I.- MỞ ÐỀ
Ðạo
Phật chủ trương giác ngộ mang ánh sáng trí tuệ soi rọi cho thế gian. 
Mọi lẽ thật đều hiện bày dưới ánh sáng giác ngộ, nhận thấy lẽ thật rồi 
mới khởi lòng tin đó là "chánh tín". Ngược lại, bày những điều mê hoặc 
làm mù quáng người đời, lừa bịp thế gian, ấy là "mê tín". Hoặc không 
hiểu rõ, không có lý lẽ, mà tin càn tin bướng là "mê tín". Tin bướng là 
họa hại đưa con người đến đường mù tối. Thấy rõ biết đúng mới tin là sức
mạnh vô biên khiến người thành công trên mọi lãnh vực.
Thế
nên trong kinh Hoa Nghiêm có câu: "Tin là nguồn của đạo, là mẹ của mọi 
công đức. Tin hay nuôi lớn các gốc lành." Vì thế người học đạo cần có 
lòng tin, song lòng tin đã qua sàng lý trí gạn lọc kỹ càng. Tuyệt đối 
không được tin càn, tin bướng làm băng hoại tinh thần giác ngộ của đạo 
Phật. Chính trong kinh Di Giáo Phật dạy: "... Xem tướng lành dữ, trông 
xem sao hạn, xem xét thạnh suy, coi ngày đoán số đều không được làm..."
II.- MÊ TÍN
Mê
tín là lối tin mù quáng khiến con người mất hết trí thông minh. Những 
kẻ chủ trương mê tín là người làm hoặc loạn thế gian, đưa dân tộc lùi 
lại bán khai. Một tôn giáo chân chánh, một dân tộc văn minh, không cho 
phép mê tín len lỏi trong tín đồ mình, trong dân tộc mình. Thế mà, đồng 
bào chúng ta, trong Phật giáo chúng ta, tệ đoan mê tín vẫn còn nhiều.
a) Ðồng cốt
Ðồng
cốt là hiện tượng mê hoặc khủng khiếp. Những kẻ làm ông đồng, bà cốt 
đều là người sống trong trạng thái bất bình thường. Bản thân họ đã mất 
hết khả năng tự chủ, họ bị sai sử bởi một ma lực huyền bí nào đó. Khi ma
lực ấy dựa vào họ, liền lạm dụng các danh hiệu thánh, những bậc vĩ nhân
của thuở xưa dùng mạo xưng để lừa bịp người đời. Những kẻ yếu vía dễ 
tin nghe xưng danh hiệu Phật, Bồ-tát hay những vị tiên thánh liền khiếp 
đảm kính tin. Họ không dám phê phán đó là tà hay chánh. Thế rồi, họ một 
mực quì mọp để được phong chức, hoặc nhận phép lành. Họ bị gạt bằng 
những danh hão trong cõi vô hình, hoặc bằng những bùa tà phép lạ, những 
huyền hoặc về quá khứ vị lai. Từ đây họ sống bằng ảo vọng mơ huyền, mất 
hết lý trí thực tại.
Chúng ta phải khám phá dẹp tan những lối mê 
hoặc ấy. Riêng về nhà Phật trong kinh đã dạy rõ, khi chứng đến quả Phật,
Bồ-tát, A-la-hán đều có đầy đủ lục thông, tam minh... Vì thế, Bồ-tát 
hay A-la-hán muốn hóa độ kẻ hữu duyên liền dùng thần thông hiện giáo 
hóa, như Bồ-tát Quán Thế Âm, trong phẩm Phổ Môn của kinh Pháp Hoa chẳng 
hạn. Không khi nào các bậc Thánh phải gá vào thân kẻ phàm tục khác làm 
việc giáo hóa. Vì các ngài đầy đủ thần thông biến hóa vô ngại. Như thế, 
những ma lực tựa vào đồng cốt đều là sức của quỉ thần. Vì sợ người đời 
không tin, nên chúng mạo xưng những danh hiệu cho to để gây uy tín. Biết
rõ tính cách ma mị của chúng, người Phật tử phải tránh xa, tuyệt đối 
không được phụ họa với chúng, huống là qui kính. Có thế mới tỏ ra là 
người Phật tử chân chánh.
