Theo một số nhà nghiên cứu, đây là ngôi chùa tổ cổ nhất miền
Trung thuộc dòng thiền Lâm Tế. Nơi đây cũng lưu truyền không ít câu
chuyện nhuốm màu sắc liêu trai về “hòn đá chém” được các quan tư pháp
nhà Nguyễn dùng làm chỗ hành hình những nghĩa sĩ theo phong trào Tây
Sơn; hay sự tích hạt lúa khổng lồ có thể tự nảy mầm trổ hạt mà không cần
gieo cấy…
Cổ tự ngàn năm in bóng dấu tích vua Chiêm Thành xưa
Một người bạn chí cốt vốn là “thổ
công” miền đất võ quả quyết, về An Nhơn mà không chiêm bái chùa Thập
Tháp thì coi như uổng cả chuyến đi. Chẳng hiểu thực hư thế nào nhưng
nghe qua cũng đã thấy tò mò. Vậy là, nhân chuyến công tác tại Bình Định
mới đây, tôi nằng nặc thuyết phục gã dẫn đi thăm chùa. Có lẽ, tính đến
nay, lịch sử chùa đã được gần bốn thế kỷ. Mười ngôi tháp yểm hậu của
người Chàm trên khu gò phía Bắc thành Đồ Bàn đã gãy đổ nhưng vẫn còn in
đậm dấu vết. Tương truyền đây chính là vùng lãnh uyển của vua chúa Chiêm
Thành xưa.
Cây phi lao đại thụ nghìn tuổi
Từ thành phố Quy Nhơn, xe chúng tôi
xuôi theo quốc lộ 1A khoảng 30km về hướng sân bay Phù Cát tìm đến ngôi
cổ tự Thập Tháp. Đoạn đường vào chùa rợp bóng tre xanh, nằm cạnh cánh
đồng lúa xanh mơn mởn. Giữa ngày hè nhưng làn gió từ hồ sen rộng ngút
tầm mắt trước chùa phả vào mát rượi. Bước qua cổng tam quan phủ rêu
phong, đặt chân vào ngôi cổ tự rợp bóng cổ thụ, tôi bỗng thấy lòng mình
thanh thản như chìm vào một cảm giác an lạc đến lạ kỳ. Âu cũng là cái
duyên, bởi nếu không quyết tâm, chắc tôi sẽ chẳng có cơ hội được một lần
đến với Thập Tháp cổ tự.
|
Thập Tháp cổ tự đã tồn tại được gần bốn thế kỷ |
Ngồi xuống một bậc đá, chúng tôi tận
hưởng những làn gió mát lành. Xung quanh yên tĩnh và mát mẻ lạ thường.
Tôi rũ bỏ hết mọi bận bịu nặng nề của cuộc sống xô bồ ngoài kia, rũ bỏ
cái nóng gay gắt của tiết trời miền Trung để tận hưởng cảm giác thư thái
theo đúng nghĩa. Trước mắt tôi là một ngôi cổ tự bề thế, thâm nghiêm
nằm ẩn mình dưới những hàng cây cổ thụ hàng trăm tuổi. Tôi đặc biệt ấn
tượng với cây phi lao đại thụ nằm giữa khuôn viên chùa. Ai đi qua cũng
cố gắng nán lại để chiêm ngưỡng một kiệt tác của tự nhiên thách thức sự
phong hóa của thời gian. Gốc cây to và chắc như đá, năm bảy người ôm
không hết, thân nổi lên những khối xù xì to như chiếc bát. Phần gốc đã
xuất hiện những hốc sâu bằng bàn tay rỗng vào trong chứng tỏ cây phi lao
đại thụ đã trải qua nhiều biến thiên lịch sử. Phật tử phải dùng xi măng
đắp thành lớp dày phía thân bị mục để bảo vệ phần gốc và giúp cây đứng
vững. Có một điều đặc biệt, dù thuộc hàng đại thụ trong vườn nhưng cây
phi lao vẫn xanh tốt, cành lá tỏa bóng che phủ cả góc vườn. Chốc chốc
những cơn gió vi vu chợt đến làm bốc lên những màn bụi nhỏ, thổi những
chiếc lá khô xào xạc…
Đang mải mê ngắm nghía, tôi gặp cụ Hà
(86 tuổi) một người công quả tại chùa. Chắc hẳn do tuổi cao khiến cụ
không thể nhớ rõ tên họ của mình. Phải hỏi đi hỏi lại rất nhiều lần tôi
mới luận được trong giọng nói xứ Bình Định ấy tên của cụ là Hà. Khi được
hỏi về tuổi thọ cũng như gốc tích của cây phi lao cổ này, cụ Hà cho
biết: “Nhà tôi ba đời trông nom tại chùa nhưng cũng chẳng ai biết gốc cổ
thụ đó có từ bao giờ. Lớn lên tôi đã thấy nó đứng sừng sững ở đó, chẳng
khác bây giờ là mấy. Có lẽ nó có từ ngày chùa Thập Tháp được xây dựng”.
