Nhà
Lý trải qua chín đời vua, kéo dài 216 năm, từ 1010 đến năm 1225, đã trở
thành một trong những vương triều phát triển rực rỡ nhất trong lịch sử
phong kiến Việt Nam. Không những là triều đại mở đầu cho nền độc lập tự
chủ ổn định lâu dài, trước nhà Lý, các vương triều như Tiền Lý (541 –
547), Ngô (939 – 967), Đinh (968 – 980), Tiền Lê (981 – 1009) đều đã
giành độc lập dân tộc song chưa thể duy trì, phát triển nền dộc lập dân
tộc đó được bền lâu, mà vương triều Lý còn đặt nền móng cho sự phát
triển của dân tộc Đại Việt trong suốt lịch sử hàng ngàn năm sau. Việc
dời đô từ Hoa Lư ra thành Đại La và đổi tên thành Thăng Long (1010), ban
bố Hình thư (1042), xây dựng Văn miếu (1072), mở Quốc tự Giám (1076)…
với dụng ý xây dựng, phát triển một đất nước giàu mạnh, hùng cường, pháp
chế quốc gia đi vào nền nếp, quy củ, mở mang dân trí, đào tạo nhân tài
đã trở thành những việc làm có ý nghĩa lịch sử trong truyền thống dựng
nước và giữ nước của dân tộc ta. Và nhắc đến những thành tựu đó, không
thể không nhắc đến những vai trò hết sức to lớn của Phật giáo, một tôn
giáo đã có quá trình gắng bó, đồng hành cùng dân tộc suốt chiều dài lịch
sử. Sự ổn định, vững bền của vương triều Lý, chắc chắn có dấu ấn và sự
đóng gớp tích cực của Phật giáo, mà cụ thể ở đây là những nhân tài Phật
giáo đã đi vào lịch sử Phật giáo Việt Nam cũng như lịch sử dân tộc Việt
Nam như một mốc son chói lọi.
1. Nhân
tài Phật giáo thời Lý là nền tảng cho việc gây dựng, kiến tạo vương
triều. Vị vua khởi đầu nhà Lý – Lý Công Uẩn, đã được nuôi dưỡng, chăm
sóc, và dạy dỗ trong môi trường Phật giáo, vì vậy hẳn nhiên, trong con
người ông, tinh thần và triết lý Phật giáo sẽ có những ảnh hưởng nhất
định, nếu không muốn nói là giữ vai trò chủ đạo trong mọi quyết sách,
đường hướng điều hành đất nước. Và chắc hẳn, trong giai đoạn đầu khi mới
lên ngôi báu, trước mầm móng của những bất ổn trong nội bộ đất nước
chưa được giải tỏa hết, trước nguy cơ xâm lăng của đế quốc phương Bắc có
thể đến bất cứ lúc nào, thì những nhà sư, người đã có công đưa Lý Công
Uẩn lên ngôi vua sẽ phải là những nhà quân sư tích cực giúp đỡ trong
việc quản lý và điều hành đất nước. Điều đó cũng là dễ hiểu, lý giải cho
việc vì sao khi mới lên ngôi, Lý Thái Tổ đã cho dựng tám ngôi chùa ở
Phủ Thiên Đức, lại cho trùng tu chùa quán ở các lộ và độ làm tăng hơn
nghìn người ở kinh sư (1). Việc làm đó, ngoài tấm lòng của một người con
Phật, hẳn nhiên còn mang hàm ý của một sự biết ơn đối với một tôn giáo
có công giúp gây thành đế nghiệp.
Người
nhìn ra sự nghiệp đế vương của Lý Công Uẩn không ai khác chính là nhà
sư Vạn Hạnh, nhận thấy Lý Công Uẩn vẻ mặt khôi ngô, thông minh, tuấn tú
khác thường đã khen rằng: đứa bé này không phải người thường, sau này
lớn lên, ắt có thể giải nguy, gỡ rối, làm bật minh chủ trong thiên hạ
(2). Nhà sư Vạn Hạnh người châu Cổ Phá p(3), gia đình đời đời thờ Phật.
