Do vậy, lịch sử Phật giáo Việt Nam phải được trình bày như thế nào để phản ánh được sự thật sinh động và mối quan hệ mật thiết đó? Ðây là một vấn đề không đơn giản, bởi những khó khăn nhất định, đặc biệt là về tư liệu, mà chúng ta gặp phải.
Với khuôn khổ của bài giới thiệu tổng quan về lịch
sử Phật giáo Việt Nam, đối tượng là học viên trong chương trình Phật học
hàm thụ năm thứ ba, chúng tôi không thể trình bày các vấn đề một cách
tường tận, đặc biệt là các dữ kiện và quan điểm lịch sử mới. Nếu muốn
tìm hiểu một cách kỹ lưỡng hơn, thì xin tham khảo các sách và tài liệu
chúng tôi sẽ giới thiệu trong phần cuối bài cũng như trong các phần
trích dẫn.
Vả lại, nghiên cứu lịch sử là một địa hạt luôn sôi
động với các phát hiện mới, hoặc có thể là bổ sung hoặc có thể làm thay
đổi các quan điểm cũ. Và trong những thập niên gần đây, lĩnh vực này đã
được sự quan tâm lớn của giới làm công tác nghiên cứu văn hóa, lịch sử
nước nhà (1), đáng chú ý hơn cả là công trình Lịch sử Phật giáo Việt
Nam của tác giả Lê Mạnh Thát vừa mới xuất bản (2). Với tinh thần đó,
những gì được giới thiệu ở đây cũng vậy, chúng tôi cố gắng cập nhật
những phát hiện và quan điểm mới về lịch sử Phật giáo dân tộc để góp
phần giúp học viên có những kiến thức cơ bản về truyền thống và bản sắc
của dân tộc nói chung và Phật giáo Việt Nam nói riêng. Từ đó làm cơ
sở để tìm hiểu và góp phần hiểu thêm, hiểu chính xác hơn về nền Phật học
Việt Nam.
Nội dung của phần Tổng quan về lịch sử Phật giáo
Việt Nam
này trình bày qua năm thời đại, chia thành 3 bài. Bài 1 là Phật
giáo từ thời du nhập đến sự ra đời của Nhà nước độc lập Vạn Xuân thế kỷ
thứ VI. Bài 2 là Phật giáo từ Nhà nước Vạn Xuân của Lý Nam Ðế đến thời
Trần Nhân Tông. Bài 3 là giai đoạn Phật giáo từ thời ngài Trần Nhân Tông
đến cận đại.
Phần 1 : Phật giáo Việt Nam từ Du nhập đến thời Lý Nam Ðế với sự ra đời của Nhà nước độc lập Vạn Xuân
Một quan niệm thông thường khi nói về Phật giáo
giai đoạn này là không ít người cho rằng tư liệu nghiên cứu hiện quá ít,
nếu không nói là nghèo nàn hay thậm chí có thời kỳ không có. Nói khác
đi, vô hình trung đánh giá Phật giáo giai đoạn này là không phát triển,
gán lý do cho hoàn cảnh xã hội, nói thẳng ra là vì đất nước ta bị ngoại
bang [phương Bắc] đô hộ. Tuy nhiên, dẫu cho ở hoàn cảnh nào, lúc đất
nước độc lập cũng như khi bị xâm lăng, sau khi hòa nhập với văn hóa bản
địa, Phật giáo vẫn có mặt trong sức sống của nền văn hóa, trong cuộc đấu
tranh bền bỉ và mãnh liệt chống lại âm mưu nô dịch của của ngoại xâm,
để tồn tại và góp phần làm nên một tính cách bất khuất của dân tộc mà
chúng ta hằng tự hào, và thành quả cụ thể của nó là sự ra đời của Nhà
nước độc lập Vạn Xuân với sự kiện xưng đế của Lý Bôn vào năm 544. Những
dữ kiện lịch sử mới trong sách Lịch sử Phật giáo Việt Nam
của tác giả Lê Mạnh Thát đã phần nào cho thấy điều đó. Thừa kế những
thành quả của các nhà nghiên cứu, các công trình hiện có, chúng tôi cố
gắng trình bày được phần nào tinh thần trên. Nhưng trước hết, chúng ta
đi vào tìm hiểu những điểm cơ bản về vấn đề con đường du nhập của Phật
giáo vào nước ta, niên đại và trung tâm Phật giáo đầu tiên, sau đó sẽ
lần lượt tìm hiểu các vấn đề khác để có thể hình dung và đánh giá sơ bộ
tình hình Phật giáo ở nước ta trong giai đoạn phát triển đầu.
I. Con đường và Niên đại Du Nhập
Vị trí địa lý của nước ta nằm ở bán đảo Ðông Dương,
trên con đường giao thông đường bộ cũng như đường thủy giữa hai lục
địa, nơi sản sinh những nền văn minh lớn của loài người là Ấn Ðộ và
Trung Quốc. Do đó, từ rất sớm, qua con đường buôn bán, các nền văn hóa
của hai chiếc nôi văn minh này đã đi theo các đoàn thương nhân đến với
nước ta, trong đó có Phật giáo.
Theo Thiền uyển tập anh (3), một bộ sách
quan trọng về các vấn đề lịch sử, tư tưởng, văn học của Phật giáo Việt
Nam nói riêng và của dân tộc nói chung, thì Phật giáo được truyền vào
nước ta trực tiếp từ Ấn Ðộ, trước cả Trung Quốc. Trong tiểu sử Thiền sư
Thông Biện (? -1134), một vị Quốc sư ở đời Lý, có chép cuộc đối thoại
giữa Ngài và Hoàng thái hậu Ỷ Lan về nguồn gốc của Phật giáo Việt Nam,
trả lời của vị Quốc sư này, đoạn dẫn những ghi nhận của Pháp sư Ðàm
Thiên (542-607) trình với vua [Trung Quốc] Tùy Cao Tổ, có chi tiết: "Một
phương Giao Châu, đường thông Thiên Trúc, Phật pháp lúc mới tới, thì
Giang Ðông chưa có, mà Luy Lâu lại dựng chùa hơn hai mươi ngôi, độ Tăng
hơn năm trăm người, kinh dịch mười lăm quyển..." (4). Như vậy, Phật giáo
được du nhập nước ta (thời bấy giờ là Giao Châu) trực tiếp từ Ấn Ðộ,
nhưng chính xác vào năm nào thì chưa thấy ai khẳng định. Tuy nhiên, điều
chắc chắn là vào khoảng thế kỷ thứ II dương lịch (từ đây trở đi viết
tắt là dl), Phật giáo đã trở nên thịnh hành ở nước ta với một cơ sở mạnh
mẽ thể hiện qua hệ thống những cứ liệu về số lượng Tăng sĩ, chùa chiền,
thành quả của công tác dịch thuật kinh điển, v.v... tại trung tâm Luy
Lâu. Với tình hình phát triển vào nửa cuối thế kỷ thứ II như vậy, dứt
khoát nó phải được hình thành trên cơ sở ban đầu khá lâu.
