Sau khi Thái tử Sĩ-Đạt-Ta rời bỏ cung điện nguy nga giã từ vợ đẹp
con thơ đi tìm chân lý, Ngài đã trải qua không biết bao nhiêu thử thách nguy
khó. Nhưng mục đích chuyến đi của Ngài là tìm cho bằng được một lối thoát để
giải phóng cho mình và chúng sinh ra khỏi vòng sinh tử luân hồi, nên Ngài không
quản khó khăn hiểm trở.
Không tìm được Chân Thiện Mỹ nơi các thầy Bà La Môn, Ngài cương quyết thực
hành phương pháp khổ hạnh. Chưa một ai trong lịch sử nhân loại kiên trì khổ
hạnh như Ngài. Ngay cả tuyệt thực, tiết chế hơi thở cho đến khi thân thể hao
mòn, thịt khô máu cạn, chỉ còn da bọc xương cũng không lay chuyển được ý chí
sắt đá của Ngài.
Mặc dù ý chí kiên cường nhưng xác thân đã quá kiệt quệ. Một hôm Ngài ngã quị
bên dòng sông Ni Liên Thiền (Neranjarà). Khi tỉnh dậy, Ngài mới nhận ra rằng
con đường khổ hạnh đến tột cũng chỉ là hành hạ thân xác, mà trí tuệ lại càng
thêm thoái hóa.
Mặc dù không lợi dưỡng, nhưng cần phải có một xác thân tráng kiện thì tâm
hồn mới lành mạnh, trí tuệ mới minh mẫn. Như một nhạc công sử dụng đàn, nếu dây
lên quá căng thì sẽ đứt, nhưng nếu quá chùng thì đàn sẽ không thành tiếng, chỉ
có dây lên vừa phải thì tiếng đàn mới thanh tao. Cũng vậy, chỉ có con đường
trung đạo, không lợi dưỡng, không khổ hạnh ép xác mới đưa đến cứu cánh giải
thoát.
Nghĩ như thế, Ngài liền xuống sông Ni Liên tắm rửa và bắt đầu trì trai khất
thực. Sau khi thọ thực, sức khoẻ được phục hồi; Ngài ngồi tĩnh tọa dưới cội cây
Bồ đề trên một nắm cỏ khô và tham thiền nhập định.
Nhờ năng lực an trụ của chỉ thiền, như một bình nước đã được lắng trong
không còn một chút bợn nhơ, Ngài cảm thấy tâm hồn khinh an thư thái và sáng
suốt lạ thường. Với tâm trí minh mẫn đó, dần dần Ngài hồi tưởng đến những kiếp
sống quá khứ của mình.
Ngài nhớ rõ trong những kiếp xa xưa ấy Ngài đã sống ở đâu, thuộc giai cấp
nào, vui khổ ra sao và sinh sinh tử tử trong những cảnh giới nào. Tất cả chi
tiết trong các kiếp sống trầm luân của Ngài đã hiện lên trong ký ức rõ ràng như
một cuốn phim chiếu trên màn ảnh. Vào canh một, khi đang chú tâm quan sát những
hiện tượng sinh diệt của kiếp sống, bỗng nhiên Ngài chứng ngộ được tuệ giác đầu
tiên tức là Túc Mạng Minh (Pubbe nivàsànussàti Nàna).
Kế đến Ngài suy xét đến kiếp sống thăng trầm của chúng sinh trong vòng sanh
tử luân hồi để tìm ra nguyên nhân nào khiến cho người thì sang giàu, kẻ khốn
khổ, người thông minh, kẻ ngu dốt và vì sao chúng sinh vẫn mãi đắm chìm trong
bể sinh tử không thể thoát ra khỏi định luật vô thường, khổ não.
Nhờ trí tuệ sáng suốt, trong canh hai Ngài đã tìm ra giải đáp và chứng ngộ
tuệ giác thứ nhì là Thiên Nhãn Minh (Cutùpapàta Nàna), tức là
trí tuệ thấu triệt nguyên nhân sanh tử luân hồi của tất cả chúng sanh. Ngài
biết rằng do nơi nghiệp thiện và bất thiện phát xuất từ thân, khẩu, ý mà chúng
sanh sinh trưởng trong những cảnh giới khác nhau, trình độ khác nhau.