Thuở nhỏ sư đã khác thường, gồm thông ba học (4), nghiên cứu trăm luận
(5), xem thường công danh. Năm 21 tuổi sư xuất gia thờ Thiền Ông chùa
Lục Tổ làm thầy, ngoài lúc hầu hạ, sư học tập quên cả mệt mỏi (6).
Thiền
sư Vạn Hạnh sống trải qua bốn triều vua, từ Ngô, Đinh, Tiền Lê đế Lý.
Với đạo học, trí huệ của một người con Phật, bằng tinh thần vô ngã vị
tha và phá chấp của đạo Phật, ở thời nào, sư cũng đem hết sức lực phục
vụ đạo pháp và dân tộc. Với tư cách là một trí thức ưu tú của dân tộc
thời bấy giờ, thiền sư Vạn Hạnh đã giúp đỡ vua Lê Đại Hành trong công
cuộc phá Tống, bình Chiêm. Truyện Vạn Hạnh trong Thiền Uyển tập anh có
chép: Hoàng đế Lê Đại Hành ngày càng thêm tôn kính. Năm Thiên Phúc thứ
nhất (981), Hầu Nhân Bảo nhà Tống đến cướp, đóng quân giáp Lạng Sơn, vua
mời sư đến hỏi về chuyện thắng, bại. Sư đáp trong ba đến bảy ngày giặc
sẽ lui. Sau quả đúng như vậy. Vua muốn đi đánh Chiêm Thành, cùng triều
thần bàn luận mà chưa quyết, sư tâu vua xin cấp tốc tiến quân, không để
mất cơ hội. Sau đánh quả nhiên toàn thắng (7).
Sau
khi đất nước thái bình, thịnh trị, sư chuyên tâm lo Phật pháp. Việc vua
Lê Đại Hành cho người sang nhà Tống xin kinh Phật và việc Nam Việt
Vương Đinh Liễn cho khắc một trăm tràng kinh Phật hẳn là có sự tư vấn
của nhà sư Khuông Việt hoặc Pháp Thuận hoặc Vạn Hạnh. Đến cuối triều
Tiền Lê, khi xã tắc đứng trước nguy cơ của sự đỗ vỡ, trong triều ngoài
nội mục nát, vua Lê Ngọa Triều làm nhiều điều tàn ác, lòng dân ta oán,
đây chính là lúc cần lựa chọn sáng suốt một đấng minh quân, có tài kinh
bang tế thế, có thể cứu nguy vận nước, đem lại hạnh phúc ấm no cho nhân
dân. Chính ở đây, tinh thần phá chấp của Phật giáo đã phát huy giá trị
và vai trò của mình. Rõ ràng tinh thần trung quân mà Nho gia đề sướng là
“quân xử thần tử, thần bất tử bất trung” sẽ không thể tìm ra đường
hướng giải quyết trong trường hợp này. Và vì thế, cùng với vị trí đang
nắm giữ trong triều đình của Lý Công Uẩn, với sự giúp đở của Đào Cam Mộc
và sự hỗ trợ rất lớn của thiền sư Vạn Hạnh, Lý Công Uẩn đã có đủ điều
kiện về mọi mặt để đăng cơ lên ngôi hoàng đế. Với tinh thần Phật giáo mà
nhà vua đã được học tập trong những năm tuổi thơ, với sự giúp đỡ của
một vị sư như Vạn Hạnh, người mà danh tiếng về đạo hạnh và trí tuệ đã
được lưu truyền, thì nhà vua có thể hoàn toàn tin tưởng và yên tâm để
gánh vác trọng trách quốc gia, lãnh nhiệm vụ cứu nguy cho muôn dân khỏi
cảnh lầm than, đau khổ.
