I.
Phật giáo từ thời Vua Trần Nhân Tông đến Chúa Nguyễn Phúc Chu
Vua Trần Nhân Tông là một
trong những nhà lãnh đạo Phật tử có một vị trí hết sức quan trọng không
những đối với Phật giáo nước ta mà đối với cả dân tộc. Ngài là nhà tư
tưởng và là một nhà chính trị kiệt xuất. Trong thời gian lãnh đạo đất
nước, Ngài đã làm nên những trang sử vẻ vang cho dân tộc, đưa Phật giáo
Việt Nam phát triển đến chỗ cực thịnh. Phật giáo ở thời nhà Trần được
các tài liệu đề cập dưới nhiều góc độ, qua các gương mặt cự phách như
các vua Trần Thái Tông, người viết nhiều tác phẩm Phật học nổi tiếng như
Khóa hư lục, Thiền tông chỉ nam, Lục thời sám hối khoa nghi, Kim
cương tam muội kinh chú giải, Bình đẳng lễ sám văn; Tuệ Trung Thượng
sĩ Trần Tung (1230-1291), đệ tử của ngài Tiêu Diêu và là thầy của vua
Trần Nhân Tông, tư tưởng và hành trạng của Ngài được ghi lại trong tác
phẩm Tuệ Trung Thượng sĩ ngữ lục. Phật giáo đời Trần được nghiên
cứu một cách kỹ lưỡng, hiện có nhiều tài liệu để tham khảo và những đánh
giá đã khá toàn diện, nên ở đây chúng tôi chỉ nói sơ một số điểm cần
nhấn mạnh lại. Và, trước hết, chúng ta tìm hiểu đôi nét về con người của
ngài Trần Nhân Tông, những thiết định của nền Phật giáo do Ngài thiết
lập và nguyên nhân ra đời của dòng Thiền thứ tư, một dòng thiền được xem
là sản phẩm hoàn toàn của Việt Nam mà nó còn ảnh hưởng đến tận hôm nay.
1. Ðôi nét về con
người vua Trần Nhân Tông và sự ra đời của dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử
a. Ðôi nét về ngài
Trần Nhân Tông
Vua Trần Nhân Tông tên là
Trần Khâm (1258-1308), con của vua Trần Thánh Tông (Trần Hoảng), lên
ngôi năm 1278, đến năm 1293 thì tự nhường ngôi cho con là Trần Anh Tông
để làm thái thượng hoàng. Trong thời gian làm thái tử và ở ngôi, Trần
Nhân Tông đã hai lần lãnh đạo toàn dân đánh tan quân xâm lược Nguyên-
Mông năm 1285 và 1288. Trần Nhân Tông là một vị vua Phật tử thuần thành,
được học đạo trực tiếp với Tuệ Trung Thượng sĩ trong lúc còn làm thái
tử cũng như sau khi đã lên ngôi. Năm 1299, Ngài xuất gia, vào tu ở núi
Yên Tử và lấy pháp hiệu là Trúc Lâm cư sĩ, tự xưng là Hương Vân đại đầu
đà, người đời gọi Ngài bằng mỹ hiệu là Trúc Lâm Ðiều ngự (1), Ðiều ngự
Giác hoàng...
Là một nhà lãnh đạo cao
nhất của đất nước nhưng Trần Nhân Tông đã tự nhường ngôi lại cho con để
rút lui làm thái thượng hoàng. Tuy vậy, ngay cả khi đã xuất gia, vai trò
chính trị của Ngài vẫn không kém phần quan trọng. Ngài đã vân du giảng
Phật pháp tại nhiều trung tâm Phật giáo của nước ta thời bấy giờ, như
các chùa Phổ Minh, Sùng Nghiêm, Báo Ân, Vĩnh Nghiêm...và đi vào quần
chúng để truyền bá những nguyên tắc đạo đức căn bản của Phật giáo. Sách Tam
tổ thực lục chép rằng, năm 1304 Ngài "đi khắp các chốn thôn quê,
trừ bỏ các dâm từ và dạy dân thực hành thập thiện". Trước đó, Ngài đã
từng chống gậy vân du nhiều nơi, vào tận Bố Chính (Bố Trạch, Quảng
Trạch, thuộc tỉnh Quảng Bình ngày nay), lập am Tri Kiến ở đây. Năm 1301,
Ngài sang Chiêm Thành, gặp gỡ vua nước này và tạo được mối bang giao
hòa bình giữa hai nước bằng cách gả công chúa Huyền Trân cho vua Chế
Mân. Cuộc sang thăm đó đã đem về cho dân tộc thêm vùng đất rộng lớn là
hai châu Ô và Rí (2) mà không tốn một sinh lực nào.
Về việc xây dựng giáo
hội, Ngài đã thể hiện một tầm nhìn chiến lược khi chọn và đào tạo người
lãnh đạo kế tục là ngài Pháp Loa. Nền Phật giáo mà Ngài thiết định là
nền Phật giáo nhập thế, phục vụ dân tộc và xây dựng một xã hội lành mạnh
theo nền tảng của mười thiện nghiệp. Những quan niệm về Phật giáo của
Ngài hiện biết được chủ yếu là qua các bài Cư trần lạc đạo phú và
Ðắc thú lâm tuyền thành đạo ca. Sách Tam tổ thực lục cho
biết Ngài là tác giả của nhiều tác phẩm như Thiền lâm thiết chủy ngữ
lục, Trúc lâm hậu lục, Thạch thất mị ngữ, Ðại hương hải ân thi tập
và Tăng già toái sự, nhưng đã thất lạc khá nhiều, hiện còn một số
bài thơ được chép trong Việt âm thi tập, Toàn Việt thi lục. Ngài
mất năm 1308 tại Yên Tử, thọ 51 tuổi.
b. Bối cảnh ra đời
của dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử
Ở đời Trần, cả dân tộc
phải đối diện một mặt với các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm đầy cam
go để bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ, và mặt khác là nhiệm vụ phục hồi kinh
tế, khai khẩn đất đai ở những vùng đất mới, ổn định đời sống của nhân
dân. Trước xu thế đó, mọi nguồn tinh lực của dân tộc đều được huy động.
Và đó là bối cảnh để dòng thiền Trúc lâm Yên tử ra đời.
