Điều đặc biệt nhất, "khai sinh" ra Trung
tâm Phật giáo Luy Lâu
không phải từ đất nước Trung Hoa rộng lớn, mà nó lại được bắt nguồn và
mang đậm dấu ấn của Phật giáo Ấn Độ, theo con đường truyền bá của các
tăng sỹ và các thương lái, nhà buôn người Ấn Độ bằng đường biển. Và quan
trọng nhất, Phật giáo Việt Nam cho đến bây giờ, đó là sự hoà hợp của
Phật giáo Ấn Độ với tín ngưỡng bản địa, chứ không phải là sản phẩm của
1.000 năm Bắc thuộc.
"Sản phẩm" của bản địa
Theo họa sỹ, nhà phê bình mỹ
thuật Phan Cẩm Thượng, trong lịch sử Phật giáo Việt Nam, Phật giáo Việt
Nam chịu ảnh hưởng của Phật giáo Ấn Độ theo con đường từ Tây Tạng đi
sang. Khi người Trung Quốc muốn truyền Phật giáo sang Việt Nam thì Phật
giáo đã vào Giao Châu rồi, Việt Nam đã có được mấy bộ kinh, mấy chục
ngọn tháp rồi.
Khi
đó, ở Luy Lâu có tín ngưỡng
thờ thần tự nhiên, mây mưa sấm chớp. Phật giáo Ấn Độ vào Việt Nam tìm
cách hoà hợp với tín ngưỡng này, nên mới sinh ra truyền thuyết về Man
Nương, là nguồn gốc để có hệ thống tín ngưỡng Tứ pháp cho đến tận bây
giờ… Gắn với truyền thuyết Man Nương ở vùng Dâu (Thuận Thành - Bắc
Ninh), nghệ thuật và lễ hội Tứ pháp hiện vẫn thịnh hành, tuy những lễ
cầu đảo hô phong hoán vũ không còn nữa.
Truyền thuyết kể rằng: vào thời
Sỹ Nhiếp, viên Thái thú người Tàu cai trị Giao Chỉ, có sư Khâu Đà La từ
Tây Trúc sang Giao Châu. Thoạt tiên, đến vùng Phật Tích, sau đó đến Luy
Lâu (nay là khu vực Dâu - Keo). Ở đây, ngài được vợ chồng Tu Định rất
mộ đạo, cho con gái mình là Man Nương theo hầu. Một hôm, Khâu Đà La đi
chơi về, thấy Man Nương ngủ ở bậu cửa, không nỡ đánh thức bèn bước qua.
Chẳng ngờ cô gái động mình có thai. Vợ chồng Tu Định rất giận, chờ con
gái sinh hạ, bế đứa bé trả lại nhà sư. Khâu Đà La đem đứa bé vào rừng,
nói với cây Dung thụ (cây Dâu): nếu có thiêng thì hãy nhận lấy hài nhi
này. Cây bèn mở thân, sư đặt đứa bé vào đó, cây khép lại. Khâu Đà La sau
đó về Tây Trúc, trao cho Man Nương cây gậy, dặn lúc nào hạn hán thì
chọc xuống đất, chỗ đó sẽ có nước.
Nhiều năm sau, sông Dâu dâng
nước lụt khắp vùng, cuốn trôi cây Dung thụ, không ai vớt được. Man Nương
bèn lấy dải yếm kéo cây vào. Sỹ Vương cùng dân chúng xẻ cây làm bốn
khúc, tạc thành bốn tượng Mây, Mưa, Sấm, Chớp, thờ ở bốn chùa Vân - Vũ -
Lôi - Điện. Riêng cành cây cũng tạc thành một tượng Pháp, thờ ở chùa
Keo, gần đó. Đứa bé trong cây biến thành tảng đá, gọi là Đức Thạch
Quang, cũng thờ trong chùa Dâu.
Theo Việt Nam Phật giáo sử luận
(tác giả Nguyễn Lang - Nhà xuất bản Văn học Hà Nội - 1979): "Đạo Phật
được truyền vào Việt Nam khoảng đầu kỷ nguyên Tây lịch. Tài liệu chắc
chắn cho biết rằng vào hạ bán thế kỷ thứ hai, tại nước ta đã có một
trung tâm Phật giáo phồn vinh và quan trọng rồi, nhưng có thể đạo Phật
đã du nhập vào nước ta trong thế kỷ đầu của kỷ nguyên.