Để
chuẩn bị cho việc lên ngôi của Lý Công uẩn, đảm bảo chắc chắn sự thắng
lợi của việc làm đó, việc trước tiên, thiền sư Vạn Hạnh cùng những người
có ý phò tá Lý Công Uẩn cần làm là thu phục nhân tâm trong thiên hạ còn
đang rối bời, chưa biết trông ngóng về đâu. Chính những việc làm mang
màu sắc huyền tích như việc ở viện Cảm Tuyền, chùa Ứng Thiên Tâm, châu
Cổ Pháp có con chó đẻ con sắc trắng có hình đám long đen thành hình hai
chữ “thiên tử”. Kẻ thức giả nói rằng đó là điềm năm Giáp Tuất sinh người
làm thiên tử. Đến nay, vua sinh năm Giáp Tuất lên làm thiên tử, việc đó
thực ứng nghiệm (8); hay việc Vạn Hạnh nói với Lý Công Uẩn: mới rồi tôi
thấy ba chữ bùa sấm kỳ lạ, biết họ Lý cường thịnh, tất dấy lên cơ
nghiệp. Nay xem trong thiên hạ, người họ Lý rất nhiều nhưng không ai
bằng Thân vệ là người khoan thứ, nhân từ, được lòng dân, lại đang nắm
binh quyền trong tay, đứng đầu muôn dân chẳng phải Thân vệ thì còn ai
đương nổi nữa (9)… đã làm cho việc nối ngôi của nhà Lý thay nhà Tiền Lê
thống nhất thiên hạ trở thành một việc làm được cả người và thần trông
ngóng và phù trợ. Điều đó cũng làm cho những tư tưởng bất mãn, đối
nghịch trong các tầng lớp sỹ phu cũng như trong dân chúng cũng được tiễu
triệt đi đáng kể. Đó cũng chính là việc làm của một bật tài trí, thức
thời, biết nhìn xa, trông rộng. Và khi thời cơ đã chín muồi, Lý Công Uẩn
đã nhận được sự khích lệ và yểm trợ của giới Phật giáo, mà đại diện là
sư Vạn Hạnh, sự giúp đỡ của quan quân trong triều, mà đại diện là quan
chi hầu Đào Cam Mộc, sự đồng tình ủng hộ của nhân dân trong nước để lên
ngôi hoàng đế, chấm dứt bốn năm đen tối dưới thời Lê Ngọa Triều (1005 –
1009). Trong Thiền uyển tập anh còn ghi lại: ngày Lý Thái Tổ lên ngôi,
sư ở tại chùa Lục Tổ đã biết trước, bảo với người chú và người bác của
vua rằng: thiên tử đã băng, Lý Thân vệ hiện đang ở nhà, tay chân họ Lý
túc trực trong thành lên tới số ngàn, trong trưa nay, Thân Vệ ắt được
lên ngôi. Rồi yết bảng ở đường cái nói rằng:
"Tật lê trầm Bắt thủy
Lý tử thọ Nam thiên
Tứ phương qua can tỉnh
Bát biểu hạ bình yên (10)"
Hai người nghe nói rất sợ, hai người đi hỏi tin tức, quả đúng như lời sư nói (11).
Ngay
khi lên ngôi, Lý Thái Tổ đã rất tích cực trong việc châm lo đời sống
muôn dân, giảm hình phạt, miễn thuế dịch, cải tổ triều chính, xây dựng,
phát triển kinh tế, mở rộng bang giao… những việc làm đó điều được gây
dựng trên cơ sở phát huy tư tưởng, tinh thần chủ đạo của Phật giáo. Bởi
thế mọi việc diễn ra điều rất hài hòa, thuận lợi, nhận được sự đồng
thuận, vua tôi trên dưới một lòng hết sức vì sự phồn vinh của đất nước.
Một việc làm có ý nghĩa lịch sử mà Lý Thái Tổ đã làm thời bấy giờ là dời
đô từ Hoa Lư về thành Đại La và đổi tên thành Thăng Long. Việc làm này
không chỉ tạo nên một trung tâm văn hóa, kinh tế, chính trị của cả quốc
gia Đại Việt mà còn là giữ gìn cơ đồ, giang sơn cho muôn ức con cháu về
sau. Cho đến nay, trãi qua nhiều biến cố thăng trầm của lịch sử, mảnh
đất Thăng Long vẫn là kinh đô của bao triều đại, vẫn là thủ đô của đất
nước Việt Nam anh hùng.
2.
Không chỉ đóng góp công sức trong việc kiến tạo nên vương triều Lý, các
nhà sư thời Lý còn đóng góp rất nhiều trí lực trong việc bảo vệ, giữ
gìn và phát huy những thành quả của nhà Lý trong suốt nhiều năm sau đó.
