Ngày nay chúng ta đều khẳng
định với nhau rằng, văn hóa của nhân loại, khởi nguồn từ bốn nền văn minh cổ,
đó là: Ai Cập, Babylon, Trung Quốc và Ấn Độ. Bốn vùng văn hóa cổ này, qua bao
biết đổi của thời gian cũng như sự biết thiên của nhân loại, nay chỉ còn hai –
Trung Quốc và Ấn Độ.
Nói như thế không nghĩa
là Ai Cập và Babylon (ngày nay là Iraq), hoàn toàn không để lạ dấu
tích gì. Mặc dù hai quốc gia ấy ngày nay không tồn tại nữa, nhưng những gì các
nhà khảo cổ khai quật, phát hiện được tại hai vùng văn hóa cổ này, đã đóng góp rất
lớn vào kho sử liệu của thế giới. Trung Quốc và Ấn Độ cho đến nay, vẫn là hai
quốc gia lớn mạnh, đó là do hai nền văn hóa ấy vẫn tồn tại và đang phát triển.
Và, thế giới biết đến hai quốc gia này, một phần nào đó cũng do văn hóa Phật
giáo. Nói như thế để chúng ta thấy rằng, sự ra đời của đức Thích Ca Mâu Ni, là
một đểm sáng trong lịch sử văn hóa nhân loại. Điều này đã được tỏ rõ qua câu
nói khi Ngài đản sanh: Thiên thượng thiên hạ duy Ngã vi tôn.
Một lời tuyên ngôn mà cho
đến nay, nhân loại chưa từng có người thứ hai nói, và thực hiện được. Thế nên,
cũng gây nhiều tranh luận, làm gì đứa trẻ mới ra đời lại nói được lời như thế?
Nhưng vấn đề này, không phải góc độ mà nội dung bài viết muốn đề cập…Bạn có thể
tin hoặc không tin, điều đó tùy bạn.
Bậc Bồ tát ấy hạ sanh như thế nào? Theo Hán tạng
Phật Bản Hạnh kinh quyển một, phẩm Như Lai Sanh[1]
thuật rằng: Khi Thái tử xuất thai, trên không trung, muôn ánh hào quang thần diệu
tỏa, che cả cái nắng chói chang của mặt trời. Vì, hào quang ấy là ánh sáng của
trí tuệ, của đức cả bao lao, của lòng từ bi rộng lớn, soi rõ cả cõi trời cõi
người, cũng như sự chuyển động vô thường của kiếp nhân sinh. Chư thiên nữ cùng
quyến thuộc, cử nhạc trời ca tụng, công đức tu hành của Bồ tát trong nhiều đời
nhiều kiếp. Tự tại Thiên vương cùng thiên chúng, với tràng phan tuyệt sắc, cung
kính lễ Thái tử - bậc Bồ Tát hạ sanh. Liền ấy, Thái tử với tư thế vững trãi, bước
bảy bước và nói: “Thiên thượng thiên hạ duy Ngã vi tôn, tam giới giai khổ, Ngô
đương an chi”(天上天下, 唯我為尊, 三界皆苦, 吾當安之)[2].
Bậc Bồ tát hạ sanh như thế
!
Hào quang của trí tuệ, của
lòng từ ấy, làm dịu mát ngọn lửa sân si đang hừng hực cháy trong tâm chúng
sinh, cũng như cái nắng vật lý của vũ trụ. Lời ‘xưng tôn’ ấy là của bậc Bồ tát,
trải qua bao kiếp tu hành, cũng như nguyện lực vị tha nhân.