Ngài Trần Nhân Tông là
người lập ra dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử, và theo phả hệ thì dòng thiền
này xuất phát từ dòng thiền Vô Ngôn Thông. Bởi đệ nhất Tổ của Trúc Lâm
Yên Tử là học trò của Tuệ Trung Thượng sĩ. Ngài Tuệ Trung Thượng sĩ thì
học đạo với ngài Tiêu Diêu, ngài Tiêu Diêu là đệ tử của ngài ng Thuận
thuộc thế hệ thứ XV của dòng thiền vô Ngôn Thông.
c. Ðặc điểm của dòng
thiền Trúc Lâm Yên Tử
Tư tưởng của dòng thiền
Trúc Lâm là phát triển đỉnh cao của quan niệm "tức tâm tức Phật". Trong
bài phú Cư trần lạc đạo, ngài Trần Nhân Tông đã viết:
Nhân khuấy bổn nên ta
tìm Bụt
Chỉnh mới hay chính Bụt là ta.
Và trước đó, quan niệm
này đã được ngài Viên Chứng thức tỉnh vua Trần Thái Tông khi nhà vua bỏ
ngai vàng trốn vào núi để tìm đạo: "Trong núi vốn không có Phật. Phật
chỉ có ở trong tâm. Tâm lặng mà biết thì đó đích thị là Phật" (3). Tuệ
Trung Thượng sĩ thì nói: " Khi mê không biết ta là Phật, khi ngộ thì ra
Phật là ta" hay "Thân ta tức là thân Phật, không có hai tướng"
(4)...Chính quan niệm đó đã đánh thức sức sống mãnh liệt bên trong con
người thời bấy giờ và làm nên lẽ sống cao quý của thời đại, một thời đại
Phật giáo với nhiều sự kiện kỳ tích trong lịch sử, để lại nhiều kinh
nghiệm hết sức xương máu trong công cuộc chống ngoại xâm và xây dựng đất
nước.
Nền tảng chung là thế,
nhưng chúng ta dễ dàng nhận ra những đặc điểm của phương pháp tu hành ở
dòng Thiền này, nó không thuần túy pháp môn Thiền định mà bao gồm cả yếu
tố Tịnh độ. Theo ngài Trúc Lâm Ðầu Ðà thì những pháp môn Tịnh độ cũng
chính là Thiền. Ðây có thể nói là đặc điểm của Thiền tông Việt Nam.
Trong Cư trần lạc đạo phú, Ngài viết:
Miễn được lòng rồi,
Chẳng
còn phép khác.
Gìn tính sáng, tính mới hầu an,
Nén niềm vọng,
niềm dừng chẳng thác (...)
Tịnh độ là lòng trong sạch, chớ còn hỏi
đến Tây phương,
Di Ðà là tính soi sáng, mựa phải nhọc tìm về Cực
lạc...
Phật giáo ở đời Trần nói
chung và Phật giáo mà ngài Trần Nhân Tông thiết định nói riêng là một
nền Phật giáo nhập thế, đưa Phật pháp vào tận hang cùng ngõ hẻm của xã
hội và làm một chuẩn mực đạo đức, định hướng cho đời sống của nhân dân.
Và, như đã đề cập, nền tảng của nó được xây dựng trên cơ sở của mười
thiện nghiệp mà chính bản thân nhà vua sau khi xuất gia đã vân du khắp
nơi để quảng bá. Mẫu người Phật tử lý tưởng của nền Phật giáo này là
ngài Tuệ Trung Thượng sĩ, với tư tưởng "hòa quang đồng trần", như chính
lời của ngài Trần NhânTông đã ca ngợi: "Thượng sĩ sống giữa lòng thế
tục, hòa ánh sáng mình trong cuộc đời bụi bặm; trong mọi cuộc tiếp xúc,
Thượng sĩ luôn luôn giữ thái độ hòa ái nên chưa bao giờ gặp phải những
trường hợp phiền nghịch (...) Thượng sĩ không bị ràng buộc với hình
thức; khi thì ẩn tàng, khi thì lộ diện...". Chúng ta lại gặp tư tưởng
này trong bài phú chữ Nôm nói về việc ở giữa đời sống bình thường mà
hành đạo (Cư trần lạc đạo phú) của chính vị Tổ khai sáng dòng thiền này.
2. Về các ngài
Pháp Loa, Huyền Quang và Kim Sơn
Pháp Loa (1284-1330) tên
đời là Ðồng Kiên Cương, xuất gia năm 21 tuổi, là người được ngài Trần
Nhân Tông chọn để lãnh đạo giáo hội Trúc Lâm Yên Tử từ khi Ngài còn rất
trẻ, chỉ mới 24 tuổi (năm1308). Sau khi được giao phó trọng trách đứng
đầu giáo hội, Ngài đã có những cải cách về mặt tổ chức đáng kể, với
nhiều hoạt động Phật sự sôi nổi. Trong thời gian Ngài lãnh đạo, số lượng
Tăng sĩ và Phật tử tại gia, chùa tháp được Tăng lên rất nhiều, phong
trào tu học được đẩy mạnh và phổ biến trong các thành phần xã hội, đặc
biệt là ấn hành được Ðại tạng kinh. Ngoài ra, ngài Pháp Loa còn là một
tác gia lớn, người đã viết, biên soạn và biên tập khoảng 10 tác phẩm.
Ðáng tiếc là nhiều tác phẩm của Ngài đã thất lạc.
Ngài Huyền Quang
(1254-1334) là một trong những người kế tục ngắn ngủi của ngài Pháp Loa,
thường được gọi là đệ tam Tổ của dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử, tên đời là
Lý Ðạo Tái, người tỉnh Bắc Ninh, từng thi đỗ và làm quan. Năm 51 tuổi
xuất gia, từng học Thiền với ngài Trần Nhân Tông, và phụ giúp Ngài soạn
một số sách, sau khi ngài Trần Nhân Tông mất thì theo ngài Pháp Loa.
Nếu ngài Pháp Loa thường
được nhắc đến với những tài năng về mặt lãnh đạo và xây dựng giáo hội,
thì ngài Huyền Quang được biết đến là một tác gia văn học lớn của Phật
giáo và nền văn học của dân tộc đời Trần.