Đến canh ba, Ngài lại dùng trí tuệ soi xét và tìm kiếm phương pháp nào khả
dĩ chấm dứt dòng trầm luân sinh tử. Ngài nhận thức rằng: "Đây
là khổ, là phiền não và ô nhiễm. Đây là nguyên nhân đau khổ, phiền não và ô
nhiễm. Đây là sự diệt tận mọi khổ đau, ô nhiễm. Và đây là con đường dẫn đến sự
chấm dứt mọi phiền não khổ đau."
Nhận thức như thế, tâm Ngài đã được giải thoát ra khỏi dục lậu, hữu lậu,
kiến lậu và vô minh lậu. Từ đó dòng sinh tử luân hồi đã hoàn toàn chấm dứt đối
với Ngài. Đó chính là tuệ giác thứ ba mà Ngài đã chứng ngộ tức là Lậu
Tận Minh (savakkhaya Nàna) vậy.
Khi cuộc chiến thắng vinh quang vừa viên mãn, cả tam thiên đại thiên đều
rúng động, hào quang ngũ sắc từ thân Ngài chiếu khắp tam giới. Chư thiên trong
mười muôn triệu thế giới ta bà đều đồng thanh tung hô Ngài là bậc Ứng
Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ,
Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật và Thế Tôn.
Quả thật cuộc chiến thắng vẻ vang của Thái Tử Sĩ-Đạt-Ta có một ảnh hưởng sâu
xa đối với nhân loại. Chúng ta không lấy làm lạ khi nhiều người tôn Ngài là bậc
vĩ nhân, hoặc xem Ngài như một nhà đại cách-mạng, giải phóng con người ra khỏi
hai thứ xiềng xích nô lệ: tinh thần nô lệ thần linh, thể chất nô lệ giai cấp xã
hội.
Chúng ta thử đưa ra vài nhận xét về ý nghĩa bài học chiến thắng của Đức Phật
Thích Ca Mâu Ni.
1. Bài học Hy Sinh và Kiên Trì: Sức
chịu đựng gian khổ, Đức tính nhẫn nại bất thối chuyển và ý chí tinh tấn vô tiền
khoáng hậu của Ngài quả là một bài học vô giá đối với những ai muốn noi gương
Ngài đi tìm chân lý. Mặt khác, đức tính hy sinh của Ngài quả thật vô bờ bến.
Mấy ai dám từ bỏ tiền tài danh vọng để đổi lấy đời sống tu hành khắc khổ, thế
mà Thái Tử đã lìa bỏ cung điện nguy nga và khước từ quyền uy của một vị Chuyển
Luân Thánh Vương để dấn thân vào con đường chông gai hiểm trở, miễn là thực
hiện được lý tưởng tự giác giác tha.
2. Bài học Trung Đạo: Thời bấy giờ
ai cũng tin tưởng rằng thờ phụng thần linh hoặc khổ hạnh ép xác mới được cứu
rỗi. Có người tương đối sáng suốt hơn cho rằng thân xác là nơi phát xuất những
tội lỗi, những ham muốn nhục dục. Bao lâu không còn nô lệ ở thân xác thì tâm
hồn mới được thanh thoát, do đó họ hành hạ xác thân cho đến khi sức cùng lực
tận để mong thoát khỏi ái dục. Nhưng Đức Phật đã chứng nghiệm rằng khổ hạnh quá
đáng là vô ích, vì tâm hồn chỉ minh mẫn trong thân thể lành mạnh.
Như vậy chỉ có con đường Trung đạo, không thái quá, không buông lung, mới
đưa ta đến cứu cánh giải thoát. Con đường Trung đạo đó là phương pháp duy nhất
để chế ngự thân, khẩu, ý hầu hướng dẫn hành động, lời nói và tư tưởng theo lẽ
chánh.
3. Bài học Thực Chứng: Hầu hết các
tôn giáo thời bấy giờ đều dạy phải thờ cúng thần linh và con người phải quy phục
trước uy quyền thưởng phạt của Thượng đế. Sự thực chứng của Ngài chứng minh
rằng tất cả chúng sinh đều có khả năng thành Phật. Bất cứ ai kiên trì, nhẫn
nại, tinh tấn bất thối chuyển như Ngài cũng có thể tự mình giải thoát, giác ngộ
và trở thành bậc siêu phàm. Mỗi cá nhân có quyền tự do lựa chọn cho mình một
hướng đi và chịu trách nhiệm về mọi hành động của mình. Trong sạch hay ô nhiễm,
hạnh phúc hay khổ đau, trầm luân hay giải thoát đều do mình tạo ra.