Và, truyền thuyết về ‘bảy
bước xưng tôn’ được ghi chép trong nhiều bài kinh, ở cả Hán tạng cũng như Pali
tạng. Như kinh Sơ Đại Bản, trong tạng Trường Bộ hay Trường A hàm tương đương, đức
Thích Ca nói về nhân duyên xuất thế, tu tập, thành đạo… của chư Phật trong quá
khứ, cũng như bản thân Ngài, thì tuyên ngôn ấy là:
Aggo `ham asmi lokassa,
Jeṭṭho `ham asmi lokassa,
Seṭṭho `ham asmi lokassa,
Ayam antimā jāti,
Natthi dāni punabbhavo.
|
Ta là bậc tối thượng ở
trên đời
Người tối tôn không ngoài
Ta
Ta là đấng xuất thế
Đây là lần tái sinh cuối
cùng
Sẽ không còn tái sinh![3]
|
Lời kinh ấy trích từ Trường
bộ kinh (pi. pīghanikāya), Đại phẩm (pi. mahāvagga),
kinh Đại thành tựu (mahāpadānasutta) của Pali tạng. Lời ấy so với câu trong kinh Tu Hành
Bản Khởi, do Đại sư Trúc Đại Lực và cư sĩ Khang Mạnh Tường dịch vào đời Hậu
Hán, của Hán tạng cho thấy, dù cách hành văn có khác, nhưng ý nghĩa thì như
nhau. Là hạnh nguyện thoát sanh tử luân hồi khi Ngài đến với nhân loại, đồng thời
đưa đường chỉ lối cho chúng sanh trong đêm trường tăm tối của vô minh, của phiền
não khổ đau, vào đạo giải thoát giác ngộ. Ngày nay, chúng ta có được con đường
chánh pháp để đi, cũng là từ hạnh nguyện ấy.
Thế nhưng, cũng tuyên
ngôn đó trong Hán tạng, mỗi dịch giả, hay nhóm biên dịch, khi chuyển ngữ từ tiếng
Phạn hoặc Pali sang chữ Hán lại có sự khác biệt nhất định. Chúng ta đi sâu tìm
hiểu phần khác nhau ấy, trong các kinh điển trong Hán tạng,
để làm sáng tỏ thêm ý nghĩa lời khẳng định ấy:
Đại Bổn
kinh trong tạng Trường A Hàm do ngài Phật-đà Da-xá và Trúc Phật Niệm cùng dịch,
vào thời hậu Tần, là: Thiên thượng thiên hạ duy Ngã vi tôn, yếu độ chúng sanh,
sanh lão bệnh tử. (天上天下, 唯我為尊, 要度眾生, 生老病死).[4]
Dị Xuất Bồ Tát Bản Khởi kinh quyển một, Niếp Đạo Chân đời Tây Tấn chỉ dịch là:
Thiên thượng thiên hạ, tôn vô quá Ngã giả (天上天下, 尊無過我者).[5]
Quá Khứ Hiện Tại Nhân Quả kinh quyển một, Cầu-na-bạt-đà-la dịch đời Tống lại
chép: Ngã ư nhất thiết thiên nhân chi trung tối tôn tối thắng, vô lượng sanh tử
ư kim tận hĩ (我於一切天人之中最尊最勝, 無量生死, 於今盡矣).[6]
Thái Tử Thụy Ứng Bản Khởi kinh quyển một, do cư sĩ Chi Khiêm dịch vào đời
Ðông Ngô (229 -280) ghi là: Thiên thượng thiên hạ duy Ngã vi tôn, tam giới giai
khổ hà khả lạc giả (天上天下, 唯我為尊, 三界皆苦, 何可樂者?).[7]
Kinh Hiền Ngu quyển mười, do nhóm ngài Tuệ Giác thời Nguyên Ngụy dịch, thì chỉ đơn giản
ngắn ngọn chuyển thành: Thiên thượng thiên hạ duy Ngã vi tôn (天上天下, 唯我為尊).[8]
Qua các
trích dẫn, chúng ta thấy, văn trong kinh Hiền
Ngu và Dị Xuất Bồ Tát Bản Khởi kinh,
nếu so với các kinh khác thì thiếu hẳn vế độ sanh. Kinh văn trong Quá Khứ Hiện Tại Nhân Quả kinh có rõ
ràng hơn, thế nhưng vẫn chỉ khẳng định, Bồ tát sẽ chấm dứt sanh tử luân hồi
trong lần giáng sanh này, mà chưa nói đến hạnh nguyện quảng độ quần sanh. Nhưng
lại phù hợp với câu kinh trong Pali tạng. Thế nhưng, bậc Bồ tát sẽ liễu ngộ vô
thường, khổ, không, vô ngã lại tuyên bố ‘Ta là cao quý nhất’, như vậy có ‘ngã’
quá không?