Ngài Kim Sơn (1300-1370)
cũng là một trong những đệ tử của ngài Pháp Loa, là nhà sử học Phật giáo
lớn, tác giả của Thiền uyển tập anh, Thánh đăng ngữ lục...,
những bộ sử Phật giáo Việt Nam xuất hiện sớm nhất trong lịch sử dân tộc
và Phật giáo nước ta, người đã có những đóng góp quan trọng để Phật giáo
phát triển mạnh mẽ. Tình trạng Phật giáo cuối thế kỷ XIV vẫn được phát
triển rầm rộ đến nỗi nhà nho Lê Quát đã vô tình mô tả trong lời than vãn
viết ở văn bia chùa Thiên Phúc (Hà Bắc), rằng: "Việc họa phúc của nhà
Phật rung động lòng người sao mà sâu và mạnh đến thế! Trên thì từ vương
công, dưới thì đến thứ dân, phàm lo việc Phật thì tuy hết của cải cũng
không tiếc gì. Ngày nay cúng tiền vào chùa tháp thì hớn hở như cầm tờ
chứng khoán để được báo đáp ngày mai. Cho nên từ kinh thành ở trong
cho đến châu phủ ở ngoài, khắp hang cùng ngõ hẻm, người ta không được
lệnh mà cứ theo, không thề thốt mà cứ tin, nơi nào có dân cư là nơi đó
có chùa Phật, phế rồi lại hưng, đổ rồi lại sửa, chuông trống lâu
đài, gần nửa dân cư lao vào đó." (5), qua đây chúng ta có thể hình dung
phần nào tình hình Phật giáo thời bấy giờ. Tuy nhiên, cuối đời Trần, bị
sự tác động của các nho thần như Lê Quát và Phạm Sư Mạnh với chủ trương
vọng ngoại, những người lãnh đạo bất tài đã không làm chủ được tình
hình, khiến cho xã hội ngày càng đi vào chỗ suy vi, và hậu quả là đưa
đến cuộc chính biến năm 1400 và họa mất nước vào năm 1407.
3. Ðôi nét về
tình hình Phật giáo sau thời ngài Kim Sơn
a. Cuộc nổi dậy của
sư Phạm Sư Ôn cuối đời Trần
Vào cuối nhà Trần, do sự
bất tài của những người lãnh đạo, bị cuốn theo xu hướng vọng ngoại bởi
sự tác động của một số nho sĩ, đã không giữ được sự độc lập dân tộc
trong đường lối chính trị và văn hóa, và rơi vào chỗ khủng hoảng trầm
trọng. Trước cảnh đổ nát và phản động ấy, nhiều phong trào phản kháng nổ
ra, trong đó đặc biệt là cuộc khởi nghĩa của sư Phạm Sư Ôn (?-1390).
Bất bình trước tình trạng
trên, sư Phạm Sư Ôn, đạo hiệu là Thiên Nhiên, đã lãnh đạo nhân dân,
tầng lớp nông dân nghèo bị đè nén, khởi nghĩa chống lại chính sách cai
trị của triều đình đương thời. Cuộc khởi nghĩa nổ ra ở Quốc Oai Thượng
(Hà Tây), nghĩa quân lập thành 3 đạo Thần Kỳ, Dũng Ðấu và Vô Hạn đánh
thẳng vào Thăng Long khiến cho vua quan phải bỏ kinh thành mà chạy.
Nghĩa quân làm chủ Thăng Long được một thời gian ngắn, nhưng sau đó thì
bị phản công, và bị đàn áp (6).
Tuy thất bại, nhưng cuộc
khởi nghĩa của sư Phạm Sư Ôn có ý nghĩa hết sức quan trọng. Nó nói lên
tinh thần và phản ứng của giới Phật giáo đối với nhà nước, dẫu đấy là
một nhà nước Phật giáo. Giới Phật giáo luôn đứng về phía nhân dân và dân
tộc, chứ không hề đồng tình để vụ lợi khi một nhà nước trở nên mục nát
và phản động.
Những nỗ lực như cuộc
khởi nghĩa của sư Phạm Sư Ôn chưa đủ mạnh để làm nên một thay đổi cho
dân tộc, và nhà Trần càng ngày càng mất uy tín, không còn khả năng khôi
phục tình hình để cuối cùng đưa đến cuộc chính biến năm 1400, Hồ Quý Ly
lên nắm quyền, lập ra nhà Hồ. Nhưng nhà Hồ tồn tại chỉ được 7 năm
(1400-1407). Chính quyền của Hồ Quý Ly không được lòng dân, không dám
dựa vào dân, lại sai lầm trong chiến lược về quân sự, nên đã thất bại
trước âm mưu xâm lược của nhà Minh, để đất nước ta rơi vào một giai đoạn
đau thương nhất trong lịch sử.
Ngay sau khi chiếm nước
ta, chính quyền xâm lược đã thực thi các chính sách đô hộ vô cùng khốc
liệt và thâm độc nhằm tiêu hủy toàn bộ di sản văn hóa mà dân tộc ta đã
xây dựng nên, vơ vét tất cả để đem về nước, bắt bớ nhân tài Việt Nam, áp
đặt văn hóa Hán lên nước ta (7)... Trước nỗi đau đó, hơn bao giờ hết, ý
thức dân tộc của nhân dân ta bùng dậy mạnh mẽ, phong trào kháng chiến
cứu nước nổ ra nhiều nơi, ngoài cuộc kháng chiến trong giai đoạn đầu như
của sư An Quốc và nhà Hậu Trần (1407-1413), sau đó là cuộc khởi nghĩa
Lam Sơn do Lê Lợi lãnh đạo, còn có nhiều cuộc nổi dậy khác mà đáng chú ý
hơn cả là cuộc khởi nghĩa kháng chiến chống Minh của nhà sư Phạm Ngọc.
b. Sư Phạm Ngọc với
cuộc kháng chiến chống Minh cứu nước
Lâu nay, trong quốc sử
lẫn sử Phật giáo, đã có những nhận định hết sức sai lầm về cuộc khởi
nghĩa kháng chiến cứu nước do sư Phạm Ngọc lãnh đạo. Gần đây, vấn đề này
đã được đem ra dưới ánh sáng của sự thật lịch sử, và qua đó cho chúng
ta biết thêm về những hy sinh của người Phật tử trong cuộc kháng chiến
chống Minh cứu nước đầy cam go (1407-1428) (8).