Khi đất nước thái bình, thịnh trị, Phật giáo tham gia vào việc cải tạo
xã hội, khi đất nước đứng trước hiểm họa xâm lăng, Phật giáo tham gia
với tư cách như một lực lượng yểm trợ để cùng quân và dân Đại Việt làm
nên những chiến thắng hào hung khiến kẻ giặc phải khiếp sợ, không còn ý
định xâm phạm bờ cõi. Cũng chính vì thế mà ta nhận thấy, các vị vua nhà
Lý đều điều hành đất nước trên cơ sở tinh thần từ bi, hỷ xả của Phật
giáo. Các vua điều khoan từ, nhân ái, hết lòng thương yêu dân chúng,
giảm nhẹ hình phạt, ngay cả đối với kẻ thù cũng điều hết sức độ lượng,
bao dung. Tinh thần mộ Phật và thái độ hành xử bác ái chính là do các
vua thời Lý thường xuyên nhận được lời tham vấn từ các bật cao tăng của
chốn thiền môn.
Việc
các nhà sư được vua mời vào cung để hỏi chuyện chính sự không chỉ thuần
túy như một việc làm có tính chất đề cao đạo Phật, xuất phát từ sự mộ
đạo của một tín đồ, mà hơn thế sự uyên bác, thông tuệ của các nhà sư đã
giúp ích rất nhiều trong những vấn đề khúc mắc trong việc điều hành đất
nước của các vị quân vương. Trong Thiền uyển tập anh có ghi truyện Quốc
sư Viên Thông (1080 – 1151) như sau: năm Đại Thuận thứ 3 (1130) vua Lý
Thần Tông mời sư vào điện Sùng Khai hỏi về lý hưng vong trị loạn trong
thiên hạ. Sư đáp: Thiên hạ cũng như đồ dùng, để chỗ yên thì được yên, để
chỗ nguy thì bị nguy, xin đấng nhân chủ hãy làm sao cho được như thế.
Dùng đức hiếu sinh hợp với lòng dân, cho nên dân yêu thương như cha mẹ,
trông ngóng như trời trăng. Đó là để thiên hạ vào chỗ yên vậy… sư đối
đáp quả thật xứng chỉ, nên được thăng làm Hữu nhai Tăng thống, được tự
do gần vua dâng lời chỉ bảo, chưa từng thiếu sót. Qua đoạn đối đáp của
Quốc sư Viên Thông với vua Lý Thần Tông trên đây thôi cũng đủ thấy, các
nhà sư thời Lý đã đóng góp như thế nào cho nền chính sự của quốc gia. Sự
thông hiểu về thế sự như thế, chắc chắn phải được gây dựng trên nền
tảng căn bản của một đạo học tinh thông cộng với một trí tuệ tuyệt vời
và sự ưu thời mẫn thế của người thức giả để có thể đưa ra một giải pháp
phù hợp cho việc trị nước.
Nhận
thức được vai trò to lớn của những nhân sỹ Phật giáo như vậy nên các vị
vua nhà Lý luôn tìm cách để trọng dụng, tranh thủ đức tài của họ vào
công cuộc trị nước. Vua Lý Nhân Tông cùng với Linh Nhân Hoàng Thái hậu
lúc mới lưu tâm tới thiền học, liền xây chùa bên cạnh cung Cảnh Hưng,
mời Đại sư Mãn Giác đến ở để tiện việc hỏi han. Nói chuyện với sư vua
không nói tên mà chỉ gọi là Trưởng lão. Một hôm vua mời sư đến nói: Bật
chí nhân thị hiện tất lo việc cứu đời, không hạnh nào chẳng đủ, không
việc gì chẳng làm, không phải chỉ có sức định huệ, mà cũng có công phò
tá. Vậy xin kính bổ nhiệm ngài (12). Các vị vua nhà Lý thường xuyên được
trao đổi, bàn bạc về chính sự với các bật tri túc Phật giáo, hầu như
thời vua nào cũng có chuyện vời các nhà sư danh tiếng vào cung để nhà
vua thảo luận về chính sự, về Phật pháp. Những vị thiền sư Vạn Hạnh, Đa
Bảo, Giác Hải, Mãn Giác, Viên Chiếu, Quốc sư Minh Không, Viên Thông,
Thông Biện… không chỉ làm rạng danh Phật giáo đồ mà còn là những bật
quân sư lỗi lạc, phò trợ các bật quân vương gìn giữ vương quyền chính
thể, để lại tiếng thơm lưu danh muôn đời.