b) Lịch số, sao hạn
Thời
gian không thật do khái niệm con người đặt ra, huống là trên thời gian 
lại đặt ra ngày tốt ngày xấu, năm lành năm dữ... Thử đặt ra một thí dụ, 
chúng ta đốt một ngọn đèn đặt ở bên phải, lấy một cái gương tròn nhỏ để ở
bên trái, cách nhau năm tấc tây, khoảng giữa đặt một quả bóng (trái 
banh). Chúng ta dùng tay xoay tròn quả bóng, phía nằm bên ngọn đèn là 
sáng, phía khuất ngọn đèn là tối, cứ xoay mãi, quả bóng đối chiếu tối 
sáng liên tục. Trục quay ấy có lúc tiến đến trước ngang ngọn đèn làm 
khuất ánh sáng soi vào mặt gương, ánh sáng mặt gương không phản chiếu 
vào quả bóng, có lúc lùi lại sau, ánh sáng ngọn đèn soi vào mặt gương, 
ánh sáng từ mặt gương phản chiếu lại quả bóng, phía khuất ngọn đèn. Có 
những con kiến ở trên quả bóng, thấy quả bóng mặt sáng gọi là ngày, mặt 
tối gọi là đêm, những lúc mặt gương không phản chiếu ánh sáng vào quả 
bóng gọi là ba mươi, những lúc mặt gương phản chiếu ánh sáng vào quả 
bóng đầy đủ gọi là rằm... Lại đặt mặt sáng của quả bóng vòng một là ngày
tốt, vòng hai là ngày xấu... Cảm thông được điều đó, chúng ta có tức 
cười cho loài kiến hay không? Quả thật, chúng bày biện một cách vô lý. 
Ngọn đèn, quả bóng, mặt gương đều là vô tri, động lực quay nó thì cứ 
quay vậy thôi, có gì là linh thiêng huyền diệu, mà chúng lại đặt là ngày
tốt ngày xấu.
Cũng thế, nhật cầu, nguyệt cầu và địa cầu đều là 
vô tri, chúng quay gần nhau theo cái trục cố định, mặt địa cầu hướng về 
nhật cầu thì sáng, mặt khuất thì tối. Cái trục quay ấy có khi địa cầu xê
tới che khuất ánh sáng nhật cầu không soi đến nguyệt cầu, có khi sụt 
lại, ánh sáng nhật cầu soi đầy đủ vào nguyệt cầu, ánh sáng nguyệt cầu 
phản chiếu lại mặt tối của địa cầu. Thế rồi, con người sống trên địa cầu
trông vào sự sáng tối tùy khái niệm đặt thành ngày đêm và giờ phút, 
theo sự phản chiếu của nguyệt cầu đặt ra rằm, ba mươi, thành tháng, năm.
Thời gian là do tưởng tượng của con người đặt ra không thật. Phương chi
trên thế gian ấy lại còn đặt thêm lành dữ tốt xấu... Quả thật con người
quá bày biện, quá rối ren. Ðã bày biện ra rồi, tự cột trói mình. Khi đã
có ngày tốt ngày xấu, đi đâu phải chọn ngày tốt mới dám đi, làm gì phải
đợi ngày tốt mới làm. Thậm chí cất nhà xây bếp cũng phải lựa ngày chọn 
tháng, định đôi gả lứa cũng phải coi tuổi hạp, không hạp. Con người bị 
bao phủ trong ổ tơ rối nùi ấy, rồi than khóc rồi khổ đau. Chính vì ngày 
tháng tuổi tác tạo ra cho con người không biết bao nhiêu đau khổ. Chúng 
ta hãy nghe người nông dân miền Nam nguyền rủa họ qua bài hát:
Cọp mà vật mấy ông thầy địa
Yêu mà nhai mấy chú coi ngày
Trớ trêu họ khéo đặt bày
Hai đứa mình thương thiệt, ông trời rày bảo thương.
c) Coi tay, xem tướng
Coi
tay, xem tướng cũng có khi trúng, song ông thầy ấy luôn luôn nói câu 
thòng: "Tay hay tướng của ông có hiện điều xấu, có thể đến tháng đó sẽ 
mắc nạn, nếu ông biết làm lành làm phước có thể qua." Thế thì đến tháng 
đó, nếu người ấy mắc nạn thì khen ông thầy xem trúng, bằng không mắc nạn
thì ông thầy đổ tại làm lành làm phước! Như thế, mặt nào ông thầy cũng 
hay hết. Nhưng chúng ta thử kiểm điểm xem, cả hai mặt mắc nạn và không, 
có lợi gì cho người đi coi không? Nếu coi tay tốn một số tiền, đến khi 
mắc nạn cũng phải tự chịu, ông thầy có cứu giúp cho mình được gì đâu. 
