Phụng sự, đó là sự sống của
Phật giáo Đại thừa. Một câu trong kinh Hoa Nghiêm cô đọng tư tưởng này: “
Phụng sự chúng sanh là cúng dường chư Phật”.
Chúng ta thường nghe nhận xét rằng Phật
giáo Việt Nam có tính nhập thế tích cực. Tính cách nhập thế này của PGVN
cũng xuất phát từ tư tưởng phụng sự, tức là tư tưởng điều động toàn bộ
cuộc đời, tất cả thân khẩu ý của một người tu đạo Bồ tát.
Ở một nhà vua Phật tử như Trần Thái
Tông, chúng ta thấy tư tưởng này nổi bật. Thời niên thiếu, vua bỏ triều
đình lên núi Yên Tử để xin xuất gia. Vua kể lại: “Trẫm tự bảo mình,
trên đã không có cha mẹ để tựa nương, dưới lại chẳng xứng với lòng dân
mong đợi, biết làm thế nào ?
Suy đi nghĩ lại, không gì hơn là về
rừng núi để học hỏi đạo Phật, để hiểu rõ nghĩa lớn của việc sống chết,
cùng đền đáp công ơn cha mẹ, thế chẳng tốt hơn sao?
Khi lên núi gặp quốc sư Trúc Lâm,
quốc sư bảo rằng: Trong núi không có Phật, Phật ở ngay trong tâm. Tâm
lặng mà tỏ biết, gọi là chân Phật. Phàm làm bậc nhân quân, ắt phải lấy ý
muốn của thiên hạ làm ý muốn của mình, lấy tấm lòng thiên hạ làm tấm
lòng mình. Nay muôn dân muốn đưa bệ hạ về thì bệ hạ không về sao được.
Chỉ có điều là việc nghiên cứu kinh Phật, xin bệ hạ đừng chút xao nhãng.
Vì thế, Trẫm cùng mọi người về kinh,
miễn cưỡng lên ngôi. Trong khoảng hơn mười năm, thường đọc kinh Kim
Cương, một hôm, đến chỗ “Hãy không chỗ trụ mà sinh tâm”, bỗng nhiên tự
ngộ. Bèn viết sách Thiền tông chỉ nam này theo lời khuyên bảo
của quốc sư, để chẳng riêng chỉ dẫn đường mê cho đời sau mà còn muốn mở
mang công nghiệp của các thánh nhân thưở trước”.
Muốn lên núi tu với ý phụng sự cha mẹ,
rồi trở về làm vua là cũng để phụng sư muôn dân. Cho đến đại ngộ, viết
sách cũng là để phụng sự đời sau, tiếp nối đời trước.
Một vị vua khác của đời Trần là Trần Nhân Tông. Nhà vua cũng có ý xuất
gia từ nhỏ, rồi nghe lời can ngăn của vua cha mà lên ngôi.
Trong lần quân Mông Cổ xâm lăng lần thứ
2, vua đã cho triệu tập hội nghị Diên Hồng để hỏi các ý kiến bô lão
toàn quốc nên đánh hay nên hòa. Đây có thể nói là hội nghị có tính cách
dân chủ đầu tiên của VN.
Thật sự, vua là một nhà chính trị, quân
sự xuất sắc, nhưng trước quyết định sẽ gây tổn thất lớn về sinh mạng cho
cả hai bên, vua đã hỏi ý kiến nhân dân. Đó là tư tưởng làm vua để phụng
sự nhân dân, không phải ý nghĩ làm vua để giữ ngôi cho mình, bất chấp
sinh mạng người khác.
Sự việc vì nhân dân hơn là quyền lực của
một dòng tộc càng được thấy rõ khi chiến tranh càng khốc liệt mà chưa
thấy có cơ chấm dứt, “vua cha là Trần Thánh Tông đi thuyền nhẹ ra
Hải Đông, hỏi Trần Hưng Đạo: Lời xưa truyền rằng nếu đánh nhau để giành
đất thì giết người đầy nội. Nay thế giặc như thế, hay là hàng để cứu
muôn dân?
Trần Hưng Đạo đã trả lời một câu nổi
tiếng: Lời bệ hạ thực là lời của bậc nhân giả. Nhưng đất nước từ ngàn
xưa thì sao ? Xin chém đầu thần trước, rồi hãy hàng. Đầu thần còn đây,
thì đất nước vẩn còn. Xin bệ hạ đừng lo”.