Để tìm hiểu thêm thông tin về ngôi
chùa, PV liên lạc với ông Nguyễn Thanh Quang, trưởng phòng Nghiệp vụ,
Ban quản lý di tích tỉnh Bình Định. Ông Quang cho biết, chùa Thập Tháp
thuộc vào hàng chùa chiền ra đời sớm ở Đàng Trong, từ năm 1677. Tính đến
nay, lịch sử chùa đã được gần bốn thế kỷ. Mười ngôi tháp yểm hậu của
người Chàm trên khu gò phía Bắc thành Đồ Bàn đã gãy đổ nhưng vẫn còn in
đậm dấu vết trên địa danh này. Phía sau chùa vẫn còn những nền móng
nhuốm màu rêu phong. Chùa nằm trên đồi Long Bích, mặt hướng về núi Mò O
(dân gian còn gọi là núi Thiên Bút), là vùng lãnh uyển của vua chúa
Chiêm Thành xưa.
“Bản tự cung soạn” viết ngày 28/12 năm
Kỷ Mùi (1979) hiện lưu giữ tại chùa cũng giải thích: “Chùa Thập Tháp
được mang tên “Thập Tháp Di Đà tự”. Nguyên trước đây trên khu đồi này có
mười ngọn tháp Chăm, sau một thời gian bị điêu tàn, sụp đổ. Vì chùa có
mười ngôi tháp nên gọi là Thập Tháp. Còn Di Đà cũng có nghĩa lý tánh bản
giác chúng sanh. Tổng hợp hai ý nghĩa trên tổ đình được mệnh danh là
“Thập Tháp Di Đà tự”. Chùa Thập Tháp toạ lạc trên khu đồi mang tên Long
Bích. Về phía Bắc, nằm yểm hậu sát cạnh thành Đồ Bàn, thuộc thôn Vạn
Thuần, xã Nhơn Thành, huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định”.
Bí ẩn dấu tích tháp cổ
Theo chân cụ Hà, tôi bắt đầu khám phá
về khuôn viên khu chùa. Cụ giải thích, chùa được bao bọc bởi sông Côn
phía sau lưng và sông Bàn Khê phía Bắc nên lúc nào cũng lồng lộng gió.
Ngay phía cổng là một bức bình phong đã nhuốm rêu phong. Mặt bình phong
có đắp nổi hình long mã phù đồ đặt trên một bệ chân quỳ. Chùa được xây
dựng theo kiểu chữ khẩu, gồm chánh điện, tây đường, đông đường và nhà
phương trượng. Giữa cửa chính của ngôi chánh điện có một tấm biển lớn
ghi rõ “Sắc tứ Thập Tháp Di Đà tự” bằng chữ Hán. Theo các nhà sử học,
đây chính là tấm biển được Minh vương Nguyễn Phúc Chu ban tặng khi mới
lên ngôi. Tuy nhiên, do chiến tranh loạn lạc, thời gian bào mòn, tấm
biển đã bị hư hại nặng nề. Sau này ngài Mật Hoàng, một thiền sư danh
tiếng viết khắc lại.