Nếu liên kết với những sự kiện khác, như là truyền
thuyết Chử Ðồng Tử học đạo với nhà sư Phật Quang; sự kiện Bát Nàn phu
nhân, một nữ tướng của Hai Bà Trưng, xuất gia sau cuộc kháng chiến vệ
quốc thất bại năm 43 dl; và, những xác nhận về tín ngưỡng của người Việt
mà Dương Phù đã ghi lại, rằng khoảng 100 năm sdl dân chúng tại nước ta
có trồng một loài hoa [uất kim hương] dùng để cúng Phật; v.v...Một hiện
trạng Phật giáo sinh động như thế chắc chắn phải là kết quả của một quá
trình đâm chồi nẩy lộc trước đó khá lâu trên mảnh đất này. Như vậy, Phật
giáo đã có mặt ngay tại nước ta từ những năm đầu của kỷ nguyên dl, nếu
không nói là sớm hơn. Cũng có quan điểm cho rằng, Phật giáo truyền vào
nước ta có thể là vào thời vua A Dục (Asoka) ở thế kỷ III trước dương
lịch (từ đây trở đi viết tắt là tdl) với sự hiện diện của đoàn truyền
giáo do Sona dẫn đầu; nhưng đây mới chỉ là giả thuyết, điều này cần được
xác minh bằng các cuộc khảo cổ tại một số địa điểm nghi vấn là có khả
năng còn các chứng cứ lịch sử quan trọng ở khu vực chùa Nê Lê (Tam Ðảo),
núi Quỳnh Viên (Cửa Sót, Hà Tĩnh)...
Vậy, về con đường du nhập, các nghiên cứu mới đây
cho biết rằng, Phật giáo từ Ấn Ðộ du nhập nước ta chủ yếu theo đường
biển, một phần khác là theo đường bộ, con đường mà các nhà sử học thường
gọi là "Con đường Tơ lụa". Vào những năm đầu của kỷ nguyên dl, Phật
giáo đã phát triển trên đất nước ta với tư cách là một trong những hệ
thống tín ngưỡng, tôn giáo phổ biến trong quần chúng nhân dân, qua các
dữ kiện đã nêu trên.
II. Trung tâm Phật giáo Luy Lâu
Về sự hiện diện của trung tâm Luy Lâu trên đất nước
ra (thuở đó là Giao Châu) nay đã được giới nghiên cứu sử học khẳng định
rõ ràng. Ðây là một trung tâm Phật giáo hình thành sớm nhất trong khu
vực, trước cả các trung tâm của Trung Quốc như Bành Thành hay Lạc Dương.
Tuy nhiên, nó được hình thành từ lúc nào thì vẫn chưa thể xác định.
Những sử liệu còn lại chỉ cho chúng ta biết chính xác về tình hình của
trung tâm ở nửa cuối thế kỷ II dl, khi mà Luy Lâu đã là một trung tâm
Phật giáo hoàn chỉnh với số lượng khoảng 500 Tăng sĩ, xây dựng 20 chùa
và dịch được 15 bộ kinh (5). Với những con số như thế cho phép chúng ta
hình dung về tình hình hoạt động khá sôi động của Phật giáo ngay từ
những thế kỷ đầu du nhập và phát triển trên đất Việt, và chắc chắn nó
phải được hình thành từ trước đó khá xa.
Luy Lâu được Quốc sư đời Lý là Thông Biện nhắc đến
trong sách Thiền uyển tập anh, qua sự dẫn lại lời của sư Ðàm
Thiên tâu với một ông vua nhà Tùy là dữ liệu ít ỏi trực tiếp cho biết về
Luy Lâu mà chúng ta có được. Ngoài những lời trên, Quốc sư Thông Biện
không cho chúng ta biết thêm điều gì cụ thể hơn về tên của 20 ngôi chùa,
(việc độ) 500 vị Tăng sĩ và tên của 15 bộ kinh đã được dịch. Nhưng điều
đáng nói là, việc một trung tâm Phật giáo ở nơi bị đô hộ được nhắc đến
trong lời của một vị pháp sư Trung Quốc là Ðàm Thiên nói với vua Tùy là
Tùy Cao Tổ như thế là một minh chứng về tình hình phát triển rầm rộ của
Phật giáo tại nước ta ở thời điểm đó. Ðiều này thể hiện rõ hơn trong
phần sau mà chúng ta sẽ tìm hiểu, qua những thành quả cụ thể của nền
giáo dục Phật giáo, mà tài năng của các gương mặt Tăng sĩ, Phật tử là
minh chứng tiêu biểu và thuyết phục.
Với sự ra đời của Trung tâm Luy Lâu, Phật giáo Việt
Nam
được xem là một trong những trung tâm Phật giáo lớn và hình thành sớm
nhất tại vùng Viễn Ðông.
III. Tình hình Phật giáo trong giai đoạn đầu du
nhập
1. Người Phật tử Việt Nam đầu tiên
Trong sách Lịch sử Phật giáo Việt Nam tập 1,
bằng cách chứng minh qua truyền thuyết Chử Ðồng Tử, về niên đại xuất
hiện và giá trị lịch sử của nó, tác giả Lê Mạnh Thát cho rằng, Chử Ðồng
Tử là người Phật tử Việt Nam đầu tiên liên hệ và học Phật pháp trực tiếp
qua người thầy Ấn Ðộ là nhà sư Phật Quang tại núi Quỳnh Viên (Cửa Sót,
Hà Tĩnh ngày nay). Niên đại của Chử Ðồng Tử cũng được tác giả xác lập là
có thể khoảng vào thời Hùng Nghị Vương thứ nhất hoặc thứ hai, tức
khoảng thế kỷ II-III tdl (6). Nếu xem Chử Ðồng Tử và Tiên Dung là những
người Phật tử Việt Nam đầu tiên hiện biết được tên tuổi có nghĩa là xác
định được sự hiện diện của Phật giáo trên nước ta là vào thế kỷ thứ
II-III tdl.
2. Tiến trình tiếp thu và bản địa hóa Phật giáo
Một vấn đề cần được nhắc đến đầu tiên là trước khi
Phật giáo du nhập nước ta, tại đây đã có một nền văn hóa phong phú. Căn
bản của nền văn hóa này xây dựng trên cơ sở của nền văn minh nông nghiệp
với các thành tựu rực rỡ, mà cụ thể là ngoài những chứng tích của các
nền văn minh còn lại, như vào thời Hai Bà Trưng, tại nước ta đã có bộ Việt
luật, trong đó hơn 10 điều khác với Hán luật (7), những dấu tích về
ngôn ngữ Việt qua bài Việt ca còn sót lại trong thư tịch cổ
Trung Quốc (8), có hệ thống lịch pháp riêng, hoàn toàn khác với lịch
pháp phương Bắc (9), những tín ngưỡng đặc thù cổ xưa còn lưu lại trong
tín ngưỡng Phật điện đến tận ngày nay, và đặc biệt là nền văn hóa này có
sức mạnh tiếp thu và đã chủ động bản địa hóa Phật giáo, một yếu tố văn
hóa nước ngoài, để phù hợp với nó; và hơn thế nữa, biến nó trở thành một
trong những vũ khí sắc bén và uy vũ đối kháng âm mưu đồng hóa và nô
dịch về văn hóa của phương Bắc ngay từ những ngày đầu.
a. Tư tưởng Phật giáo tại nước ta trong buổi đầu
Tư tưởng Phật giáo được truyền bá đến nước ta trong
buổi đầu là gì? Giáo lý mà ông cha ta tiếp nhận đầu tiên, ít ra là vào
thời điểm xưa nhất mà chúng ta biết được, là theo hệ thống giáo lý nào?