Đây quả là một cuộc cách mạng giải phóng tư tưởng nô lệ mà trong đó con
người phải phục tùng Thượng đế chứ không thể trở thành Thượng đế của chính
mình. Có nô lệ chăng là con ngừời nô lệ nơi chấp ngã vì đã tự tạo và tự trói
buộc mình trong một thứ xiềng xích Vô Minh, Ái Dục. Từ sự nô lệ đó con người
trở thành phàm phu, thấp hèn. Chừng nào giải phóng ra khỏi những thằng thúc ấy
con người mới được giải thoát và trở thành thánh nhân, chứ không cần đến một
đấng quyền uy cứu rỗi.
Đức Phật cũng là một nhà đại cách mạng, chủ trương san bằng giai cấp khi
Ngài dạy rằng: "Không có giai cấp trong nước mắt cùng mặn.
Không có giai cấp trong dòng máu cùng đỏ". Ngài chứng tỏ rằng
một người trong giai cấp hạ liệt có thể tự giác và trở thành toàn thiện. Trái
lại, một người trong giai cấp vua chúa hay Bà La Môn nếu hành động đê tiện,
không sáng suốt thì vẫn là kẻ hạ liệt.
Chúng ta còn học được ở sự thực chứng của Ngài bài học "Chiến
thắng được mình là một chiến công oanh liệt". Bên trong mỗi
người đều có một đạo quân rất hùng hậu đang ngự trị đời sống của họ. Muốn đánh
đuổi thứ ngoại xâm đó không phải là dễ, vì giặc phiền não đã nằm ngay trong
những phần sâu kín nhất của tâm hồn chúng ta và đã trở thành một thứ nội tuyến
nguy hiểm mà Albert Camus gọi là "Kẻ lạ mặt".
Hành động của chúng ta hằng ngày bị chúng chi phối mà không hề hay biết. Khi
tĩnh tọa dưới cội cây Bồ Đề, chính Thái Tử Sĩ-Đạt-Ta đã đối diện với những đạo
binh ma này và đã hàng phục chúng trước khi trở thành bậc Chánh đẳng Chánh
Giác. Bất cứ ai muốn hoàn thành sứ mạng tự giác giác tha phải rèn luyện ý chí
quật cường và tinh thần dũng cảm để phấn đấu vì "Chiến thắng
vạn quân không bằng tự chiến thắng mình".
Cuối cùng, chúng tôi xin trích dẫn lời ca ngợi Đức Phật của học giả H. G
Wells sau đây: "Nơi Đức Phật ta thấy rõ ràng là một con người giản dị,
có lòng nhiệt thành; một mình tự lực phát huy ánh sáng tươi đẹp, một nhân vật
sống thực, một con người như mọi người, chứ không phải một nhân vật thần thoại
ẩn hiện trong nhiều truyện hoang đường. Ngài cũng ban cho nhân loại lời khuyên
bảo có tính cách phổ thông. Nhiều quan niệm tân tiến và đạo đức của thế hệ tân
thời đều tương hợp với giáo lý ấy".
Và Sri Radhakrishman cũng nói rằng: "Nơi Đức Phật Cồ Đàm ta nhận
thấy một tinh hoa toàn thiện của người Đông Phương, ảnh hưởng Ngài trong tư
tưởng và đời sống nhân loại là một kỳ công hy hữu cho đến nay không thua kém
ảnh hưởng của bất cứ một vị giáo chủ nào trong lịch sử. Mọi người đều sùng
kính, tôn Ngài là người đã dựng nên một hệ thống tôn giáo vô cùng thâm cao
huyền diệu. Ngài thuộc về lịch sử tư tưởng thế giới. Ngài là kết tinh của người
thiện trí. Đứng về phương diện trí thức thuần túy, đạo đức trang nghiêm và tinh
thần minh mẫn, chắc chắn Ngài là một trong những bậc vĩ nhân cao thượng nhất
của lịch sử".
Trích từ sách Con đường hạnh phúc
Source: phattuvietnam.net