Sư Phạm Ngọc ở tại chùa
Ðồ Sơn, huyện An Lão, tỉnh Kiến An (thuộc TP. Hải Phòng ngày nay), nhóm
nghĩa quân, thành lập chính quyền kháng chiến, tự xưng là La Bình vương,
được sự ủng hộ của đông đảo đồng bào vùng trung du và đồng bằng Bắc bộ.
Về thời gian nổ ra cuộc khởi nghĩa không được ghi chép rõ, nhưng có thể
cùng thời điểm với cuộc khởi nghĩa Lam Sơn.
Cuộc khởi nghĩa này đã
đánh nhiều trận, gây tổn thất không nhỏ đối với chính quyền của quân xâm
lăng. Tuy thất bại, sư Phạm Ngọc bị bắt, giặc Minh áp tải sang Trung
Quốc rồi bị giết tại đó, nhưng cuộc khởi nghĩa này có một ý nghĩa quan
trọng, nó phần nào cho phép chúng ta hình dung những phản ứng của Phật
giáo ở nửa đầu thế kỷ XV, những đóng góp của người Phật tử vào công cuộc
chống Minh cứu nước của dân tộc.
c. Sơ lược về tình
hình Phật giáo
Cuộc kháng chiến chống
Minh cứu nước do Lê Lợi lãnh đạo thành công, Lê Lợi lên ngôi hoàng đế,
mở ra triều đại nhà Hậu Lê. Sự thay đổi triều đại ở thời kỳ này dĩ nhiên
là có những ảnh hưởng đến xã hội, nhưng Phật giáo về cơ bản vẫn không
có thay đổi gì nổi bật. Phật giáo vẫn là một hệ tư tưởng chủ đạo trong
đời sống của dân tộc.
Những quan niệm trước đây
cho rằng, từ thời Lê trở đi, Nho giáo chiếm vị trí độc tôn trong đời
sống chính trị và văn hóa và Phật giáo đi vào chỗ suy yếu. Ðấy là một
nhận định thiếu chính xác. Vào cuối thế kỷ XIV, nhà nho Lê Quát đã thành
thật thừa nhận sự thất bại của tư tưởng Nho giáo, bởi Phật giáo đã ăn
sâu vào trong tâm thức của dân tộc Việt Nam, ông đã than rằng: "Ta từ
thuở bé đi học, chí dốc vào cổ kim, cũng biết qua về đạo Thánh, muốn lấy
đó mà dạy dân, thế nhưng rốt cuộc không một làng nào tin theo cả..."
(9).
Ðến thời Lê sơ, với sự
lãnh đạo của vị vua Phật tử Lê Lợi (Thái Tổ, ở ngôi 1428-1433) và các
danh thần như Lê Sát, Trần Nguyên Hãn, Lê Ngân..., Phật giáo vẫn tiếp
tục được phát triển. Vua Lê Thánh Tông (ở ngôi 1460-1497) là một người
đã nhận thức sâu sắc vai trò của đạo Phật đối với dân tộc. Trong Hồng
Ðức quốc âm thi tập của ông đã có những bài thơ vịnh về chùa Trấn
Quốc, chùa Pháp Vân...với một niềm tin sâu sắc, chẳng hạn ông ca ngợi
Phật Pháp Vân bằng một bài thơ dài, trong đó có câu: "Tỉnh phò thế nước
dường như tại" (lặng lẽ phò trì cho đất nước như luôn thường trực một
bên), hay:
Nguyện xem ấm tý thần
thông ấy
Phổ độ nào đâu chẳng phỉ nguyền...;
và trong bài thơ ca ngợi
về chùa Trấn Quốc, nhà vua đã viết: "Trung lập càn khôn vững đế đô"
(10).
Vào thời vua Lê Thánh
Tông, các lễ hội tâm linh truyền thống như lễ hội rước Phật Pháp Vân tổ
chức rầm rộ, được ngài Pháp Tính (1470-1550), một cao tăng thời đó, kể
lại rất sinh động trong tác phẩm chữ Nôm Cổ châu Pháp Vân Phật bản
hạnh lục (11).
Về Phật giáo thời Lê,
hoàn toàn khác với những đánh giá trước đây, học giả Lê Mạnh Thát đã
nhận định tổng quát: "Thời Lê là thời đại Phật giáo Việt Nam phát triển
rầm rộ, do đối kháng lại với nền Phật giáo mà nhà Minh đưa qua..." (12).
Phật giáo ở giai đoạn này đã kế thừa các nền tảng hình thành trước,
tiếp tục phát triển, nổi bật với các gương mặt Phật tử, danh Tăng như
nhà toán học Phật tử Lương Thế Vinh (1441-?), đỗ trạng nguyên năm 1463;
nhà chính trị -quân sự thiên tài Nguyễn Trãi (1380-1442), người đã lấy
tư tưởng Phật giáo để xây dựng quan niệm nhân nghĩa trong tư tưởng quân
sự của mình; ngài Viên Thái (1400-1460), người đầu tiên dịch kinh Phật
ra chữ Nôm hiện biết được (13); ngài Pháp Tính (1470-1550), người viết Ngọc
âm chỉ nam giải nghĩa, Cổ châu Pháp Vân Phật bản hạnh lục; và không
ít vị Tăng sĩ Trung Quốc sang nước ta tu hành, như trường hợp các ngài
Chuyết Chuyết (1590-1644), thế hệ thứ 34 dòng thiền Lâm Tế Trung Quốc,
ngài Minh Hành, học trò của ngài Chuyết Chuyết...
Về mặt lễ hội văn hóa tâm
linh và xây dựng chùa chiền, ở thời Lê vẫn diễn ra tuy không nhiều như
trước nhưng vẫn khá mạnh mẽ. Ðạo Phật đã thâm nhập và hòa quyện với văn
hóa dân tộc, đã trở nên một bất khả phân ly. Chùa chiền vẫn là nơi sinh
hoạt tín ngưỡng và văn hóa của các tầng lớp nhân dân. Tuy phát triển lúc
thiên về lĩnh vực này hay phương diện khác, nhưng Phật giáo không bao
giờ rơi vào tình trạng gọi là suy yếu, bởi nó đã hòa quyện trong tâm hồn
của dân tộc, cùng bước với bước tiến của đất nước qua các thời đại, bất
chấp những cuộc chính biến và thay đổi triều đại. Chúng ta tiếp tục tìm
hiểu tổng quan về tình hình Phật giáo ở giai đoạn thứ năm, giai đoạn từ
thời chúa Nguyễn Phúc Chu đến cận đại.