Theo học giả Lê Mạnh Thát, đó là tư tưởng Phật giáo có tính chất quyền
năng. Nghĩa là quan niệm cơ bản như Phật là con người siêu nhiên, có khả
năng làm tất cả những điều ngoài óc tưởng tượng bình thường của con
người, như có thể biến hóa khôn cùng, có thể làm mọi điều theo ý muốn,
v.v...
b. Sự ra đời của tín ngưỡng Phật Pháp Vân, một sự
hòa nhập bước đầu giữa Phật giáo và văn hóa bản địa, hay chính là bước
Việt hóa Phật giáo và Phật giáo hóa văn hóa bản địa đầu tiên
Như đã nói, trước khi Phật giáo đến nước ta, tại
đây đã có một nền văn hóa phát triển rực rỡ với hệ thống các quan niệm
đặc thù trong đời sống văn hóa tinh thần, trong đó có tín ngưỡng sùng
bái các vị thần biểu tượng cho các yếu tố tự nhiên có ý nghĩa sống còn
đối với một nền văn minh nông nghiệp là thần mây, thần mưa, thần sấm,
thần sét. Là một triết lý phóng khoáng, không câu nệ giáo điều và cố
chấp hay chủ trương loại trừ các tín lý ngoài tôn giáo mình, Phật giáo
đến nước ta, theo các thương nhân Phật tử và Tăng sĩ Ấn Ðộ trong thời
gian lưu trú tạm thời để buôn bán, trao đổi hàng hóa, đã sớm ảnh hưởng
vào lối sống của người dân bản địa, và rồi được nhân dân ta từng bước
chấp nhận bởi sự gần gũi của nó, đặc biệt là trong tín ngưỡng, đời sống
của người Phật tử tại gia.
Nước ta vào khoảng thế kỷ thứ II có thể nói là có
một nền kinh tế khá mạnh, có chính sách mở cửa đón và đã thu hút nhiều
nước khác đến giao dịch buôn bán, trong đó có các đoàn thương nhân Ấn
Ðộ, và trong số họ có người là Phật tử thọ trì năm giới cũng như có sự
hiện diện các Tăng sĩ đi theo đoàn để cầu nguyện trong những chuyến vượt
biển đầy hiểm nguy. Họ đã đến dù không phải vì mục đích truyền đạo,
nhưng sự có mặt của họ, thông qua sinh hoạt tín ngưỡng của người Phật tử
hàng ngày, đã ảnh hưởng đến đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân ta.
Nếu nói Chử Ðồng Tử là người Phật tử đầu tiên mà
chúng ta biết được hiện nay, thì đạo Phật mà Chử Ðồng Tử và Tiên Dung
tiếp nhận từ nhà sư Phật Quang còn mang nặng tính chất Ấn Ðộ, đến những
người Phật tử Việt Nam tiếp sau, như Man Nương (người trở thành Phật Mẫu
trong tín ngưỡng của Phật giáo Việt Nam sau này, được thờ tại chùa Phúc
Nghiêm, làng Mãn Xá, gần Luy Lâu), đặc biệt là sự ra đời của tín ngưỡng
Phật điện (Tứ pháp) mà tiêu biểu là Phật Pháp Vân, đã thể hiện sự hòa
nhập của Phật giáo vào văn hóa vốn có của bản địa. Nói khác đi là nó
phản ảnh một quá trình bản địa hóa Phật giáo, và ngược lại, Phật giáo
hóa tín ngưỡng (văn hóa) bản địa một cách hòa bình và tự nhiên. Các vị
thần mà cư dân nông nghiệp nước ta thờ tự như thần mây, thần mưa, thần
sấm và thần sét được Phật hóa, trở thành Phật Pháp Vân, Phật PhápVũ,
Phật Pháp Lôi, và Phật Pháp Ðiện. Qua sự kiện này, chúng ta khẳng định
rằng Phật giáo ngay từ ban đầu không hề có sự chống đối với nền văn hóa
bản địa, và nền văn hóa bản địa cũng không có dấu hiệu gì phản kháng với
hệ thống triết lý này.
IV. Những gương mặt tiêu biểu và tình hình Phật
giáo từ thế kỷ II đến thế kỷ VI
Sau Chử Ðồng Tử và Tiên Dung, hai gương mặt được
xem là những Phật tử Việt Nam đầu tiên mà hiện nay chúng ta biết được,
có nhiều gương mặt hoặc là Tăng sĩ bản địa, hoặc từ nước ngoài đến như
Khâu Ðà La và Ma Ha Kỳ Vực (đến nước ta vào cuối thế kỷ thứ II), hay các
"sĩ nhân Trung Quốc đến tỵ nạn", có các nhân vật được sử sách nhắc
nhiều như Tu Ðịnh, Man Nương (sống khoảng 175-255)...đã sinh sống hoặc
đến ở nước ta một thời gian và đã chịu những ảnh hưởng nhất định; trong
đó có những Phật tử, cao tăng như Mâu Tử, Khương Tăng Hội, Ðạo Thanh,
Huệ Thắng, Ðạo Thiền... tiếng tăm không những vang trong nước mà còn
vọng đến kinh đô của kẻ đô hộ và họ là thành quả được đào tạo hay ít ra
là chịu ảnh hưởng sâu sắc bởi môi trường văn hóa dân tộc và Phật giáo
Việt Nam, có người đã "chống gậy Ðông du" sang truyền đạo ở xứ người, để
lại tiếng thơm muôn thuở. Chúng tôi sẽ điểm vài gương mặt tiêu biểu ở
giai đoạn này mà sử liệu hiện nay đã xác định.