Chính
vì thường xuyên nhận được sự hỗ trợ về mọi mặt của các nhà sư như thế
mà trong cách điều hành chính sự của nhà Lý có rất nhiều điểm mang nặng
tư tưởng và tình cảm của Phật giáo, thậm chí điều đó còn bị các nhà
chính sử mang tư tưởng Nho gia phê phán như một điểm yếu khi quá mê
chuộng đạo Phật. Nhưng đặt lại vấn đề, nếu như không có một tinh thần từ
bi, bác ái của đạo Phật như thế, liệu cơ đồ nhà Lý có tồn tại được suốt
hơn hai trăm năm hay cũng phải chịu chung số phận như các triều đại
trước. Trong Đại Việt sử ký toàn thư còn ghi lại khi Lý Thái Tổ băng hà,
quần thần định đưa thái tử Lý Phật Mã lên ngôi, có ba vương là Đông
Chinh, Dực Thánh và Vũ Đức làm phản, đưa quân bao vây cấm cung, Lý Phật
Mã rất lấy làm đau xót vì việc tiên đế mới mất chưa quàn mà cốt nhục đã
giết nhau. Sau nhờ có Lê Phụng Hiểu phò trợ, diệt được Vũ Đức vương và
đánh đuổi được Đông Chinh vương, Dực Thánh vương, tôn Phật Mã lên làm
vua. Trái với lẽ thường, sau khi lên ngôi, Lý Thái Tông không truy sát
hai vương mà lại xuống chiếu tha cho, lại cho tước hiệu, bổng lộc như
cũ; hay như khi Nùng Chí Cao ở biên giới phía Bắc làm phản, vua đi đánh
thắng, thương xót vì cha Trí Cao làm phản đã bị giết nên tha cho, lai
phong tước, cho trấn giữ biên ải; hay như khi vua thân đi đánh Chiêm
Thành, vua ra lệnh không cho quân sỹ tàn sát dân thường, ai giết dân
phải đền mạng… tất cả những điều đó, đều có được từ tinh thần, tư tưởng
từ bi bác ái của đạo Phật mà các vua nhà Lý đều đã thấm nhuần. Chỉ có tư
tưởng, triết lý nhân sinh của Phật giáo mới có thể giúp đấng minh quân
như các vua nhà Lý có được tấm lòng bao dung, độ lượng và hành động
nghĩa hiệp đến như thế.
Một
điều nữa cũng cần phải nói đến là ngay bản thân chính các vị vua nhà Lý
cũng là những Phật tử thuần thành. Ngoài việc điều hành đất nước theo
thiên chức của đấng thiên tử, các vua nhà Lý cũng giành thời gian cho
việc tham cứu giáo lý Phật đà, và hơn thế nữa, họ còn là những bật anh
tú vườn thiền. Khi quốc gia cần người trị vì, đứng đầu cai quản, làm hết
chức trách và bổn phận, khi đất nước thái bình thịnh trị họ trở về với
niềm vui trong Phật pháp. Trong Thiền uyển tập anh còn ghi rõ Hoàng đế
Lý Thái Tông là truyền thừa thế hệ thứ nhất của thiền phái Thảo Đường;
Hoàng đế Lý Anh Tông là truyền thừa thế hệ thứ ba của thiền phái Thảo
Đường và Hoàng đế Lý Cao Tông là truyền thừa thế hệ thứa năm của thiền
phái Thảo Đường. Với những vai trò như thế, rõ ràng, với các vị vua nhà
Lý, Phật giáo không chỉ là cứu cánh là trợ duyên để họ đạt đến vương
quyền, mà hơn thế, đạo Phật đã trở thành niềm vui, thành ý nghĩa trong
cuộc sống, và đó cũng là điều dễ hiểu khiến Phật giáo thời Lý hưng thịnh
và phát triển.