Các tài liệu như Hậu Hán Thư
trong đó có câu chuyện Sở Vương Anh theo Phật giáo, sách Lý Hoặc Luận
của Mâu tử viết tại Việt Nam vào hạ bán thế kỷ thứ hai, kinh Tứ Thập Nhị
Chương và một số tài liệu khác, có tính cách lặt vặt hơn, cho ta thấy
rằng trong đời Hậu Hán (thế kỷ thứ nhất và thứ hai) ngoài hai trung tâm
Phật giáo ở Trung Hoa, còn có một trung tâm Phật giáo rất quan trong
khác ở Giao Chỉ, tức Việt Nam, lúc bấy giờ đang nội thuộc Trung Quốc.
Hai trung tâm ở Trung Hoa là trung tâm Lạc Dương và trung tâm Bành
Thành. Lạc Dương là kinh đô Trung Hoa vào đời nhà Hán, Hiện nay là một
huyện ở tỉnh Hà Nam, còn Bành Thành thì ở về hạ lưu sông Dương Tử, hiện
thuộc tỉnh Giang Tô. Ở nước ta thì có trung tâm Luy Lâu: Luy Lâu là trị
sở bấy giờ của Giao Chỉ, hiện nay thuộc phủ Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh…
Có nhiều dữ kiện khiến cho chúng ta nghĩ trung tâm Luy Lâu được thành
lập sớm nhất, và trung tâm này đã làm bàn đạp cho sự thành lập các trung
tâm Bành Thành và Lạc Dương ở Trung Hoa".
Cũng theo truyền thuyết, các
chùa Tứ pháp được xây dựng ngay từ thời Sỹ Nhiếp, tức là thế kỷ II,
nhưng các di tích này không còn gì. Năm 580, Thiền sư Tây Trúc Tì ni đa
lưu chi (Vicitaruci), sang Giao Châu truyền đạo, lập ra dòng Thiền đầu
tiên ở chùa Dâu. Nhưng phải đến thế kỷ XIII-XIV mới có di tích còn để
lại đến nay. Mạc Đĩnh Chi trạng nguyên thời Trần cho xây lại chùa, xây
cầu chín nhịp, tháp chín tầng, nay tháp đã đổ chỉ còn ba tầng. Nguyên
ủy, nơi thờ Tứ pháp chỉ là một kiến trúc mặt bằng hình vuông, chính giữa
đặt Tứ pháp, hai bên có Kim đồng - Ngọc nữ. Trước mặt là hòn đá thiêng
và tượng đức thánh tải (con của Tứ pháp), sau lưng là tượng sư Khâu Đà
La. Khi đạo Phật đồng hoá tín ngưỡng này, ban thờ Phật được thêm ra,
kiến trúc cũng giống như các chùa kiểu nội công ngoại quốc đồng bằng Bắc
Bộ, ban thờ Tứ pháp đặt trước, ban thờ Phật đặt sau, gọi là tiền Thánh
hậu Phật.
Nguồn gốc Trung tâm
Phật giáo Luy Lâu
Trong tác phẩm Việt Nam Phật
giáo sử luận (tác giả Nguyễn Lang - Nhà xuất bản Văn học Hà Nội - 1979),
thì "Trung tâm Luy Lâu được hình thành do sự viếng thăm của những tăng
sĩ Ấn Độ. Các vị tăng sĩ này tới viếng Việt Nam bằng đường biển, theo
các thuyền buôn người Ấn. Nhưng trước khi các vị tăng sĩ Ấn Độ tới Việt
Nam, các thương gia Ấn Độ cũng đã tới Việt Nam rồi và cũng đã mang theo
sinh hoạt Phật Giáo tới xứ ta".