1. Mâu Tử, người đầu tiên dùng Phật giáo làm cơ sở
để đánh tan luận điệu tự tôn dân tộc của dân tộc Hán
a. Ðôi nét về con người Mâu Tử
Tên tuổi của Mâu Tử gắn liền với tác phẩm nổi tiếng
Lý hoặc luận (10). Mâu Tử tên Dung, tự Tử Bác, nên có nơi gọi là Mâu
Bác, người Việt, có thời gian sống ở Thương Ngô, niên đại khoảng 198-230
(11). Mâu Tử là người đọc rộng biết nhiều, thông kinh làu sử, được đánh
giá là một trong những nhân tài nổi bật đương thời: "văn võ kiêm bị, có
tài chuyên đối". Gặp lúc Thương Ngô loạn lạc, ông đem mẹ trở về nước ta
(Giao Chỉ) rồi trở thành Phật tử. Năm 26 tuổi, ông trở sang Thương Ngô
để cưới vợ rồi về lại Việt Nam. Khoảng mười năm sau đó
thì mẹ mất, ông dốc lòng vào đạo. Khi Mâu Tử về Giao Chỉ thì nước ta
đang trong thời kỳ độc lập về chính trị với chính quyền do Chu Phù và Sĩ
Nhiếp (12) lãnh đạo. Dù được cử đi đô hộ, là ngoại tộc, nhưng khi đến
nước ta, có người đã bị Việt hóa và Phật giáo hóa, mà Chu Phù và Sĩ
Nhiếp là hai điển hình. Chính quyền của Chu Phù và Sĩ Nhiếp là những
chính quyền độc lập không lệ thuộc văn hóa Hán, "vứt thánh điển của tiền
thánh, bỏ pháp luật của Hán gia" để theo một quy cách mới, được xây
dựng trên cơ sở của một nền văn hóa mới vừa Việt Nam vừa Phật giáo. Phật
giáo nước ta thời bấy giờ do thế đã phát triển rực rỡ lắm rồi. Ðiều này
được xác nhận qua dữ liệu nói về trung tâm Luy Lâu đã nêu trước và qua
những quan điểm của Mâu Tử trong tác phẩm của ông. Ðó là bối cảnh đã sản
sinh những anh tài cho đất nước như Mâu Tử và là động lực để ông viết
nên tác phẩm Lý hoặc luận bất hủ. Là người tài giỏi, nhưng ông
không thích ra làm quan, đã từ chối nhiều lời mời của các đại diện chính
quyền trong thời gian ông sống ở Giao Chỉ như Chu Phù và Sĩ Nhiếp, cũng
như lúc về Thương Ngô.
Ðiều này sẽ được làm sáng tỏ hơn trong những quan
điểm của Mâu Tử ở tác phẩm Lý hoặc luận, ở chí khí tự tín và tư
tưởng đối kháng đã đánh tan luận điệu tự tôn dân tộc và khinh miệt các
dân tộc khác của Trung Quốc vào thời bấy giờ.
b. Vài nét về nội dung sách "Lý hoặc luận"
Lý hoặc luận được Mâu Tử viết năm 198, nội
dung các vấn đề được triển khai dưới hình thức những câu hỏi và trả lời,
tất cả có 37 điều. Khảo sát nội dung của 37 điều này, học giả Lê Mạnh
Thát chia nó thành 3 nhóm chính. Nhóm 1 trình bày tổng quát về Phật giáo
(điều 1 đến điều 3). Nhóm 2 tập trung bàn về những mối quan hệ giữa
Phật giáo và Nho giáo (điều 4 đến điều 28). Nhóm 3 tập trung phê phán
Ðạo giáo (điều 29 đến điều 37). Bằng những thủ pháp trình bày vấn đề tài
tình, thuyết phục và có hệ thống, tác giả của Lý hoặc luận đã
không những đề cao giá trị của đạo Phật (dĩ nhiên là đạo Phật mà Mâu Tử
đã tiếp thu được ở Giao Chỉ), mà với những nhận xét tinh tế, nhất là về
Nho giáo, ông đã phê phán các quan điểm sai lầm và cứng nhắc của nó một
cách kịch liệt. Ðiểm nổi bật của Lý hoặc luận là ở chỗ, qua sự
bài Nho và Lão giáo, đề cao Phật giáo, Mâu Tử đã đánh tan luận điệu tự
tôn dân tộc và thái độ khinh bạc các dân tộc khác của Trung Quốc. ơâng
đã khẳng khái tuyên bố, rằng "Thi Thư chưa phải là lời thánh hiền", "đất
Hán chưa hẳn là trung tâm của trời đất", đây là đòn chí mạng đánh vào
óc tự tôn và hẹp hòi của văn hóa Hán lúc bấy giờ cũng như cả sau này.
Giá trị cơ bản của tác phẩm Lý hoặc luận là gì? Theo học giả Lê
Mạnh Thát, "trong bối cảnh văn hóa Việt Nam thời Mâu Tử, Lý hoặc luận
không phải viết để xiển dương Phật giáo, mà là cuộc tổng kết cuộc đấu
tranh về văn hóa, giữa văn hóa Việt Nam đối với văn hóa phương Bắc, mà
chủ yếu là Phật giáo đối với Nho giáo..." (13). Bối cảnh văn hóa thời
Mâu Tử là như thế nào? Ðấy là lúc đất nước ta bị Bắc thuộc. Chính quyền
đô hộ sử dụng chính sách "đức giáo" để cai trị, nhưng thực chất là áp
đặt văn hóa Hán để âm mưu đồng hóa dân tộc ta. Họ đem Kinh Thi, Kinh Thư
ra dạy cho người Việt, và tuyên truyền tư tưởng độc tôn "đất Hán là
trung tâm của trời đất". Trong Lý hoặc luận, Mâu Tử đã phân tích
vạch trần những điều man trá đó một cách hùng hồn. Qua những phê phán về
Nho giáo và Lão giáo, ông đã cho thấy rằng hai hệ tư tưởng này không có
quan hệ với Phật giáo và văn hóa Việt Nam. Lập trường đối thoại
của Mâu Tử được thiết lập trên nền tảng của ý thức văn hóa dân tộc Việt
Nam và văn hóa Phật giáo, một nền văn hóa không bảo thủ và luôn cởi mở,
được nhân dân ta tiếp nhận và nhanh chóng được vận dụng làm vũ khí sắc
bén chống lại âm mưu đồng hóa và nô dịch văn hóa của nhà nước Trung
Quốc, cụ thể là qua tư tưởng của Lý hoặc luận mà chúng ta biết
được cho đến tận hôm nay. Xu hướng này luôn được thể hiện rõ qua các
thời kỳ lịch sử, trước những yêu cầu của thời đại, trong giai đoạn xây
dựng nền độc lập tự chủ của dân tộc cũng như trong công cuộc bảo vệ đất
nước của nhân dân ta.