Một điều bí ẩn luôn thôi thúc trí tò
mò của phật tử bốn phương cũng như các nhà khoa học có lẽ nằm ở những
ngọn tháp nằm rải rác xung quanh chùa. Theo ông Nguyễn Thanh Quang, hiện
nay vẫn chưa có cơ sở khoa học chứng minh gốc tính những ngôi tháp này.
Tuy nhiên, phía sau chùa vẫn còn ngổn ngang dấu tích những ngôi tháp từ
ngày xưa để lại, có lẽ là từ thời vua Chiêm Thành. Hơn hai chục ngôi
tháp nằm sừng sững hiện nay thực chất là những ngôi mộ an trí nhục thân
của các vị trụ trì và các bậc tôn túc trong chùa.
Sau lưng chùa, nằm trên đồi Long Bích
còn có tháp Bạch Hổ. Đến nay người dân nơi đây vẫn lưu truyền câu chuyện
về nguồn gốc ngôi tháp này. Tương truyền, dưới thời thiền sư Liễu Triệt
trụ trì, có một con cọp trắng hàng đêm rời núi rừng đến gần chùa nghe
tụng kinh. Dù vô cùng to lớn nhưng cọp không ăn thịt và không làm hại
ai. Một hôm, trong lúc thiền định, hòa thượng Liễu Triệt cảm nhận có một
lão trượng râu tóc bạc trắng đến báo vừa mãn phần, hiện yên nghỉ sau
chùa, xin được hòa thượng cùng tăng chúng tụng kinh để được siêu độ.
Sáng hôm sau, hòa thượng cho người tìm khắp vùng thì chỉ thấy xác con
cọp trắng nằm chết, ngài liền cho thu lượm rồi lập tháp để an trí xác
cọp. Tên tháp Bạch Hổ xuất phát từ truyền thuyết này.
Được biết, ngoài hệ thống bảo tháp,
chùa Thập Tháp hiện vẫn còn lưu giữ nhiều hiện vật văn hóa vô giá. Trong
chùa có đủ ba tạng kinh, giấy khổ rộng và chữ lớn bằng ngón tay út.
Theo đánh giá của các nhà nghiên cứu văn hóa, ba tạng kinh này, ngoài
chùa Thập Tháp ra, không chùa nào có. Bộ kinh có tuổi thọ nhiều thế kỷ
từng trải qua không ít biến cố của lịch sử. Ngoài ra, cổ tự còn lưu giữ
2.000 bản khắc gỗ dùng in kinh Di Đà sớ sao, Kim Cang trực sớ, Pháp Hoa
khóa chú, bộ Đại Tạng kinh Cao Ly… vô cùng giá trị.
Các nhà nghiên cứu cho biết, văn bia
còn để tại chùa ghi nhận rằng chùa Thập Tháp là hậu thân của am Di Đà
được ngài Nguyên Thiều Hoán Bích xây dựng ở làng Thuận Chánh huyện Tuy
Viễn vào năm 1665 trong đời chúa Nguyễn Phúc Tần (Hiền vương). Sách Đại
Nam nhất thống chí nói chùa này được lập năm 1683, nhưng theo Việt Nam
Phật giáo sử luận của Nguyễn Lan thì niên đại này có lẽ để ghi nhận lúc
chùa đã khánh thành sau một thời gian xây dựng nhiều năm. Đến năm 1691,
chùa đã được chúa Nguyễn Phúc Chu ban biển ngạch và câu đối.
Tác giả: Anh Văn/Nguồn: Người đưa tin