Nếu đến tháng thọ nạn, người coi tay không thọ nạn, cho là làm lành làm 
phước được qua thì mình tự cứu mình, ông thầy cũng không làm gì cho 
mình. Như vậy đi coi chi cho uổng tiền.
Hơn nữa ở đầu quyển sách tướng có bài kệ:
Hán:
Hữu tâm vô tướng
Tướng tự tâm sanh
Hữu tướng vô tâm
Tướng tùng tâm diệt.
Dịch:
Có tâm tốt không tướng tốt
Tướng tốt theo tâm tốt sanh
Có tướng tốt không tâm tốt
Tướng tốt theo tâm xấu mất.
Thế
thì, chúng ta cần phát tâm tốt làm việc tốt thì điều tốt sẽ đến. Chúng 
ta chứa chấp những tâm niệm xấu xa thì mọi điều dữ sẽ đến. Ðiều căn bản 
là chúng ta làm tốt hay làm xấu, quả tốt xấu sẽ đến với chúng ta. Không 
phải quan trọng ở bàn tay hay tướng mạo. Thế mà, chúng ta không ứng dụng
ngay cội gốc, lại chạy theo ngọn ngành, hao phí tiền bạc một cách vô 
ích, đó gọi là mê tín.
d) Xin xăm, bói quẻ:
Xin
xăm bói quẻ là một việc làm cầu may. Rủi may là điều xảy ra không có 
duyên cớ. Phó thác hành động của mình, cho đến phó thác cả đời mình vào 
chỗ không có duyên cớ, thật là tệ hại. Thánh, Thần có rảnh đâu mà ngồi 
sẵn trên bàn để ứng hiện trong xăm quẻ cho quí vị. Nếu người xin xăm bói
quẻ có trúng, chẳng qua phước nghiệp, lành dữ của mình mà hiện ra. Như 
sách nói: "Phước chí tâm linh, họa lai thần ám." Nghĩa là người gặp lúc 
phước đến thì giở quẻ ra đều tốt, khi họa lại thì rút lá xăm nào cũng 
xấu. Thế là tốt xấu tại mình, không phải tại xăm quẻ. Chúng ta cứ sửa 
mình cho tốt thì mọi việc đều tốt, đi xin xăm bói quẻ làm gì? Xin xăm 
bói quẻ chỉ khiến chúng ta lo sợ thêm. Ca dao Việt Nam có câu:
Tay cầm tiền quý bo bo
Ðem cho thầy bói mang lo vào mình.
Làm việc không lợi ích, lại tốn hao tiền bạc, mang lo sợ vào lòng, không phải mê tín là gì?
e) Cúng sao xem hướng
Lệ
cúng sao hạn, thật là lạc hậu lỗi thời, sao là những hành tinh cách xa 
chúng ta bao nhiêu ngàn cây số. Nó là cái gì mà chúng ta phải cúng! Tục 
lệ các chùa quê, vào ngày mùng chín tháng giêng là cúng sao hội. Người 
Phật tử nào không gửi tên cúng sao, xem như năm ấy không được bảo đảm an
ninh. Song người chủ cúng sao cho quí vị, có bảo đảm an ninh chưa? Có 
lẽ quí vị ấy quên ghi tên mình trong bài sớ cúng sao chớ gì? Thật là vô 
lý, đạo lý nhân quả đức Phật dạy rành rành trong kinh, mà người ta bất 
chấp. Thân tổng báo của chúng ta có lẫn lành với dữ, khi nhân lành đến 
thì hưởng quả lành, khi nhân dữ đến thì chịu quả dữ, không thể chạy trốn
được. Chỉ có tạo nhân lành nhiều, khi quả dữ đến sẽ nhẹ đi hay giảm 
bớt. Ví như trước kia chúng ta đã làm khổ một người, vì lúc đó họ thiếu 
khả năng trả thù nên dường như thông qua. Ðến lúc nào đó, họ đủ điều 
kiện trả thù, nếu chúng ta không được nhiều người thương che chở thì, 
quả đó sẽ đúng với nhân kia. Ngược lại, nếu chúng ta được quá nhiều 
người ủng hộ che chở, quả phải trả sẽ nhẹ hoặc giảm mất cũng có. Bởi thế
nên, sợ quả khổ không gì hơn, chúng ta phải tạo nhân vui. Không nên 
cúng sao cúng hạn để cầu được an vui là điều phi lý.