Những tư liệu về văn hóa và lịch sử của dân tộc ta
trước thế kỷ XV hiện có rất ít, các tác phẩm sớm hơn càng hiếm hoi do bị
thất lạc hoặc bị kẻ thù thủ tiêu ở các giai đoạn nước ta bị phương Bắc
xâm lăng và đô hộ. Do đó, Lý hoặc luận của Mâu Tử là một trong
những tư liệu rất quý hiếm. Nó không những cho phép chúng ta truy về
tình hình văn hóa, học thuật, tư tưởng, chính trị của đất nước ta ở thế
kỷ II và III sdl, mà còn cho biết vị trí hết sức quan trọng của Phật
giáo trong nền văn hóa dân tộc, và tư tưởng Phật giáo phổ biến của tổ
tiên chúng ta thời bấy giờ là tư tưởng Phật giáo mang tính quyền năng,
thí dụ quan niệm Ðức Phật có những năng lực siêu nhiên mà Mâu Tử đã viết
trong Lý hoặc luận: "Phật nghĩa là giác ngộ, nhanh chóng biến
hóa, phân thân tán thể, hoặc còn hoặc mất, hay lớn hay nhỏ, hay tròn hay
vuông, hay già hay trẻ, hay ẩn hay rõ, đạp lửa không cháy, đi dao không
đứt, gặp bẩn không dơ, mắc tai không họa, muốn đi thì bay, ngồi thì tỏa
sáng..." (14). Và đồng thời thông qua đó, chúng ta biết được tình hình
phát triển rực rỡ của Phật giáo Việt Nam ở thế kỷ thứ II và thứ III sdl,
mà gương mặt người Phật tử anh tài đại diện là Mâu Tử.
2. Khương Tăng Hội, vị Tăng Việt Nam đầu
tiên thành công rực rỡ trong công tác khai hóa truyền bá Phật giáo ở
nước ngoài (Trung Quốc)
a. Vài nét về con người Khương Tăng Hội
Khương Tăng Hội là một nhân vật đặc biệt không
những đối với Phật giáo nước ta mà ngay cả đối với Phật giáo Trung Quốc,
bởi Ngài là người đầu tiên sau khi học đạo ở Việt Nam đã mang những sở
học và sở tu của mình sang truyền bá ở Trung Quốc (nước Ngô), gây dựng
một phong trào học Phật ngay tại đó.
Ngài là người gốc Khương Cư (Sogdiane), nhưng tổ
tiên đã mấy đời di cư đến Ấn Ðộ. Cha Ngài là một thương nhân, đến nước
ta (Giao Chỉ) sống để buôn bán và sinh Ngài tại đây. Năm sinh của Ngài
không rõ, nhưng khoảng những năm 200-220 sdl. Về thân thế của mẹ Ngài
thì không thấy sử liệu nào ghi chép, nhiều nhà nghiên cứu giả thiết có
thể là một người con gái Việt Nam. Năm Ngài hơn 10 tuổi thì
cha mẹ qua đời. Sau khi chịu tang song thân, ngài xuất gia tu học, nổi
bật là người có tính siêng năng hết mực. Ðánh giá về con người Khương
Tăng Hội, Cao tăng truyện (15), một tác phẩm quan trọng ghi chép
tiểu sử các cao tăng Trung Quốc, viết: "Là con người học rộng và nhã
nhặn, có tầm hiểu biết, dốc chí hiếu học, rõ hiểu ba tạng (16), xem khắp
sáu kinh (17), thiên văn đồ vỹ, phần lớn đều biết, giỏi việc ăn nói,
lanh việc viết văn" (18).
Khương Tăng Hội sinh ra, xuất gia và thọ giới Tỳ
kheo ở nước ta, được thừa hưởng và trưởng thành trong môi trường văn hóa
Việt Nam và giáo dục Phật giáo Việt Nam, "một nền giáo dục tổng hợp
toàn diện", "không chỉ giới hạn trong chức năng truyền giáo, đào tạo ra
những con người Phật giáo, mà trên hết và trước hết là đào tạo ra những
trí thức dân tộc toàn diện có tính bách khoa am hiểu và lãnh hội được
tinh hoa dân tộc và nhân loại của thời đại mình, rồi trở lại đóng góp
bằng những thành quả của mình cho kho tàng hiểu biết của loài người"
(19). Bởi vậy, không ngạc nhiên gì khi các nhà viết sử Trung Quốc đã
nhận định về ngài Khương Tăng Hội như đã trích dẫn ở trên.
Sau khi được đào tạo trong môi trường giáo dục như
thế, Khương Tăng Hội lên đường vân du hóa đạo. Năm Xích Ô thứ mười theo
lịch phương Bắc, tức năm 247 dl, Ngài đến Kiến Nghiệp, thủ đô của nước
Ngô (nay là Nam Kinh, Trung Quốc) để hoằng pháp. Ngài đã hành đạo trên
đất nước này khoảng 33 năm, thuyết phục vua Ngô là Tôn Quyền dựng chùa
Kiến Sơ, một ngôi chùa đầu tiên tại đây, rồi quy y năm giới cho Tôn Hạo
(ở ngôi 264-280), và dịch thuật, chú giải nhiều kinh điển. Ngài mất vào
tháng Chín năm 280 (năm Thiên Kỷ thứ tư), không biết chính xác thọ bao
nhiêu tuổi, nhưng theo học giả Lê Mạnh Thát thì chắc chắn phải ngoài sáu
mươi, nếu chấp nhận giả thiết Ngài sinh vào khoảng những năm 200-220 dl
(20). Khương Tăng Hội là vị Tăng Việt Nam đầu tiên hiện biết được
đã thành công rực rỡ trong công tác hoằng pháp và đã để lại dấu ấn lớn
trong lịch sử Phật giáo không những của nước ta mà của cả Trung Quốc.
b. Vài nét về sự nghiệp hoằng pháp của ngài Khương
Tăng Hội và tình hình Phật giáo Việt Nam thế kỷ thứ III
Sự nghiệp phiên dịch và trước tác của ngài Khương
Tăng Hội khá lớn, có nơi nói tất cả gồm "14 bộ hợp thành 29 quyển" (21),
những nghiên cứu mới đây cho biết tác phẩm của Ngài gồm có Lục độ
tập kinh, Ðạo phẩm, Tạp thí dụ kinh, An ban thủ ý kinh chú, Pháp kính
kinh chú, Ðạo thọ kinh chú, An ban thủ ý kinh tự, Pháp kính kinh tự, Ðạo
thọ kinh tự, nhưng hiện đã bị mất phân nửa, chẳng hạn các tác phẩm Ðạo
phẩm, Pháp kính kinh chú, Ðạo thọ kinh chú và Ðạo thọ kinh tưạ
không còn. Tuy nhiên, qua những tác phẩm còn lại trên là những tư liệu
vô cùng quý giá, giúp chúng ta nhận thức đúng hơn về lịch sử và đời sống
văn hóa của dân tộc nói chung, và tình hình của Phật giáo Việt Nam sau
thời của Mâu Tử, tức thế kỷ thứ III, nói riêng.
Khương Tăng Hội là một thành quả cụ thể và sống
động của nền giáo dục dân tộc và giáo dục Phật giáo thời bấy giờ. Trong
con người vị Tăng này luôn âm ỉ ý thức về quê hương là đất nướcViệt.
