
ordination.The Vatican
won’t talk about this
exodus, yet it is the
most grievous crisis to
face the Church since
the Protestant
Reformation.
3. At a
special synod in 1999,
the bishops of Europe
declared that the
peoples of the entire
continent had decided to
live “as though God did
not exist”.
4.
According to the
National Conference of
Brazilian Bishops, some
600000 Catholics leave
the Church each year.
5. Most
important, the impact of
the scientific
perspective is having
now that even scholars
working under a
conservative Catholic
imprimatur agree that
much of what we know of
Jesus is myth...
Scholars have known the
truth – that Jesus was
nothing more than a man
with a vision – for
decades; they have
taught it to generations
of priests and
ministers, who do not
pass it along to their
flocks because they fear
a backlash of anger.So
the only ones left in
the dark are ordinary
Christians.
6.With
the rediscovery of the
scientific method in
16th-century Europe and
the subsequent
evolvement of the
Enlightenment during the
18th-century, it was
inevitable that a more
rational analysis of
Scripture would
occur.In a world
becoming scientifically
oriented, descriptions
of walking on water, of
demons, angels,
resurrection stories,
and other phenomena grew
increasingly
unacceptable as
historical realities.
In
1835-1836, The Life of
Jesus Critically
Examined, by D. F.
Strauss, referred to
some NT narratives as
"myth" and defined
thoseunhistoricalelementsas
expressing a series of
religious
ideas.Today,analytical
studies continue to
support and confirm this
assertion.The majority
of scholars regard the
following NT accounts
and Church-developed
doctrines as myth:
1.The virgin birth
2.The Incarnation (God
in human form; that is,
God as Jesus)
3.The work of Atonement
(plan for salvation)
4.The resurrection
5.The ascension (Jesus'
bodily ascent into
heaven 40 days after the
resurrection)
6.The Second Coming
(the return of Jesus to
raise the dead and to
summon all to
the
Last Judgment)
7.The Last Judgment
(the judgment of all by
God at Christ's Second
Coming)
7.We
human beings do not live
in sin.We are not born
in sin.We do not need
to have the stain of our
original sin washed away
in baptism.We are not
fallen creatures who
will lose salvation if
we are not baptized... A
savior who restores us
to our prefallen status
is therefore
pre-Darwinian
superstition and
post-Darwinian nonsense.
8.Beliefs
in supernatural beings
have vanished from our
culture.Any general
serious belief in God is
fading in our
culture.God has lost
his spatial location as
a monarch in heaven.He
has lost his temporal
precedence to the
universe as its Creator
ex nihilo.It is not God
is being relegated to a
remote region.It is not
that God has become a
bodiless abstraction (a
sexist It).It is the
realization that there
is no God to which to
relate.
9.Christianity
has become irrelevant,
in the minds of so many
thoughtful persons of
good will and honesty,
because it requires so
much participation in
nonsense.
Whenever someone claims
to be the representative
of God on earth, or "the
Vicar of Christ on
earth", or any such
thing, he is asking the
world to believe in
nonsense.It is alarming
how many millions still
believe it.
10.
European scholars were
scrutinizing the Bible
more closely than ever
before.They had
concluded that it (the
Bible) was not, as
Christians had long
believed, a book
dictated by God and
therefore infallibly
true.It was, instead, a
disorderly anthology of
ancient myths, legends,
history, law,
philosophy, sermons,
poems, fiction, and some
outright forgeries.
11.There
is very little, if
anything, that is
original in the teaching
attributed to
Jesus.Like the myth of
Jesus itself, the
sentiments he expresses
are a hodgepodge of
aphorisms and moral
convictions that can be
found in the ancient
Egyptian, Babylonian,
Persian, Greek,
Buddhist, Confucian, and
Hindu religions...But
one thing is
certain:Christianity, a
late-comer in the
history of religion,
merely plagiarized
sentiments from Judaism
and the so called pagan
religions.In his book
Sources of Morality
in the Gospels,
Joseph McCabe [a
Catholic priest] quoted
the moral views
attributed to Jesus in
the gospels and in
parallel columns gave
exact moral equivalents
from Jewish and pagan
writers.
12.The "Awakening of
the West" is a
beautifully written
history of the Encounter
of Buddhism with the
West during the past
2000 years - a chronicle
of missed opportunities,
cultural arrogance,
political tragedy, and
unfulfilled
dreamd.Since the time
of Alexander the Great,
European kings and popes
longed for the power to
be gained through the
conquest of Asia.They
sent periodic streams of
envoys and missionaries
to establish contact
with the "infidels," but
the European's
narrow-mindedness
prevented them from
learning much at all
about Buddhism.
Buddhism is said to be
the fastest growing
religion and one of the
most influential
spiritual movements in
the West.
13. Our
theology, however, has
become a scholar's
game.It is a code of
rules accumulated in the
petty wars of religious
bitterness.It is a tale
of tired truths, which
only serve to rob man of
personal responsibility
and reduce him to the
listlessness of a
frightened
slave.Theology took
away man's mind and left
him memorized words...
This is the theology I
learned and transmitted
in every confession I
heard, every class I
taught, every sermon I
gave to the
guilt-infected flock.
14.It's
a shame... Granted,
theology - the study of
God - suffers from the
suspicion that it has no
subject, or at least
none we can study.It is
the only field with
experts who don't know
what they are talking
about. Their subject
matter being
inaccessible,
theologians must resort
to the odd couple of
imagination and
authority... Christian
thinkers now have the
job of showing that
scripture makes sense,
is consistent, and
appears morally
defensible.This can be
difficult.
15.
Theology: an effort to
explain the unknowable
by putting it into terms
of the not worth
knowing.
16. I
consider Christian
theology to be one of
the great disasters of
the human race..
17.
Among the intelligent
classes of Europe
andAmerica, Christian
theology is practically
dead.
18.Whithout
peace between the
religions, war between
the civilizations.No
peace among the
religions without
dialogue between the
religions.No dialogue
between the religions
without investigation of
the foundations of the
religions.
19. If
people are poor and
hungry, they can be
easily converted to
Christianity,
particularly into the
Catholic Church.Their
schools, their
hospitals, their
orphanages are nothing
but factories for
converting people into
Catholics.