Văn Pali
khi dùng chữ Atta để biểu đạt ‘tôi’
‘ta’, ứng với chữ ngã danh từ trong
chữ Hán, hay ātman trong Phạn ngữ. Thế nhưng câu tuyên ngôn
không hề có những chữ ấy, mà lại dùng `ham (ngã đại từ). Chúng ta dựa trên từ ngữ phân tích là như thế. Hơn nữa, bậc
giác ngộ hoàn toàn, đạt nhất thiết trí, dứt khỏi sanh tử luân hồi (sa. saṃsāra);
trong lịch sử nhân loại, đức Thích Ca là một. Thế thì, câu ‘xưng tôn’ ấy về từ
ngữ cũng như thực tế, đều là sự thật, được lịch sử ghi nhận. Nhưng khi chúng ta
dùng ‘duy ngã độc tôn’, đã tạo cơ hội cho một số thành phần chỉ trích đức Phật
cũng như Phật giáo. Vì chữ độc (獨) và chữ vi (為) trong Hán tự khác rất nhiều. Mặc dù, trong Hán tạng A hàm, có đôi chỗ
dùng là ‘độc tôn’, thế nhưng chúng ta phải xem bài kinh ấy Phật nói gì, trong
hoàn cảnh nào, với đối tượng nào? Đừng lấy câu, hay ý nhỏ thay cả bài kinh, như
thế có thể đẫn đến kết quả như thầy mù sờ voi, mà sai đi thánh ý.
Bậc đại
Thánh ứng hiện ở thế gian với đại nguyện chấm dứt sanh tử luân hồi từ đây, đồng
thời dạy chúng sanh cách giải quyết khổ đau trong ba cõi. Đức Phật đã làm được.
Hình tượng thái tử Tất Đạt Đa (Siddhārtha) lúc vừa đản sanh bước bảy bước, và mỗi
bước có hoa sen đỡ chân, có thể là hình ảnh biểu đạt con đường đi đến sự tỉnh
thức hoàn toàn. Vậy, ‘duy ngã vi tôn’ ở đây, chúng ta có thể hiểu theo nghĩa
là, Ngài là bậc tôn sư (thầy) của ba cõi, dạy chúng sanh con đường xa rời bể khổ
sông mê, lên thuyền bát nhã về nơi bến giác. Và, con đường ấy là: Tứ niệm xứ, Tứ
chánh cần, Tứ như ý túc, Ngũ căn, Ngũ lực, Thất giác chi, Bát Thánh đạo…
Ngày nay, vào lễ Phật đản
chúng ta thường thấy những câu đối có vế ‘bảy bước xưng tôn’. Mỗi bước chân, là
sự chuyển hóa của hạnh nguyện, với lời khẳng định, Ngài sẽ giác ngộ và đem pháp
giải thoát sinh tử truyền dạy cho chúng sanh; bằng Từ, Bi, Hỷ, Xả, bằng trí tuệ,
để đem an lạc và hạnh phúc đến cho muôn loài.
Vĩnh
Nghiêm, Phật đản, PL. 2556
ĐT: Đại Chánh Tân Tu Tạng
Kinh, Cty TNHH xuất bản Tân Văn Phong, Đài Loan xb, 1983.
[1] Phật Bản
Hạnh kinh, ĐT, q4, no. 193, p. 59.
[2] Tu Hành Bản Khởi kinh, ĐT, q3, no. 184, p.
463, c13-16.
[3] Pali tạng, Trường Bộ Kinh, p.151; hoặc
Ht. Thích Minh Châu dịch, Trường Bộ Kinh, p.453.
[4] ĐT, q1, no. 1, p. 4, c1-2
[5] ĐT, q3, no. 188, p. 618, a19.
[6] ĐT, q3,
no. 189, p. 625, a27-28.
[7] ĐT, q3, no. 185, p. 473, c2-3
[8] ĐT, q4, no. 202, p. 418, c25-26