Ðiều đó được Ngài thể hiện vào các dịch phẩm của mình, bảo lưu những đặc
trưng văn hóa của nơi chôn nhau cắt rốn, đặc biệt là về truyền thuyết
Trăm trứng trong Lục độ tập kinh (22), hay những tình cảm tha
thiết mà Ngài bộc bạch trong bài tựa (tự) kinh An ban thủ ý: "Hội
tôi, sinh ra tới tuổi vác củi thì cha mẹ đã qua đời. Các bậc tam sư
cũng theo nhau khuất núi, mỗi khi ngước nhìn đất trời không khỏi cảm
thấy xúc động, buồn thương rơi lệ...". Ðó là những thông tin hết sức quý
giá cho chúng ta biết về lịch sử khởi nguyên của dân tộc, về sức mạnh
của nền văn hóa Việt Nam vào giai đoạn những thế kỷ đầu kỷ nguyên dương
lịch, mà Phật giáo là nhân tố nuôi dưỡng và gìn giữ.
Qua con người Khương Tăng Hội, một vị cao tăng xuất
gia tu học trong môi trường văn hóa dân tộc và Phật giáo Việt Nam, đã
nói lên điều gì về tình hình Phật giáo nước ta thời bấy giờ? Về vấn đề
này, học giả Lê Mạnh Thát nhận định: "Phật giáo Việt Nam vào thời Khương
Tăng Hội đã xây dựng thành công một cơ cấu giáo dục khá hoàn chỉnh và
đa dạng, bao gồm toàn bộ tất cả các ngành tri thức có mặt ở thời đó, mà
không đóng khung vào một giới hạn chật hẹp nào. Người ta không chỉ học
ba tạng kinh điển, sáu kinh của Nho giáo, mà còn học tới cả khoa sấm vỹ
thiên văn, thậm chí cả khoa ứng đối, và đặc biệt truyền thống dân tộc
Việt Nam. Nền giáo dục ấy, vì vậy, có thể nói là đại diện cho nền giáo
dục Việt Nam thế kỷ thứ II và thứ III đối lập lại với nền giáo dục nô
dịch Trung Quốc đang tồn tại song song cùng nó. Nhờ thế, qua lịch sử nó
đã đào tạo ra những thiên tài đáp ứng được yêu cầu của đất nước, và được
tiếp nối cho đến ngày nay" (23). Một nền giáo dục Phật giáo tự tin như
thế chỉ có thể tồn tại trong một môi trường đất nước có những độc lập về
văn hóa, và ở đó Phật giáo phát triển mạnh mẽ. Dĩ nhiên, nền giáo dục
này không thuần túy tôn giáo, mà hòa quyện trong đó là một ý thức dân
tộc sâu sắc. Con người, sự nghiệp và tư tưởng của Khương Tăng Hội là một
thí dụ điển hình.
Ðến thế kỷ thứ III, với Khương Tăng Hội và những
hoạt động hoằng pháp thành công của Ngài trên đất nước Trung Quốc, Phật
giáo Việt Nam đã phát triển rực rỡ và khẳng định một bản lĩnh và sứ mệnh
của Phật giáo đối với dân tộc mà Mâu Tử trước đó đã vạch đường. Ðể đánh
giá về vị thế của con người này trong lịch sử Phật giáo Việt Nam và
lịch sử dân tộc, tác giả của Lịch sử Phật giáo Việt Nam Lê Mạnh
Thát đã viết, "...lần đầu tiên Phật giáo nước ta đã thành công khi thực
hiện nghĩa vụ hoằng pháp của mình đối với thế giới và dân tộc ta, đã
khẳng định mạnh mẽ bản lĩnh văn hóa ưu việt của mình qua việc Ðông du
khai hóa của Khương Tăng Hội..." (24), và " ...dân tộc ta thông qua và
kết hợp chặt chẽ với Phật giáo đã xây dựng xong bức tường thành văn hóa
có khả năng chận đứng mọi âm mưu xâm lược và đồng hóa của kẻ thù, mà
Khương Tăng Hội là một cột mốc trong bức tường thành đó" (25). Ðấy cũng
chính là điểm đáng chú ý của Phật giáo nước ta ở thế kỷ thứ III. Con
đường này được tiếp nối sau đó với những gương mặt nổi bật hiện biết
được như các ngài Thích Huệ Thắng, Thích Ðạo Thiền, Ðại Thừa Ðăng,
v.v...
3. Ðôi nét về nhà dịch thuật Thích Ðạo Thanh
Ngoài ngài Khương Tăng Hội, thế kỷ thứ III còn có
tên tuổi Tăng sĩ Việt Nam cự phách khác hiện biết được là nhà dịch thuật
Việt Nam Ðạo Thanh (26) (sinh khoảng năm 220, mất năm 300), người đã
bút thọ cho bản dịch Pháp Hoa tam muội kinh (27) của Chi Cương
Lương Tiếp (28) dịch từ tiếng Phạn sang chữ Hán, lưu hành tại nước ta
khoảng sau năm 258. Qua ngài Ðạo Thanh và mối liên hệ trong bản dịch
kinh Pháp Hoa, chúng ta biết thêm về Chi Cương Lương Tiếp, một
nhà sư người gốc Ấn Ðộ đếân ở và làm việc tại Việt Nam vào
khoảng những năm 256.
Ngài Ðạo Thanh là người đã cộng tác với Chi Cương
Lương Tiếp trong công việc phiên dịch kinh điển, mà một trong những kết
quả hiện biết được là bút thọ bản dịch kinh Pháp Hoa từ chữ Phạn
sang chữ Hán. Việc phân trách nhiệm bút thọ bản dịch kinh Pháp Hoa
chứng tỏ rằng Ngài phải là người có một trình độ Phật học vững vàng, có
sự hiểu biết chắc chắn không những về Phạn ngữ mà còn thông thạo tiếng
Việt và Hán văn. Ðây lại là một bằng chứng về thành quả của nền giáo dục
Phật giáo chất lượng và uy tín tại nước ta ở giai đoạn bấy giờ; và việc
các nhà Phật học đến nước ta, cộng tác với các nhà sư Việt Nam, cho
biết nước ta là một trung tâm Phật giáo lớn trong khu vực, đủ sức hấp
dẫn để thu hút các nhà Phật học từ các nơi khác hội tụ về, và các nền
giáo dục Phật giáo nước ta đã đào tạo nên những con người thực chất, mà
những đại biểu ưu tú là các ngài Mâu Tử, Khương Tăng Hội, Ðạo Thanh...
Cũng qua việc ngài Ðạo Thanh hợp tác với nhà sư
nước ngoài là Chi Cương Lương Tiếp dịch kinh Pháp Hoa tam muội,
một bộ kinh có sự liên hệ chặt chẽ với phương pháp thiền định an ban do
Khương Tăng Hội xiển dương trước đó; nói đúng hơn, đây chính là cơ sởã
lý luận vững vàng cho phương pháp trên, cũng như là một trong những nền
tảng để giải đáp các thắc mắc nảy sinh trong quá trình đấu tranh để phát
triển của tư tưởng Phật giáo tại nước ta sau này.