II. Phật giáo từ thời Chúa Nguyễn Phúc Chu đến thời cận đại
Năm 1527, Mạc Ðăng Dung
cướp ngôi nhà Lê và lập ra nhà Mạc, tiếp sau đó là những mâu thuẫn nội
bộ, đưa đến cuộc chia cắt đất nước thành hai miền là Ðàng Trong và Ðàng
Ngoài. Xứ Ðàng Ngoài nằm trong tay của vua Lê-chúa Trịnh. Xứ Ðàng Trong
do các chúa Nguyễn cai trị, bắt đầu là Nguyễn Hoàng, và nổi bật là vai
trò của chúa Nguyễn Phúc Chu.
1. Chúa Nguyễn
Phúc Chu, một Trần Nhân Tông thứ hai trong lịch sử
Chúa Nguyễn Phúc Chu
(1675-1725) là một trong những nhà lãnh đạo Phật tử thời Nguyễn trước
Gia Long, có một vai trò hết sức quan trọng không những đối với công
cuộc Nam tiến của dân tộc, mà còn đối với sự phát triển của Phật giáo
Việt Nam. Trong 34 năm ở ngôi chúa (1691-1725), ông đã có những đóng góp
quan trọng đối với lịch sử mở đất của dân tộc. Năm 1698, ông đã sai Lễ
Thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh vào thành lập trấn Gia Ðịnh, chính thức mở
rộng biên cương với địa hình cơ bản như hiện nay.
Chúa Nguyễn Phúc Chu là
một Phật tử nhiệt thành với tư tưởng mang đạo vào đời, ông có pháp danh
là Hưng Long, còn có hiệu là Thiên Túng Ðạo nhân do ngài Thạch Liêm, một
danh tăng thuộc phái thiền Tào Ðộng Trung Quốc đặt, và được xem là
truyền thừa chánh tông đời thứ 30 của dòng thiền này. Bốn năm sau khi
lên ngôi chúa, ông thọ Bồ tát giới, thường tự ví mình là Duy Ma Cật. Tư
tưởng Phật giáo của chúa Nguyễn Phúc Chu có thể nói là một thể hiện khác
của tư tưởng Trần Nhân Tông như đã đề cập phần trước, nghĩa là chủ
trương lấy tinh thần Phật pháp định hướng cho đời sống dân tộc. Ông đã
có những quan hệ mật thiết với ngài Thạch Liêm. Ngài Thạch Liêm đã có
lần trình bày với chúa quan điểm trị nước theo tinh thần Phật giáo, được
giải thích qua ý nghĩa "trai giới" đối với một vị quân vương: "Trai
giới là làm cho quốc gia từ trên xuống dưới được thanh lý chỉnh tề,
không một người nào không ngồi đúng chỗ, không một việc nào chẳng giải
quyết được chính đáng. Làm được như thế mới là sự trai giới viên mãn của
một ông vua". Chúa Nguyễn Phúc Chu có thể ví là một Trần Nhân Tông thứ
hai trong lịch sử Phật giáo Việt Nam, một nhà lãnh đạo hộ pháp tích cực,
và vận dụng tinh thần của Phật giáo vào chính sách lãnh đạo của mình.
Chúa Nguyễn Phúc Chu đã cho xây dựng và trùng tu nhiều ngôi danh lam tại
Thuận Hóa như trùng tu chùa Thúy Vân, chùa Linh Mụ... Sai người sang
Trung Quốc thỉnh bộ Ðại tạng kinh, xây Tàng kinh lâu để bảo quản, v.v...
Trong thời đại của ông,
với sự có mặt của nhiều cao tăng và sự ngoại hộ tích cực của nhà nước,
Phật giáo nước ta phát triển trên cơ sở của một nền học lý mới mà chúng
ta sẽ đề cập sơ bộ trong phần tiếp, qua các danh tăng của thời đại này.
2. Một số đại
biểu của nền học lý Phật giáo ở thời đại Nguyễn Phúc Chu
Nền học lý thời đại chúa
Nguyễn Phúc Chu được thiết định bởi các ngài Thạch Liêm, Nguyên Thiều,
Liễu Quán ở xứ Ðàng Trong, và các ngài Minh Châu Hương Hải, Chân Nguyên,
Toàn Nhật... ở Ðàng Ngoài. Vậy cơ bản của truyền thống và nền học lý
này là gì? Chúng ta sơ bộ khái quát từ tư tưởng của các dòng thiền ra
đời trong giai đoạn này.
a. Dòng thiền Tào
Ðộng
Tào Ðộng là một dòng
thiền xuất phát từ Trung Quốc, do các ngài Tào Sơn Bản Tịch (840-901) và
Ðộng Sơn Lương Giới (807-869) sáng lập, được truyền đến nước ta từ thế
kỷ XVII, có xu hướng sử dụng dịch lý, ảnh hưởng trên cả hai miền Nam và
Bắc. Ở miền Bắc (Ðàng Ngoài), cuối thế kỷ XVII và trong thế kỷ XVIII,
dòng thiền Tào Ðộng đã có những ảnh hưởng to lớn, và nó còn ảnh hưởng
đến tận ngày nay, nhiều chùa ở Hà Nội như Trấn Quốc, Hàm Long và Hòe
Nhai...đến nay vẫn xem là truyền thừa của dòng thiền này (14).