Xem hướng 
cất nhà, xây bếp cũng là một lối mê tín. Có lắm người trong nhà chồng vợ
bất hòa, con cái ngỗ nghịch, liền rước thầy đến xem hướng sửa cửa, đổi 
bếp. Nếu cửa và bếp biết nói, sẽ cãi lại với bà chủ nhà rằng: "Cãi lẫy 
nhau tại ông bà không biết nhường nhịn nhau, chúng tôi có tội lỗi gì mà 
phải dời chỗ này đổi chỗ kia?" Những việc làm này đủ nói lên người ta 
trốn tránh trách nhiệm, không bao giờ dám nhìn thẳng những sái quấy lỗi 
lầm của mình, tìm cách đổ lỗi cho cái gì mà không thể cãi lý được với 
họ. Như thế dù họ có sửa đổi trăm ngàn lần, lộn xộn vẫn lộn xộn, bất an 
vẫn bất an. Vì cái chủ động trong việc bất an ấy, có chịu sửa đổi đâu. 
Thế nên, người học đạo phải thấy rõ chỗ vô lý này, không nên lầm lẫn một
cách tối dốt như vậy.
g) Ðốt giấy tiền vàng mã
Tục
đốt giấy tiền vàng mã lại là việc vô lý trên vô lý. Không thể người có 
đôi chút nhận xét, lý luận mà chấp nhận việc ấy được. Chính trên thế 
gian này, đồng tiền của nước này mang sang nước khác còn khó được chấp 
nhận, huống là nhân gian in, xuống âm phủ xài, có lý lẽ gì tin được. 
Những chiếc lầu bằng giấy, quần áo bằng giấy, làm xong đốt gởi xuống âm 
phủ cho thân nhân dùng, quả là việc làm phí của vô ích. Thử hỏi thân 
nhân họ là cái gì mà chờ đốt quần áo gởi xuống. Họ đều là đồ vô chủ cô 
hồn hết sao? Hay họ đã theo nghiệp lành dữ mà sanh nơi khác? Nếu là Phật
tử còn không ai biết rõ Phật dạy: "Chúng sanh tùy nghiệp thiện ác, theo
đó thác sanh nơi cõi lành cõi dữ." Thân nhân chúng ta chết cũng theo 
nghiệp thọ sanh, chớ đâu ngồi chờ chúng ta gởi nhà cửa áo quần xuống 
xài. Như thế, việc làm ấy vừa trái đạo lý, vừa phí tổn tiền bạc vô ích. 
Người Phật tử không bao giờ chấp nhận việc làm mù quáng ấy.
III.- TAI HẠI MÊ TÍN
a) Quàng xiên khờ khạo
Người
mê tín theo quỉ thần là tin một cách quàng xiên không có căn cứ, không 
có lý luận, tin bướng tin càn, mất hết lý trí, trở thành con người khờ 
khạo. Ðó là hình ảnh những người tin vào ông đồng bà bóng, xác cô xác 
cậu tạo nên. Tại sao họ như thế? Bởi vì họ gởi gấm tâm hồn vào sự huyền 
bí, vào thế giới vô hình, họ mất hết trí thông minh thực tế. Có khi họ 
gần như người điên nói lảm nhảm một mình, hoặc nói những việc đâu đâu vô
căn cứ...