Tư tưởng phụng sự này càng nổi bật hơn khi vua Nhân Tông xuất gia giữa
triều đình, với hoài bão đem đạo pháp thấm nhuần đất nước. Vua đã đi
khắp mọi miền đễ giảng đạo, và qua cả Chiêm Thành đễ mưu tìm một nền hòa
bình lâu dài cho hai nước Chiêm - Việt.
Chỉ kể sơ lược một vài sự kiện trong
cuộc đời hai vị vua Phật tử để thấy rằng cái làm nên sự hiển hách cho
cuộc đời hai vị không chỉ là tài trí, đức độ, mà cái chính yếu là sự
phụng sự không mệt mỏi cho con người và đất nước.
Ý chí phụng sự này các vị cảm nhận từ
đạo Bồ tát, mà một trong những cuốn kinh đầu tiên ở VN là Lục Độ Tập
kinh, nói về sáu hạnh của Bồ tát, do Khương Tăng Hội dịch cả ngàn
năm trước đó.
Quả thật, có thể nói không lầm rằng các
vị vua đời Trần, qua sự tu học và phụng sự của mình, đã là những vị Bồ
tát.
Ngày nay trong thế kỉ này, tư tưởng Đạo pháp và Dân tộc mà Giáo hội đã
xiển dương từ mấy chục năm nay cũng đặt căn bản trên phụng sự. Phụng sự
nối liền Đạo pháp và dân tôc, và tùy theo mức độ phụng sự thành công
đến đâu thì Dân tộc và Đạo pháp được kết dính và phát huy đến đó.
Chính trong phụng sự mà có chữ Đại trong danh từ Đại Thừa. Chúng ta
thấy, sở dĩ các vị theo con đường Bồ tát dùng danh từ Đại thừa, vì các
vị cũng đạt đến vô ngã như truyền thống Thượng Tọa Bộ, nhưng trí huệ vô
ngã này được đạt đến qua phụng sự, nghĩa là vừa giải thoát cho mình đồng
thời giải thoát cho người khác, sự lợi lạc cho chính mình và cho người
cùng nằm trong một tiến trình tu hành.
Đạt đến tánh Không vô ngã qua phụng sự
là con đường Bồ tát, điều này có thể thấy rõ trong các kinh điển Đại
thừa, ví dụ như kinh Kim Cang Bát Nhã.
Và có thể nói rằng càng đạt đến tánh Không vô ngã này bao nhiêu, thì
nguyện lực phụng sự càng lớn lao, như lời thệ nguyện của ngài A Nan sau
khi thấy rõ tánh Không trong bài công phu sáng: “Tương thử thâm tâm
phụng trần sát. Thị tắc danh vi báo Phật ân”. Nguyện đem thân tâm
này phụng sự cõi nước nhiều như bụi. Đó mới gọi là báo ơn Phật.
Trí huệ và Đại Bi luôn luôn là hai cột trụ tạo nên Đại thừa. Sự thể hiện
ra ở đời của Trí huệ va Đại Bi chính là phụng sự.
Trong truyền thống Việt Nam, tư tưởng phụng sự này luôn được quí trọng.
Chúng ta lập đền thờ những vị có công phụng sự đất nước, cả mặt chính
trị quân sự lẩn mặt văn học nghệ thuật, cho đến y học, kiến trúc…
Ví dụ tổ của nghề đúc đồng là Thiền sư
Nguyễn Minh Không, còn gọi là Lý Quốc sư, được các người làm nghề đồng
thờ ở Hà Nội và phường Đúc, Huế.
Dân ta cũng thờ những người có công khai
phá những vùng đất mới, lập đền thờ các vị lập ra một ngôi làng. Chùa
thì có nơi không chỉ thờ tượng Phật, Bồ Tát mà cả tượng của các bậc có
công với lịch sử.
Từ thời xa xưa huyền sử, các vị có công
giúp dân, có những đóng góp trong đời sống vật chất như con vua Hùng
Vương đời thứ 6 làm ra bánh dầy bánh chưng, như An Tiêm bị đày ra đảo
rồi đem về đất liền giống dưa hấu… đều được dân ta biết ơn nhắc nhở.
Tính cách một vị thần kì như thánh
Gióng, từ một em bé vươn vai thành người khổng lồ, phá xong giặc Ân thì
cả người và ngựa sắt điều biến lên trời, công thành thì thân biến, chẳng
ở lại an hưởng, càng giống với một vị Bồ Tát Phật giáo.