Hồi bấy giờ (đầu kỷ nguyên), Ấn
Độ đã có liên hệ thương mại trực tiếp với Trung Đông và gián tiếp với
các nước vùng địa Trung Hải, đế quốc La Mã tiêu thụ rất nhiều vàng, lụa,
hương liệu, trầm, quế, tiêu, ngà voi, châu báu... để có đủ hàng cung
cấp cho thị trường ấy, các thương gia Ấn Độ đã dong thuyền đi mãi về
Viễn Đông. Những thương thuyền này theo gió mùa Tây Nam đi về Đông Nam
Á, tới bờ biển Mã Lai, Phù Nam và Giao Chỉ. Thương gia Ấn Độ phải ở lại
đây cho đến năm tới, chờ cho gió mùa Đông Bắc để trở về Ấn Độ. Trong
thời gian này, họ lại sống với dân bản xứ và đã ảnh hưởng tới dân bản xứ
bằng lối sống văn minh của họ. Vì sự có mặt của những thương gia Ấn Độ
mà dân ta hồi đó đã biết đến ít nhiều về kỹ thuật canh tác, y thuật và
tôn giáo Ấn Độ. Ta có thể nói rằng chính những thương gia Ấn Độ đã trước
tiên đem Phật giáo vào nước ta.
Những thương gia kia, tuy vậy,
không phải là những nhà truyền giáo, và mục đích của họ khi đến xứ ta là
để buôn bán chứ không phải là để truyền đạo. Trong thời gian lưu lại
Giao Chỉ, họ thờ Phật, đốt trầm, đọc kinh và cúng dường những pháp Phật
nho nhỏ mà họ mang theo. Người Giao Chỉ ta đã áp dụng những điều hay về
canh nông và về y thuật do họ chỉ bày, cố nhiên là cũng tỏ ra mến chuộng
tôn giáo của họ. Nhưng nếu hồi đó có những người Giao Chỉ theo đạo Phật
thì đạo Phật đây cũng mới chỉ là những sinh hoạt tín ngưỡng đơn sơ của
người cư sĩ, giới hạn trong sự tụng đọc tam quy, cúng dường Phật tháp và
bố thí cho người ốm đau đói khổ, chứ chưa có sự học hỏi kinh điển và
chế độ tăng sĩ.
Trong các chuyến đi xa hàng năm
với nhiều tháng lênh đênh trên biển cả như thế, các thương gia Ấn cũng
thờ cúng và cầu nguyện đức Phật và các vị Bồ Tát hộ trì cho trời yên
biển lặng và mọi sự yên lành. Các thương thuyền này thường thờ đức Quán
Thế Âm (Avalokitesvara) và đức Nhiên Đăng (Dipankara), được nổi tiếng là
những vị che chở cho thủy thủ được an lành ngoài biển khơi.
Cũng trong mục đích cầu nguyện
và cúng dường tam bảo, họ thỉnh theo thương thuyền một vị tăng sĩ. Chính
những vị tăng sĩ đi theo thương thuyền này sẽ lập nên Trung tâm Phật
giáo Luy Lâu tại Giao Chỉ.
Tuy nhiên, những vị tăng sĩ đi
theo các thương thuyền Ấn Độ không phải chỉ mục đích giảng đạo và cầu
nguyện cho các phật tử trong thương thuyền. Vào cuối thế kỷ thứ nhất
trước Tây lịch, khuynh hướng Phật Giáo đại thừa đã nảy nở tại Ấn Độ, và
vào đầu thế kỷ thứ nhất của kỷ nguyên Tây lịch, các trung tâm Amaravati
và Nagarjunakonda ở miền duyên hải Đông Nam Ấn Độ dần dần trở nên những
trung tâm Phật giáo truyền bá vào các nước xa là một trong những hoa
trái của đạo Phật đại thừa; chính ý hướng này đã thúc đẩy những vị tăng
sĩ đi theo các thương thuyền về Đông Nam Á. Trung tâm Phật Giáo Luy Lâu
được thiết lập do sự viếng thăm của thương gia và tăng sĩ Ấn Độ tới bằng
đường biển, đó là một điều tất cả các học giả đều phải đồng ý. Đạo Phật
tại Giao Châu do từ Ấn Độ truyền sang trực tiếp, không phải là từ Trung
Hoa truyền xuống…