b) Bị cột trói, ích kỷ, tàn nhẫn
Người
mê tín vào lịch số, ngày giờ, là kẻ bị cột trói một cách thảm hại. Họ 
không bao giờ dám quyết định, một việc làm thích hợp với thời biểu hiện 
tại. Họ đợi giờ lịch xem giờ tốt hay xấu, ngày lành hay dữ. Thế rồi họ 
bị chết khô trong cái rọ ngày giờ. Bởi quen lựa ngày giờ tốt xấu, nên họ
trở thành con người ích kỷ dễ sợ. Có những việc đáng làm ngay lúc đó để
giúp người, họ lại sợ giờ xấu rồi không chịu làm. Cho đến việc ma chay 
cha mẹ, họ vẫn lựa ngày tốt, giờ tốt để lợi cho con cháu họ, không nghĩ 
gì đến người chết. Có khi còn dùng thuật trấn ếm, nếu cha mẹ họ chết 
nhằm ngày trùng. Thật là tàn nhẫn, họ không còn chút tình thương đối với
người chết. Mọi việc ma chay, chọn lựa ngày giờ, họ đều một bề vì họ. 
Những người ấy lúc nào họ cũng nơm nớp lo sợ, trên đầu trên cổ họ đã cột
sẵn trăm ngàn mối dây năm tháng ngày giờ, không cho họ thong thả một 
phút giây nào.
c) Khiếp nhược mất tự tín
Người
tin vào bói xăm, sao hạn... là con người khiếp nhược mất tự tín. Bởi 
không tự tín nên làm việc gì họ cũng phải đi hỏi thần, hỏi thánh. Họ lo 
âu, sợ hãi năm nào gặp sao La Hầu, Kế Ðô. Nhân lành họ không chịu tạo, 
nhân dữ không chịu tránh, mà một bề sợ sao sợ hạn, quả là những con 
người mù mịt, tối tăm. Họ sợ những cái không đáng sợ, họ cầu những điều 
không thể cầu, thật là oái ăm vô lý. Người Phật tử thấy rõ lẽ tà chánh 
ấy, can đảm quăng đi những tệ tục sai lầm, mới có thể sống với tinh thần
đạo giác ngộ.
IV.- CẦU NGUYỆN LÀ CHÁNH TÍN HAY MÊ TÍN ?
Trong
nhà chùa mỗi khi tụng kinh, mọi Phật sự đều có cầu nguyện. Sự cầu 
nguyện này là chánh tín hay mê tín? Câu hỏi này không thể trả lời một 
chiều, tùy chỗ hiểu biết của mỗi người, sự cầu nguyện là mê tín, cũng là
chánh tín.
a) Mê tín
Nếu chúng ta khẳng 
định rằng mọi sự cầu nguyện đều được toại nguyện, đó là mê tín. Vì sao? 
Bởi vì, nếu cầu nguyện mà được, thì không cần nói đến nhân quả nghiệp 
báo. Nếu mọi sự kiện xảy ra đều do nhân quả thì sự cầu nguyện khó mà 
toại nguyện. Bởi lẽ, thế gian có kẻ tạo nghiệp lành, người tạo nghiệp 
dữ. Người tạo nghiệp lành khi phước báo đến thì được như nguyện. Kẻ tạo 
nghiệp dữ khi nghiệp báo đến, dù có nguyện cầu cũng khó thoát khỏi quả 
khổ. Thế thì làm sao dám cố định cầu nguyện là được như ý. Người chấp cố
định, là sai lầm không hợp lý, nên thuộc mê tín.
b) Chánh tín
Chúng
ta chỉ xem cầu nguyện như những lời chúc lành là chánh tín. Vì quí kính
cha mẹ, quí kính người thân, chúng ta hằng cầu nguyện cho những vị ấy 
song có được như nguyện hay không, còn tùy thuộc phước duyên dày mỏng 
của những vị ấy. Mặc dù không được như nguyện, cũng nói lên được lòng 
hiếu thảo chân thành của chúng ta. Cũng như vì hiếu kính những người 
trưởng thượng, những bạn bè thân hữu, đầu năm mọi người chúc lành cho 
nhau. Những lời chúc lành này không hẳn thể hiện được, nhưng cũng nói 
lên được lòng quí mến nhau.
Hơn nữa, người tu Phật cầu nguyện với
mục đích phá tan tâm niệm vị kỷ của mình. Bất cứ một Phật sự nào, chúng
ta đều hồi hướng nguyện cầu cho tất cả chúng sanh đều thành Phật đạo. 
Mới nghe qua dường như những lời nguyện suông, không thể thực hiện được.