Tại xứ Ðàng Trong, có lẽ
người đầu tiên mang dòng thiền này đến là Quốc sư Hưng Liên tại chùa Tam
Thai, Quảng Nam. Tuy nhiên, người đã làm cho nó trở nên thịnh là ngài
Thạch Liêm (1633-1704). Ngài được chúa Nguyễn Phúc Chu mời đến nước ta
(Thuận Hóa, Huế) vào năm1695, tổ chức đại giới đàn truyền giới cho nhiều
người xuất gia và tại gia. Chúa Nguyễn Phúc Chu và nhiều hoàng thân
quốc thích của chúa thọ giới Bồ tát tại đây. Về mặt tư tưởng Thiền, ngài
Thạch Liêm không mang đến những tư tưởng gì mới, Ngài xiển dương phương
pháp Thiền-Tịnh song tu, vốn là truyền thống của Phật giáo nước ta. Tuy
nhiên, tư tưởng đưa đạo vào đời thì được ủng hộ mạnh mẽ, điều đó được
thể hiện qua con người của chúa Nguyễn Phúc Chu, đệ tử của Ngài. Ngoài
ra, Ngài còn viết một số tác phẩm Phật học, đặc biệt là cuốn Kim
cương trực sớ, một tác phẩm gối đầu giường của nhiều thế hệ Phật tử
miền Nam. Về truyền thừa thì dường như dòng thiền này không có duyên lắm
với xứ Ðàng Trong, không thấy nhắc đến các thế hệ tiếp sau thời chúa
Nguyễn Phúc Chu.
b. Dòng thiền Lâm Tế
Nếu như dòng thiền Tào
Ðộng thịnh ở miền Bắc thì dòng Lâm Tế tỏ ra phát triển ở miền Nam. Từ
thế kỷ XVII, đã có sự hiện diện của nhiều Tăng sĩ thuộc dòng thiền Lâm
Tế, như các ngài Viên Minh và Viên Khoan ở Quảng Trị, Minh Hoằng Tử Dung
khai sơn chùa Từ Ðàm, ngài Giác Phong sáng lập chùa Báo Quốc tại Huế,
ngài Pháp Bảo lập chùa Chúc Thánh ở Quảng Nam, ngài Nguyên Thiều sáng
lập các chùa Thập Tháp Di Ðà tại Bình Ðịnh, chùa Quốc Ân và Hà Trung tại
Thuận Hóa (Huế)...Ðặc biệt trong đó có các ngài Nguyên Thiều đã thành
lập nên các dòng truyền thừa theo phả hệ Thập Tháp và Quốc Êân, ngài
Pháp Bảo thành lập nên dòng truyền thừa hệ Chúc Thánh (15). Ngoài các
dòng truyền thừa trên, tại miền Nam có một hệ truyền thừa ảnh hưởng rất
sâu rộng cho đến hôm nay, đó là dòng Liễu Quán, do ngài Liễu Quán thành
lập.
Ngài Liễu Quán
(1670-1742) quê ở Phú Yên, từng học đạo với các ngài Giác Phong và Tử
Dung tại Thuận Hóa. Ngài là Tổ khai sơn chùa Thiền Tôn tại núi Thiên
Thai (Thuận Hóa), nơi Ngài dựng am cỏ (thảo am) để chuyên tu. Chúa
Nguyễn Phúc Khoát là người rất kính ngưỡng Ngài, từng mời Ngài vào phủ
nhưng Ngài thường từ chối. Ðạo phong của Ngài được đông đảo Phật tử mến
mộ, người đến cầu pháp rất đông, gần bốn nghìn người cả xuất gia lẫn cư
sĩ. Ngài mất năm 1742, thọ 72 tuổi. Chúa Nguyễn Phúc Khoát truy tặng
Ngài thụy hiệu "Ðạo Hạnh Thụy Chánh Giác Viên Ngộ Hòa thượng". Tính theo
truyền thừa của dòng thiền Lâm Tế, Ngài là thế hệ thứ 35. Ngài là bậc
cao tăng mà tư tưởng đã ảnh hưởng rất lớn đối với Phật giáo xứ Ðàng
Trong, được đánh giá là người đã Việt hóa dòng thiền Lâm Tế, làm cho nó
phổ biến, hiện nay dòng kệ truyền pháp của Ngài (16) vẫn còn được tiếp
nối, nhất là miền Nam nước ta, kể từ Huế trở vào.
c. Các ngài Chân
Nguyên, Minh Châu-Hương Hải và tình hình Phật giáo ở Ðàng Ngoài
Thế kỷ XVII tại miền Bắc
nước ta, dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử phát triển mạnh mẽ, người đứng đầu
là ngài Chân Nguyên (1647-1726). Ý đồ phát triển nền Phật giáo thời Trần
Nhân Tông là một trong những nỗ lực nhằm tìm một giải pháp cho những bế
tắc của thời đại, khi mà các thế lực phong kiến cấu xé nhau để giành
giựt quyền bính mà không đếm xỉa gì đến quyền lợi của dân tộc và xã hội
đang trên đà băng hoại. Ngài đã viết nhiều tác phẩm về Phật giáo với
nhận thức khá mới mẻ. Tuy nhiên, những cố gắng đó vẫn không xoay chuyển
được tình thế, nhưng dẫu sao cũng đã tạo nên một sự phấn khích cho thế
hệ đương thời và sau đó, mà một trong những người kế thừa xuất sắc là
Ngô Thì Nhậm (1746-1802), tức Hải Lượng Thiền sư, tự xưng là Tổ thứ tư
(17) của dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử, người đã viết tác phẩm nổi tiếng Trúc
lâm tông chỉ nguyên thanh.
Về ngài Minh Châu-Hương
Hải (1628-1715), theo Toàn tập Minh Châu-Hương Hải (18), Ngài
xuất thân từ một gia đình truyền thống danh gia thế phiệt, gốc Nghi Lộc,
Nghệ An, nhưng sinh ra và lớn lên tại miền Nam. Trước khi xuất gia,
Ngài từng thi đỗ và làm quan, học đạo với các ngài Lục Hồ Viên Cảnh và
Viên Khoan Ðại Thâm, sau đó từ quan xuất gia và trú trì viện Thiền Tịnh ở
núi Qui Kính. Do một số bất đồng với chúa Nguyễn Phúc Tần (1649-1687),
Ngài bỏ ra Bắc năm 1682. Cuộc đời hành đạo của ngài Minh Châu-Hương Hải
đã có những ảnh hưởng lớn đối với tình hình Phật giáo đương thời bằng
cách tác động vào chính sách triều đình, tiếp nối truyền thống gắn bó
giữa Phật giáo và dân tộc vốn có trong truyền thống của Phật giáo nước
ta. Ngoài ra, Ngài là một tác gia lớn, người đã đào tạo nhiều học trò
xuất sắc, là một ngôi sao sáng trên bầu trời Phật giáo thế kỷ XVII- đầu
XVIII.