4. Vu Pháp Lan và Vu Ðạo Thúy, hai danh tăng của
Phật giáo Trung Quốc đến Việt Nam vào thế kỷ IV
Phật giáo thế kỷ thứ IV thường bị hiểu một cách sai
lệch, không ít người cho rằng giai đoạn này Phật giáo nước ta không có
gì nổi bật, không có các gương mặt Phật tử và Tăng sĩ tiếng tăm vang dội
chẳng những ở trong nước mà còn cả ở nước ngoài như trước. Ðó là một
ngộ nhận hết sức sai lầm. Vào thế kỷ thứ IV, Phật giáo Việt Nam vẫn là
một trung tâm Phật giáo lớn ở phương Ðông, vẫn thu hút các danh nhân,
cao tăng ngoài nước tụ hội về, mà trường hợp các ngài Vu Pháp Lan
(khoảng 270-320) và Vu Ðạo Thúy (khoảng 285-315), hai nhân vật cự phách
trong học giới Phật giáo Trung Quốc, vị Tăng Ấn Ðộ Kỳ Vực với nhiều khả
năng linh dị, đã đến hoặc ghé qua nước ta là những thí dụ điển hình. Ðấy
là chưa kể đến những gương mặt như Chí Hàm, tác giả của Triệt tâm ký
(sống ở nước ta khoảng từ năm 300 đến 360), hay Hiền Pháp sư ,
người viết Minh tường ký nổi tiếng, v.v...
Theo Cao tăng truyện của Huệ Hạo, Vu Pháp
Lan người Cao Dương, xuất gia năm 15 tuổi, có tư chất thông minh khác
thường, tu học rất tinh tấn, đạo phong lẫy lừng núi sông, lại có tính
thích thưởng ngoạn phong thủy. Tương truyền, Ngài có nhiều khả năng khác
thường, ở chung với cọp mà không bị cọp hại, lại có thể thuần hóa nó.
Ðương thời, mặc dù được mọi giới trọng vọng, nhưng tự thấy chưa thỏa mãn
với những gì đã tiếp thu, Ngài quyết định lên đường đi Ấn Ðộ nhằm có
thể tham cứu kinh điển Phật giáo một cách đầy đủ hơn. Trên đường đi,
Ngài đã dừng chân ở Giao Châu, mắc bệnh rồi mất tại nước ta. Vu Pháp Lan
có nhiều học trò, nhưng nổi bật hơn cả là Vu Pháp Khai và Vu Ðạo Thúy,
hai nhà y dược tiếng tăm đồng thời là những nhà Phật học lớn. Hai vị này
là người đã chủ trương hai trong bảy trường phái Bát nhã học của Trung
Quốc (29).
Cũng Cao tăng truyện cho biết, Vu Ðạo Thúy
là người Ðôn Hoàng, cha mẹ mất lúc tuổi còn nhỏ, ở với người chú, là
người có lòng hiếu nghĩa hết mực. Năm 16 tuổi xuất gia làm đệ tử của
ngài Vu Pháp Lan. Vu Ðạo Thúy là người có học nghiệp cao minh, kiến thức
rộng rãi, không chỉ uyên thâm Phật học mà còn giỏi cả nghề y, nhân cách
thì thanh cao giản dị, tính cũng thích thưởng ngoạn phong cảnh núi non
sông nước. Người đời rất ngưỡng mộ tài năng và nhân cách của Ngài. Ngài
theo thầy là Vu Pháp Lan đi Ấn Ðộ, nhưng chưa đi hết chuyến hành trình
thì mất tại bình nguyên Bắc bộ của nước ta.
Sự kiện hai nhân vật Tăng sĩ tầm cỡ như thế chọn
con đường phương Nam để đi Ấn Ðộ và đã hiện diện ở Việt Nam vào thế kỷ
thứ IV (khoảng sau năm 307) dĩ nhiên không thể diễn ra trong không khí
im lặng, mà nhất định phải có những hoạt động trao đổi về học thuật Phật
giáo giữa họ với các cao tăng, các học giả huyền học bản xứ. Và do đó,
những vấn đề quan trọng trong tư tưởng và triết học Phật giáo như Bát
nhã, Không, Phật, Tâm, v.v... có thể đã được đem ra thảo luận một cách
sôi nổi. Nhưng đáng tiếc là hiện chúng ta chưa biết được gì nhiều. Hơn
thế nữa, cũng có khả năng hai nhân vật này đã ghé lại đây để tìm hiểu
thêm văn hóa và học ngôn ngữ để chuẩn bị cho việc đến Thiên Trúc, bởi
như đã nói, tại nước ta ở giai đoạn này có không ít người Ấn Ðộ đến sinh
sống và giao thương. Về mặt tư tưởng, có một đặc điểm đáng chú ý là,
học phong của hai vị Tăng trên mặc dù thuộc trường phái Bát nhã học,
nhưng bản chất nó, đặc biệt là đối với ngài Vu Pháp Lan, là tư tưởng
Phật giáo mang tính quyền năng, biểu hiện cụ thể qua việc hàng phục thú
dữ, điều được quỷ thần, mà tiểu truyện về Ngài trong Cao tăng truyện
đã chép. Ðây là điểm phù hợp với xu hướng chung của Phật giáo Việt Nam, xu
hướng Phật giáo quyền năng vốn có trước đó mà Mâu Tử và Khương Tăng Hội
đã từng quan niệm. Và, chính điều này là điểm lôi cuốn người Phật tử
Việt Nam
khi các Ngài sang nước ta, chứ không phải là học phong Bát nhã học của
họ.
Trước khi hai thầy trò tiếng tăm lẫy lừng Vu Pháp
Lan và Vu Ðạo Thúy đến và mất tại nước ta, có một nhà sư Ấn Ðộ là Kỳ Vực
đã ghé ở. Trong thời gian lưu lại đất Việt, cũng như hai nhân vật trên,
hành tích của ngài Kỳ Vực không thấy sử sách Trung Quốc ghi rõ, nhưng
qua hành trạng của Ngài, một người với những khả năng phi thường, có thể
qua sông mà không cần đò, xoa đầu cọp dữ, có thể biến hóa tùy ý, biết
được tiền kiếp của người khác...như một minh chứng cho mẫu người giác
ngộ mà Mâu Tử đã quan niệm trong Lý hoặc luận từ thế kỷ thứ II và
Khương Tăng Hội tiếp theo sau (thế kỷ thứ III) đã chỉ ra phương cách để
đạt đến mục tiêu đó là bằng pháp tu thiền định (an bang) gồm bốn giai
đoạn được viết trong bài tựa cho bản dịch An bang thủ ý của Pháp
sư An Thế Cao. Xu hướng Phật giáo quyền năng đến thế kỷ IV lại càng được
khẳng định, bổ trợ qua sự hiện diện của những vị Tăng Ấn Ðộ và Trung
Quốc có khả năng linh dị, khác thường như các ngài Kỳ Vực, Vu Pháp Lan,
Vu Ðạo Thúy... mà chúng ta hiện biết được.