Song trên tinh thần phá ngã, cứ lập tới, lập lui mãi tâm niệm vì tất cả
chúng sanh, khiến người ta quên bẵng bản ngã riêng tư của mình. Mọi 
việc làm đều không phải vì mình, không được nghĩ lợi ích riêng cho mình,
mà phải vì nhân loại, vì tất cả chúng sanh. Hằng ngày cứ huân tập mãi 
tâm niệm này, đến một khi nào đó, chúng ta không còn thấy bản ngã riêng,
đồng hóa mình và chúng sanh không khác. Thế là chúng ta phá được chấp 
ngã và phát tâm đại từ bi, xem mọi khổ vui của người như của chính mình.
Hiểu cầu nguyện và ứng dụng cầu nguyện như vậy, quả thật là chánh tín.
V.- CHÁNH TÍN
a) Tin nhân quả
Ðứng
về chiều thời gian, vạn vật hiện có trong vũ trụ này, không một vật nào
thoát ngoài nhân quả mà được hình thành. Trên tiến trình sanh diệt, 
quyết hẳn vạn vật từ nhân tiến đến quả, từ quả trở lại nhân. Nhân quả, 
quả nhân xoay vần không dứt. Ðó là hiện tuợng sanh hóa trên cõi nhân 
gian. Nghiệm xét thấu đáo, chúng ta không thấy có một vật gì không nhân 
mà có, ngẫu nhiên mà thành. Thấy rõ lý nhân quả, chúng ta khéo uyển 
chuyển cái xấu trở thành tốt, cái dở trở thành hay. Thấy rõ lý nhân quả,
chúng ta nắm chắc quyền tự chủ, tạo dựng tương lai tươi đẹp cho chính 
mình. Lý nhân quả vừa là khoa học vừa là sức mạnh chuyển tiến của con 
người. Tìm hiểu tường tận lý nhân quả là người thông minh. Biết ứng dụng
lý nhân quả là con người tiến bộ. Khảo sát theo nhân quả là lý luận 
chặt chẽ, là hiểu biết thấu đáo. Cho nên nghiệm xét lý nhân quả tường 
tận rồi, chúng ta tin tưởng là chánh tín.
b) Tin nhân duyên
Ðứng
về mặt không gian, vạn vật trong vũ trụ đều do nhân duyên hợp thành. 
Không một vật nào do một đơn vị làm nên, mà phải nhiều đơn vị hợp lại 
mới thành hình. Chính thế, lý nhân duyên thích ứng với tinh thần phân 
tích của khoa học hiện nay. Nếu sự vật do một đơn vị làm nên thì còn gì 
phân tích. Bởi nhiều đơn vị hợp thành một vật thể, người ta mới phân 
tích chia ra nhiều đơn vị, nhiều loại. Nhỏ nhất như một nguyên tử, người
ta phân tích trong đó vẫn có nhiều phần hợp thành, huống là những vật 
thể to tát. Do đó, chúng ta thấy rõ lý nhân duyên nhà Phật nói, là một 
lẽ thật, đúng với tinh thần khoa học hiện thời. Hiểu được lý nhân duyên,
chúng ta phá tan cái chấp lầm vô nhân và nhất nhân. Hiểu được lý nhân 
duyên, chúng ta thấy rõ muôn vật trên thế gian có sự liên quan chằng 
chịt với nhau. Chúng ta không thể tách một cá thể đứng ngoài tập thể, 
một cá nhân đứng ngoài nhân loại. Ðây là lý do khiến dẹp được quan niệm 
cá nhân ích kỷ. Chúng ta tích cực xây dựng nên hạnh phúc chung cho nhân 
loại, không riêng của một cá nhân. Tin lý nhân duyên là tin bằng trí 
tuệ, bằng khoa học, cho nên chánh tín.
VI.- LỢI ÍCH CHÁNH TÍN
a) Trí tuệ
Nhận
rõ lý nhân quả, lý nhân duyên là tác dụng của trí tuệ. Chính do nhận 
xét thấu đáo, phân tích rành mạch, khiến trí tuệ càng ngày càng phát 
triển. Nếu một đối tượng trước mắt, chúng ta cứ thầm nhận là tự nhiên nó
có, do tạo hóa làm nên, thế là còn gì phải nhận xét, phải phân tích. Cứ
thế mãi, trí tuệ sẽ cùn mằn, không thể nào bén nhạy được. Ðó là cái cớ 
khiến người ta lười suy xét, lâu ngày trở thành tâm trí ù lỳ chai cứng. 