Trong giai đoạn này, Phật
giáo đã cống hiến cho dân tộc nhiều thiên tài, trên các lĩnh vực, chẳng
hạn những gương mặt nổi bật như các ngài Chân Nguyên, Minh Châu-Hương
Hải, Chân An-Tuệ Tĩnh... Chính những nhân tố đó đã làm nên một diện mạo
phát triển của Phật giáo giai đoạn này.
d. Cuộc khủng hoảng
của xã hội Việt Nam ở thời Nguyễn và những phản ứng của Phật giáo
Từ thế kỷ thứ XVIII, xã
hội nước ta rơi vào cuộc khủng hoảng ý thức hệ trầm trọng. Trong bối
cảnh đó, Phật giáo đã có nhiều nỗ lực nhằm tìm cách xây dựng một hệ ý
thức mới phù hợp với yêu cầu của thời đại. Tuy nhiên, sau khi nhà Tây
Sơn sụp đổ, Gia Long lên ngôi (1802), ông đã chủ trương phục hồi hệ ý
thức Nho giáo cực kỳ phản động, đưa đất nước đến chỗ bế tắc, dân tộc ta
lại rơi vào đại họa ngoại xâm. Trước tình hình đó, triều đình không đủ
can đảm để đánh giặc thì nhân dân tự dấy lên khởi nghĩa, và trong đó có
những phản ứng của giới Phật giáo, điển hình là các cuộc khởi nghĩa
chống pháp cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX của các vị sư Nguyễn Văn Quý,
Trần Văn Thành, Võ Trứ, Vương Quốc Chính, Cao Văn Long, v.v... Ðây không
phải là một đặc điểm mới mà vốn đã có trước đó khá lâu, qua gương mặt
của sư Phạm Sư Ôn, An Quốc, Phạm Ngọc mà chúng ta đã đề cập.
Cũng trong thế kỷ
XVIII-XIX, nhiều gương mặt cao tăng với nhiều nỗ lực nhằm tìm ra một lối
đi cho dân tộc, nổi bật ngoài Hải Lượng Ngô Thì Nhậm, còn có các ngài
Pháp Chuyên (1726-1798), tác giả của 20 bộ sách; Toàn Nhật (1755-1832),
tác giả của hơn 24 tác phẩm; ngài Tính Quảng (1740-1780), ngài An
Thiền-Phúc Ðiền (1790-1860), người đã dấy lên một phong trào nghiên cứu
lịch sử Phật giáo dân tộc và đã soạn một số tác phẩm giá trị như Ðại
nam Thiền uyển truyền đăng chấp lục, Ðạo giáo nguyên lưu, Khóa hư lục
giải nghĩa, v.v...; ngài Như Như (1836-1899), tác giả của tác phẩm
nổi tiếng Hàm long sơn chí, v.v...
3. Ðôi nét về
phong trào chấn hưng Phật giáo đầu thế kỷ XX
Cuối thế kỷ XIX đầu thế
kỷ XX, phong trào phục hưng Phật giáo diễn ra tại nhiều nước như Tích
Lan, Ấn Ðộ, đặc biệt là cuộc vận động phục hưng Phật giáo Trung Quốc do
Thái Hư Ðại sư chủ trương từ năm 1912, đã ảnh hưởng đến cuộc vận động
chấn hưng Phật giáo tại nước ta. Theo Nguyễn Lang, tác giả của Việt
Nam Phật giáo sử luận, thì người châm ngòi cho cuộc vận động chấn
hưng Phật giáo ở nước ta là ngài Khánh Hòa, năm 1923, tại tỉnh Bến Tre.
Qua những phương tiện thông tin ngôn luận, cuộc vận động đã lan đi nhanh
chóng. Bắt đầu từ Nam, ra Huế rồi Hà Nội. Nhiều hội đoàn Phật giáo, hội
nghiên cứu Phật học được thành lập khắp nơi từ Bắc chí Nam, các trường
truyền dạy Phật học được mở, nhiều tờ báo được xuất bản, tạo nên một
phong trào hết sức rộng rãi. Ðặc biệt là ý thức về lịch sử Phật giáo dân
tộc trỗi dậy, và hàng loạt công trình chuyên khảo cứu về vấn đề này ra
đời, đáng chú ý hơn cả là các công trình của nhà sử học Trần Văn Giáp và
ngài Mật Thể (19) về lịch sử Phật giáo Việt Nam đã tạo nên ý thức về
vai trò của Phật giáo đối với dân tộc một cách sâu sắc. Cuộc vận động
tiếp tục diễn ra và đã có những thành tựu rất to lớn. Tuy nhiên, nó chỉ
làm sống dậy tinh thần của Phật giáo Việt Nam, mà chưa tạo được những sự
bứt phá. Nội dung cơ bản, về truyền thống và học lý, vẫn chưa có gì mới
đủ để đưa Phật giáo bước sang một thời kỳ mới. Phật giáo nước ta cho
đến tận bây giờ vẫn chịu ảnh hưởng của những học lý và truyền thống của
thời đại Phật giáo kể từ chúa Nguyễn Phúc Chu, và từ những thiết định tư
tưởng của nền Phật giáo từ thời vua Trần Nhân Tông.
*
Kết Luận
Bất kỳ dân tộc nào cũng
có nền văn hóa của mình, không ai có quyền phủ bác hay coi thường, hoặc
chụp lên nó một nền văn hóa mới. Dân tộc Việt Nam là một dân tộc vốn có
một nền văn hóa với những thành tựu rực rỡ trước khi Phật giáo du nhập.
Và, là một hệ thống tư tưởng không giáo điều, khiêm tốn khép mình, nên
khi vào nước ta, Phật giáo sẵn sàng tiếp thu truyền thống bản địa, không
buộc người Việt phải từ bỏ những gì vốn có trong nền văn hóa bản xứ, do
đó nó đi sâu vào tâm hồn của con người một cách tự nhiên. Về phía dân
tộc, dĩ nhiên là nhận thức rằng cần tiếp thu Phật giáo để làm phong phú
thêm đời sống văn hóa của chính mình. Hơn thế nữa, dân tộc ta luôn phải
đối mặt với âm mưu đồng hóa văn hóa của kẻ thù phương Bắc, tư tưởng Phật
giáo sau khi đã bản địa hóa, kết hợp với những yếu tố dân tộc, là một
bức tường thành kiên cố chặn đứng mọi sự tấn công, góp phần giữ gìn bản
sắc văn hóa dân tộc.