Không
chỉ đóng vai trò như những bật quân sư yểm trợ các đấng quân vương
trong các việc chính sự, và các nhà sư thời Lý cũng là những bật hộ pháp
có công gây dựng, phát triển Phật giáo. Không phủ nhận việc Phật giáo
được tôn kính, yểm trợ của các bật quân vương sẽ có những lợi thế nhất
định để phát triển, song tự nội lực Phật giáo cũng phải trang bị cho
mình những yêu cầu cần thiết để đáp ứng trước các đòi hỏi của xã hội.
Việc có những thiền sư được phong chức quốc sư, tăng thống hay được ban
các chúc quan tăng đạo là một thuận duyên lớn để đạo Phật có cơ hội phát
triển. Những bật rường cột của Phật pháp với trí tuệ và đạo đức của
mình cũng làm cho Phật giáo lấy được lòng tin của nhân dân và tín đồ
Phật tử. Việc các vị hoàng đế nhà Lý cho xây dựng chùa chiền ở nhiều
nơi, độ dân làm tăng sỹ, phái sứ bộ sang phương Bắc thỉnh kinh tạng, xây
kho chứa kinh, đúc chuông, tô tượng… hẳn đã làm cho các sinh hoạt Phật
giáo thời bấy giờ hết sức sôi nổi và sinh động. Điều đó không chỉ có ý
nghĩa với đạo Phật, bằng những con số của sự tăng trưởng, mà còn cho
thấy, Phật giáo đã dung hòa và đi vào lòng xã hội như một thực thể không
thể tách rời, đạo và đời hòa hợp, hai bên cùng vì nhau để phát triển.
Đạo cũng từ đời mà ra, đạo giúp đời cũng tức là đang giúp mình, đời giúp
đạo cũng tức là đang đưa đạo đến với đời, đến với chúng sanh.
Có
thể nói, thời Lý là thời của Phật giáo, cũng vì thế mà nhân tài Phật
giáo thời Lý nở rộ. Những bật đạo sư tài năng, đức độ, trí tuệ thông
hiểu đạo đời xuất hiện đông đảo đã làm cho chốn thiền lâm nơi mảnh đất
Đại Việt thực sự trở thành trung tâm của Phật giáo như đã có hàng ngàn
năm về trước. Điều đó có được cũng chính là bởi, Phật giáo thời Lý đã
phát huy tinh thần khế lý, khế cơ của đức Phật, dấn thân vào các hoạt
động xã hội, tham gia triều chính, yểm trợ chính quyền, hoằng dương Phật
pháp, tiếp độ chúng sanh. Phật giáo không coi mình bên ngoài chính sự,
Phật giáo không lợi dụng sự tôn kính của các bật quân vương đối với tôn
giáo mình để bài xích, loại trừ các tôn giáo khác, Phật giáo cũng không
dùng cách thức hành xử cực đoan để độc tôn, đề cao mình, mà trái lại,
bằng trí tuệ uyên thâm, sâu sắc, bằng tinh thần từ bi, hỷ xả, Phật giáo
luôn dung hòa các mối quan hệ, luôn đề cao, phát huy tinh thần đoàn kết,
gắn bó, coi đó là tiêu chí cho sự phát triển ổn định, bền vững và lâu
dài./.
Theo Tạp chí công tác Tôn giáo số 8/2010
Chú Thích:
1. Đại Việt sử ký toàn thư, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, 1998, bản in Nội các quan bản, trang 242.
2. Sđd, trang 240
3. Đình Bảng, Bắc Ninh ngày nay.
4. Ba học tức là giới định tuệ trong quan điểm tu học của Phật giáo.
5. Trăm luận tức là bách gia chư tử theo truyền thống Nho học.
6. Lê Mạnh Thác, Nghiên cứu Thiền uyển tập anh, Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh, 1999.
7. Sđd, trang 266
8. Đại Việt sử ký toàn thư, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, 1998, bản in Nội các quan bản, trang 240
9. Sđd, trang 238
10. "Tật Lê chìm bể Bắc
Hạt Lý mọc trời Nam
Bốn phương gươm giáo đẹp
Tám cõi mừng bình an"
11. Lê Mạnh Thác, Nghiên cứu Thiền uyển tập anh, Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh, 1999, trang 268
12. Lê Mạnh Thác, Nghiên cứu Thiền uyển tập anh, Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh, 1999, trang 206.