Hoặc như một Thiền sư ở thế kỉ 18 được
dân chúng gọi là Tổ Đỉa, đã hiến thân mình cho đỉa để vùng bưng biền bớt
đỉa cho dân chúng có thể làm ruộng. Nhờ việc này, vùng ấy ( vùng Thủ
Dầu Một) trở thành ruộng lúa phì nhiêu, nhân dân địa phương tôn Ngài là
Tổ Đỉa.
Chúng ta thấy những cuộc đời đó gần gũi
với hình ảnh một vị Bồ Tát Phật giáo bao nhiêu: trong kinh nói có Bồ tát
chuyên làm, tu sửa đường xá, cầu cống, có Bồ tát chuyên về y dược cứu
người…Với người ngoại quốc có công, chúng ta cũng không quên như bác sĩ
Yersin, Pasteur…
Về mặt tư tưởng, với người Việt Nam, ý nghĩa phụng sự được đưa lên làm
thành ý nghĩa đời sống. Chỉ kể riêng một người như Nguyễn Công Trứ,
ông hay lập đi lập lại trong các bài thơ phú: Vũ trụ giai phận sự. Trong
cõi vũ trụ này, đâu cũng là phận sự của mình. Ở Nguyễn Công Trứ, tư
tưởng Đại thừa và Nho giáo kết hợp nhuần nhuyễn làm nên một tính cách
cương cường của riêng ông.
Hoặc là tư tưởng Đại nghĩa của Nguyễn
Trãi. Cái nghĩa lớn làm cho nhà nhà thái hòa này ( trong bài luận về âm
nhạc) quả là không khác với nguyện lớn của Bồ tát. Cuộc đời của Nguyễn
Trãi trong nhiều mặt đã chứng minh điều đó.
Có thể nói, trong thâm sâu của mỗi
người Việt Nam, hình ảnh con người lý tưởng, hình ảnh mà những người lỗi
lạc của dân tộc muốn trở thành, chính là hình ảnh của một vị Bồ tát
Phật giáo.
Phụng sự là một giá trị của nhân loại. Con người luôn luôn tôn kính
những người dùng cuộc đời mình để phụng sự nhân loại, gọi họ là những
bậc vĩ nhân. Lấy một ví dụ như nhà bác học Albert Einstein. Nhân loại
tôn kính ông không chỉ vì ông là nhà vật lý khai phá, mở đường cho vật
lý hiện đại, mà còn vì tính cách giản dị, hiền từ của ông, nhất là cuộc
đời ông luôn luôn chuyển động trong một ý hướng phụng sự: phụng sự cho
con người, cho sự tiến bộ của con người, cho hòa bình trên trái đất.
Phụng sự làm cho con người có thêm tính chất người hơn, nhân bản hơn,
hoàn thiện hơn, và nói theo danh từ Phật giáo, là trở nên gần với sự
thành Phật hơn. Cũng phải nói rằng, nhờ có Đại thừa, tư tưởng phụng sự
được gom tụ lại, đậm nét mà không tự phát và phân tán, và lấy đó làm
nòng cốt, làm sức sống, làm ý nghĩa cho cuộc sống con người.
Có thể có người cho rằng phụng sự hay thật, nhưng đó chỉ là một lý
tưởng, một lý thuyết có ăn nhập gì với thời buổi thực tế cạnh tranh một
mất một còn hiện giờ trong mọi lãnh vực đời sống.
Lý tưởng nào mà chẳng cao đẹp, chả hay,
nhưng nó có giải quyết được gì trong thời buổi mà trong thế kỷ trước
F. Nietzsche đã từng tiên đoán là thời “Hoàng hôn của những thần tượng”,
thời “Đảo ngược của mọi giá trị”?
Còn nhớ cách đây vài năm, trên tờ Tuổi Trẻ chủ nhật có đăng một
bài báo của một nhà tư bản vừa là nhà kinh tế học Nhật Bản, đề nghị nên
thay đổi thể thức cạnh tranh sát hại đối thủ bằng một phương thức khác,
lành mạnh hơn.
Động lực kinh tế không phải là cạnh
tranh làm phá sản đối thủ, mà là cùng phát triển. Đó chẳng phải là một
lý tưởng, đó là một thực tế vừa có lợi cho người làm kinh tế, vừa có lợi
cho chính nền kinh tế, vì không đi vào những cuộc sát phạt lẫn nhau gây
khủng hoảng kinh tế.
Chúng ta nhận thấy trong thời đại hiện nay, nạn tham nhũng đầu cơ trục
lợi, quan liêu cửa quyền, ỷ mạnh hiếp yếu, nạn bạo lực có trong tất cả
các nước, dầu thô thiển hay vi tế. Những thứ ấy không phải chỉ có mới
bây giờ, chúng đã có từ thời thượng cổ và còn tồn tại ngày nào còn có
con người.