Vậy, Phật giáo ở nước ta vào thế kỷ thứ IV vẫn phát
triển, nếu không nói là phát triển rực rỡ trong các phạm trù Phật giáo
do các ngài Mâu Tử và Khương Tăng Hội thiết lập nên ở hơn một trăm năm
trước, đó là nền tư tưởng Phật giáo quyền năng. Về mặt xã hội, Phật giáo
Việt Nam vẫn là một trong những trung tâm lớn được sự chú ý đặc biệt,
là nơi chọn dừng chân, hoặc đến ở tu học của nhiều danh tăng nước ngoài,
kể cả Ấn Ðộ và Trung Quốc; vẫn tồn tại một nền giáo dục toàn diện,
thành công trong công tác đào tạo nhân tài cho Phật giáo và đất nước,
như trường hợp ngài Ðạo Thiền, mà kiến thức lẫn đạo phong vang dội ở
Trung Quốc, được mọi giới trí thức và bình dân đều trọng vọng và kính
ngưỡng.
5. Sự kiện "sáu lá thư" trao đổi giữa hai vị Tăng
Việt Nam là Ðạo Cao và Pháp Minh với Lý Miễu, và cuộc đấu tranh tư tưởng
chuẩn bị cho một giai đoạn phát triển mới của Phật giáo Việt Nam
a. Về các nhân vật Ðạo Cao, Pháp Minh và Lý Miễu
Sáu lá thư trao đổi giữa hai vị Tăng Việt Nam là
Ðạo Cao và Pháp Minh với Lý Miễu là một trong những phát hiện quan trọng
của học giả Lê Mạnh Thát từ thư tịch chữ Hán của Trung Quốc (30), cống
hiến cho sự nghiệp nghiên cứu lịch sử dân tộc nói chung và lịch sử Phật
giáo Việt Nam nói riêng một tư liệu hết sức giá trị, đặc biệt là cho
biết về cuộc vận động tư tưởng của dân tộc và của Phật giáo ở giai đoạn
trước khi Nhà nước độc lập Vạn Xuân ra đời năm 544.
Ðạo Cao và Pháp Minh là hai vị Tăng người Việt Nam
(Giao Châu pháp sư), niên đại được xác định như sau: ngài Ðạo Cao sinh
khoảng năm 365 và mất năm 445, ngài Pháp Minh sinh khoảng năm 370 và
tịch khoảng năm 460. Ngài Ðạo Cao được biết thêm là tác giả của tác phẩm
Tá âm, Ðạo Cao pháp sư tập, nhưng đáng tiếc là nay đã mất. Ngoài
những thông tin ít ỏi trên, và những thông tin từ các lá thư cho biết,
chúng ta hiện chưa biết gì rõ hơn về thân thế và sự nghiệp của hai vị
Tăng uyên thâm này.
Về Lý Miễu thì cũng không khá hơn. Tư liệu Trung
Quốc ghi là sứ quân của Giao Châu. Tuy nhiên, trong số những người mà
chính quyền phương Bắc cử đi làm thái thú ở nước ta không thấy ai tên là
Lý Miễu. Có giả thiết cho rằng, Lý Miễu có thể là tên khác của Lý
Trường Nhân (khoảng 420-470) , hoặc cũng có thể là một người lãnh đạo
của nước ta, đứng đằng sau chính quyền "hữu danh vô thực" dưới danh
nghĩa là các thái thú để điều hành đất nước với sự độc lập về chính trị
cũng như văn hóa thường thấy trong giai đoạn này. Căn cứ vào cách xưng
hô của hai vị thầy của Lý Miễu (31), thì ông phải là một trong những vị
hoàng đế của nhà nước độc lập Việt Nam thời bấy giờ. Nhưng dẫu
thế nào đi nữa, khi tiểu sử của các nhân vật như Pháp sư Ðạo Cao, Pháp
Minh, Phật tử Lý Miễu chưa thể xác định rõ, thì sự kiện "sáu lá thư" vẫn
là một hiện thực lịch sử, có niên đại khoảng 435-455, và tại nước ta đã
diễn ra một cuộc vận động, đấu tranh tư tưởng gay gắt, mà nội dung của
sáu lá thư đã phản ánh được vấn đề chính của cuộc đấu tranh tư tưởng ấy.
b. Nguyên nhân sự ra đời của sáu lá thư hay tình
hình của Phật giáo Việt Nam thế kỷ V
Vấn đề nổi bật trong cuộc trao đổi giữa Lý Miễu với
các vị thầy của ông qua sáu lá thư là gì? Và lý do tại sao nó diễn ra
trong giai đoạn này? Ở đây không thể nói kỹ, mà chỉ nêu lên vài nguyên
nhân sơ lược tạm để hình dung bối cảnh của nó, đồng thời qua đó thấy
được tình hình của Phật giáo trong thế kỷ thứ V, thời điểm mà những tư
tưởng Phật giáo quyền năng do các ngài Mâu Tử và Khương Tăng Hội thiết
lập từ thế kỷ thứ II và III đang rơi vào khủng hoảng.
Sau hơn năm trăm năm du nhập, Phật giáo được tiếp
nhận và đã có nền tảng vững vàng. Người Phật tử không chỉ tin theo giáo
lý do những nhà truyền giáo tiên phong thiết lập nên, mà chủ động đặt
vấn đề đối với giáo lý đó. Sự hoài nghi và liên hệ so sánh giữa các hệ
thống tư tưởng, nói rõ hơn là giữa Phật giáo với Nho và Lão giáo, thậm
chí ngay trong nội thân các khuynh hướng tư tưởng của Phật giáo, đã tạo
nên một cuộc tranh luận sôi nổi vào thế kỷ thứ V ở Trung Quốc cũng như ở
nước ta.
Ở Trung Quốc, nổi bật đáng chú ý của cao trào đó là
sự ra đời của tác phẩm Quân thiện luận (32) của một vị sư nổi
tiếng đa tài là Huệ Lâm, người từng có một vai trò chính trị quan trọng
trong triều đại của Tống Văn đế cầm quyền, từng được mệnh danh là "Hắc y
tể tướng" (Tể tướng thầy tu). Trong đó, sư Huệ Lâm công kích Phật giáo,
nói đúng hơn là phê phán hiện trạng Phật giáo Trung Quốc đương thời,
một cách kịch liệt. Sư Huệ Lâm, qua tác phẩm này, bộc lộ ý đồ xã hội hóa
Phật giáo để nó trở thành một lực lượng tích cực dấn thân xây dựng đất
nước qua việc thiết lập một quan niệm Phật giáo dung hòa tư tưởng Nho
gia, đặc biệt là về mặt đạo đức xã hội, với thuyết "thù đồ đồng quy"
(33). Quan điểm này bị chống đối nhiều hơn là ủng h
Theo: Phật Học Hàm Thụ