Người Phật tử phải sống bằng trí tuệ, nên thấy rõ vạn vật sanh thành 
hoại diệt đều nằm trong hệ thống nhân quả, nhân duyên. Sự vật hiện có mà
không do nhân quả, nhân duyên là phi lý luận, phản khoa học. Vì thế 
người chánh tín là người thực tế, khoa học, nhận xét bằng trí tuệ.
b) Chịu trách nhiệm
Thâm
đạt lý nhân quả nhân duyên, người ấy sẽ nhận lấy trách nhiệm nên hư, 
hay dở, tốt xấu đều do mình. Mình là chủ động gây thành nhân tốt, tạo ra
duyên lành. Mọi việc đều không được tốt lành là do mình không chịu gây 
tạo, đây là lỗi tại mình nào phải tại ai. Biết thế, chúng ta không trốn 
tránh, không kêu than, trái lại can đảm chấp nhận để rồi xoay chuyển. 
Bởi nhận rõ nhân quả nhân duyên, chúng ta xét một sự kiện xảy ra tốt 
xấu, phát xuất từ nhân nào, hội đủ nhân duyên gì mới xảy ra như thế. Thế
thì dù có việc dở việc hay, chúng ta đều thấy rõ không lầm. Chúng ta nỗ
lực cố gắng tạo điều kiện để chuyển đổi nó. Chịu trách nhiệm để chuyển 
đổi, không phải chịu trách nhiệm để thông qua, đó là tinh thần của người
chánh tín.
c) Tự tín
Biết rõ dở hay do 
mình, quả thật mình là chủ nhân của mọi thành bại. Ðau khổ an vui, chính
mình là người tạo ra. Ngày mai tươi sáng, ngày mai tối tăm, ta là người
chủ động. Do thấu hiểu lý nhân quả nhân duyên, con người sẽ có sức tự 
tín mãnh liệt. Nhờ sức tự tín, con người mới cố gắng chuyển đổi, vươn 
lên trong mọi lãnh vực. Một dân tộc có đức tự tín, không bao giờ cam 
chịu khuất phục, chậm tiến. Có tự tín là có một sức mạnh phi thường. Có 
tự tín, sự tu hành mới không thối chuyển.
VII.- KẾT LUẬN
Mê
tín và chánh tín là hai con đường tối sáng khác nhau. Nếu đi bên tối là
không thấy bên sáng, nếu đi bên sáng thì không kẹt trong tối. Ðạo Phật 
chủ trương chánh tín, không bao giờ chấp nhận mê tín. Do vì người truyền
đạo không thông lý đạo, nên ghép những tập tục thế gian vào trong đạo, 
khiến người ta hiểu lầm đạo Phật mê tín. Bản chất của đạo Phật là trí 
tuệ, là giác ngộ, làm sao dung nạp được mê tín. Nếu người ta thấy trong 
chùa chiền hiện nay còn những hiện tượng mê tín, vội phê bình đạo Phật 
mê tín. Ðây là những oan tình của đạo Phật. Tất cả những kinh Phật không
có nói những việc mê tín ấy, chẳng qua một số người vì tùy tục, vì 
thiếu hiểu Phật pháp vẽ bày ấy thôi.
Người học Phật chân chánh 
phải gan dạ loại bỏ những tập tục sai lầm ấy, can đảm dứt khoát đập tan 
mọi tệ đoan làm suy giảm giá trị Phật pháp. Có khi dẹp bỏ những điều đó,
có thể thiệt thòi chút ít quyền lợi của mình. Song chúng ta cương quyết
vì chánh pháp, chớ không vì lợi dưỡng, vì đưa người ra khỏi đường mê, 
không vì sợ mất mát bản đạo. Ðược thế, chúng ta mới xứng đáng là người 
lãnh đạo tín đồ, mới không hổ thẹn là hàng Tăng Bảo.
(Theo Hoa vô ưu
    
Update Required To play the media you will need to either update your
browser to a recent version or update your 
Flash plugin.