Chúng luôn luôn hiện diện ở nơi nào con
người chưa tiến hóa cao, chưa thăng hoa nổi nhân cách của mình, vì chúng
là cái phần bản năng động vật, giết nhau để sống, cá lớn nuốt cá bé,
cái gì cũng giành lấy cho mình, bất chấp người khác.
Cuộc đời không được thăng hoa khỏi bản
năng động vật thì, nói như kinh điển, rối ren như một cuộn chỉ rối.
Cho nên, đạo Phật không phải là một lý tưởng, mà đạo Phật là một phương
thuốc, như đức Phật đã tự nhận mình là bậc Y vương. Đó không phải là
một lý tưởng nhân tạo mà nhân loại phải theo mà đó là phương thuốc mà
nhân loại cần phải uống để lành bệnh.
Muốn chấm dứt chiến tranh trên mọi lãnh
vực, không phải là kêu gọi lý tưởng hòa bình suông suông, mà mỗi người
phải uống lấy món thuốc để chấm dứt chiến tranh trong lòng mình. Biện
pháp đề chấm dứt những hỗn loạn, rối ren của đạo Phật thì có rất nhiều.
Có thể kể 5 giới làm căn bản: không sát hại, không trộm cắp, không tà
dâm, không nói dối, không say sưa.
Ý nghĩa của 5 giới này đối với căn bệnh
của nhân loại thì rất sâu xa, nói không bao giờ hết. Còn với Đại thừa,
biện pháp chữa bệnh của nó là phụng sự. Ai cũng thấy rằng, trong việc
phụng sự người khác, là đã có sự tôn trọng người khác. Và ai cũng thấy
rằng, mọi sự hổn loạn trong đời đều do sự không tôn trọng con người,
không tôn trọng người khác lẫn chính mình.
Có thể nói vắn tắt, mọi mặt của đời sống đều được trong sạch hóa và
thăng hoa qua phụng sự. Kinh tế đễ phụng sự thì không còn là kinh tế chỉ
biết lợi nhuận cho mình còn mặc ai sống chết; chính trị để phụng sự thì
đem lại an hòa, khoa học để phụng sự là khoa học giúp con người biết
thụ hưởng và biết mình là một đối với vũ trụ…
Phụng sự như hòn đá làm hóa vàng tất cả
mọi sự : mọi lãnh vực đều được trong sạch hóa và thăng hoa, và nhờ đó,
người ta hiểu được bản chất Phật của mình và của muôn loài chúng sanh.
Phụng sự không là “lý tưởng” hay “đạo
đức”gì. Nó rất cụ thể, hiển nhiên, như là một định luật vật lý thông
thường. Khi ta làm cho ai vui lòng, thì ta cũng vui. Khi ta thật sự cho
ai một cái gì, ngay khi cho là ta đã nhận được một niềm vui. Cái nhân
quả đồng thời đó là cái rất cụ thể mà đạo Phật dạy. Đền một cái nhân lớn
hơn: khi ta đem đến hạnh phúc cho người khác, thì chính ta đang nhận
được hạnh phúc.
Cách hay nhất và độc nhất để có được
hạnh phúc là làm cho người khác hạnh phúc. Không ai có thể hạnh phúc khi
làm cho người khác đau khổ. Ngay trong phụng sự đã có niềm an vui, và
phụng sự càng lớn thì an vui càng lớn. Và ý nghĩa cuộc đời có gì khác
hơn là an vui ?
Phụng sự là cuộc cách mạng đối với mỗi người. Nó là một trường hấp dẫn
thu hút mọi sự rối rắm hổn loạn trở thành một trật tự an hòa, mọi sự vô
nghĩa tiêu cực thành những ý nghĩa tích cực. Nó là một ý nghĩa rộng lớn
vô hạn thâu nhiếp mọi ý nghĩa cuộc đời. Nó là định hướng lớn lao, mà
không có định hướng đó tất cả mọi sự cá nhân và xã hội phải rơi vào hỗn
loạn và đau khổ.
Định hướng đó nằm trong ý nghĩa hồi hướng của đạo Phật. Và gọi phụng sự
là một cuộc cách mạng đổi đời với mỗi cá nhân, vì sự phát khởi của phụng
sự cũng chính là sự phát khởi của Bồ đề tâm.
Theo: Giác Ngộ