Năm giai đoạn phát triển
của Phật giáo đã trình bày trên phản ánh được điều đó. Năm giai đoạn này
được xây dựng cơ bản trên hai nền tảng tư tưởng, một là nền tư tưởng
Phật giáo quyền năng và hai là tư tưởng tức tâm tức Phật. Hai nền tảng
tư tưởng Phật giáo này hòa quyện với nhau, thấm sâu vào đời sống tâm
linh của con người Việt Nam. Và nó gắn liền với sự phát triển của lịch
sử dân tộc, lấy sứ mệnh của dân tộc làm sứ mệnh của mình. Ðó là tính
nhất quán của lịch sử Phật giáo Việt Nam, được biểu hiện qua những bước
chuyển mình, đáp ứng yêu cầu của từng chặng đường lịch sử cụ thể, vì lợi
ích chung của dân tộc. Giáo sư Trần Văn Giàu đã rất có lý khi nhận định
rằng: "Bình minh của dân tộc ta đã gắn với Phật giáo..." (20).
Sự phát triển của lịch sử
là sự phát triển có ý thức. Năm giai đoạn, năm chặng đường đồng cam
cộng khổ với dân tộc là một minh chứng cho bản chất của Phật giáo Việt
Nam./.
*
Chú thích:
(1) Có nghĩa là Phật Trúc
Lâm (Ðiều ngự là một trong 10 danh hiệu tôn xưng Ðức Phật).
(2) Sau này đổi tên thành
hai châu Thuận và Hóa, từ thị xã Ðông Hà, tỉnh Quảng Trị đến Ðiện Bàn,
tỉnh Quảng Nam ngày nay.
(3) Xem Thiền tông chỉ
nam tự.
(4) Xem Niệm Phật luận, Khóa
hư lục.
(5) Dẫn lại theo Trần Văn
Giàu, Sự phát triển của tư tưởng Việt Nam từ thế kỷ XIX đến Cách
mạng Tháng Tám , tập I: Hệ ý thức phong kiến và sự thất bại của
nó trước các nhiệm vụ lịch sử, Nxb. Chính trị quốc gia, HN, 1996,
trang 484. Những chỗ in đậm là chúng tôi (TTH) nhấn mạnh.
(6) Xem Trương Hữu
Quýnh-Phan Ðại Doãn, Danh nhân lịch sử Việt Nam, tập I, Nxb. Giáo
Dục, 1987, trang 96.
(7) Năm 1407, vua nhà
Minh sai Trương Phụ, Trần Húc phá hủy toàn bộ những di sản văn hóa của
dân tộc ta: "một mảnh giấy, một nửa chữ, cùng những bia khắc của nước ấy
dựng lên, hễ thấy thì lập tức hủy hoại hết". Do thế, ngày nay những tư
liệu của Phật giáo nói riêng và dân tộc nói chung trước năm 1407 rất
hiếm, chúng đã bị quân Minh phá hoặc thu gom về nước.
(8) Xem Lê Mạnh Thát, Cuộc
khởi nghĩa chống Minh cứu nước của Tăng sĩ Phạm Ngọc, Tập văn Thành
Ðạo, số 43 và Phật đản, số 44 năm 1999.
(9) Ðại Việt sử
ký toàn thư.
(10) Viện Nghiên cứu Hán
Nôm, Thơ văn Lê Thánh Tông, nxb. KHXH, 1986.
(11) Xem Lê Mạnh Thát, Viên
Thái thiền sư toàn tập, Tu thư Vạn Hạnh, 1977.
(12) Lịch sử Phật giáo
Việt Nam, sđd, trang 156.
(13) Ðại báo phụ mẫu
ân trọng kinh.
(14) Về Thiền phả truyền
thừa tại miền Bắc nước ta, xem tông tào Ðộng truyền sang miền Bắc Việt
Nam, HT. Thích Thanh Từ, Thiền sư Việt Nam, Nxb. TPHCM, 1999,
trang 395-396.
(15) Bài kệ truyền pháp
của Ngài là:
Minh thật pháp toàn
chương
Ấn chân như thị đồng
Chúc thánh thọ thiên cửu
Kỳ quốc tộ
địa trường
Ðắc chính luật vi tuyên
Tổ đạo hạnh giải thông
Giác
hoa bồ đề thọ
Sung mãn nhân thiên trung.
(16) Dòng kệ truyền pháp
theo phả hệ của ngài Liễu Quán:
Thiệt tế đại đạoTánh
hải thanh trừng
Tâm nguyên quảng nhuận Ðức bổn từ phong
Giới định
phước huệ Thể dụng viên thông
Vĩnh siêu trí quả Một khế thành công
Truyền
trì diệu lý Diễn xướng chánh tông
Hành giải tương ứng Ðạt ngộ chơn
không.
(17) Sau ngài Trần Nhân
Tông, Pháp Loa và Huyền Quang.
(18) Lê Mạnh Thát, Nxb.
TPHCM, 2000.
(19) Xem chú thích (1)
trong bài 1.
(20) Trần Văn Giàu, Ðạo
Phật và một số vấn đề của lịch sử tư tưởng Việt Nam, in trong Phật
giáo và lịch sử tư tưởng Việt Nam, Viện Triết học xuất bản, HN,
1986, trang 15.
*
Tài liệu tham khảo chủ yếu cho học viên
1. Lịch sử Phật giáo
Việt Nam, tập 1, tác giả Lê Mạnh Thát, Nxb. Thuận Hóa, 1999.
2. Việt Nam Phật giáo
sử luận, 3 tập, tác giả Nguyễn Lang, Nxb. Văn Học, 1994.
3. Nghiên cứu về Thiền
uyển tập anh, tác giả Lê Mạnh Thát, Nxb. TPHCM, 1999.
4. Thiền sư Việt Nam,
tác giả Thích Thanh Từ, Nxb. TPHCM, 1999.
Theo: Phật Học Hàm Thụ