Ngày Tết trên bàn thờ luôn bày trái cây để cúng ông bà gọi là mâm ngũ quả. Ở Trung bộ gọi là mâm quả tử, lưu ý đến hạt/tử hay nói rõ là quả có hạt, hơn là quả nói chung, ám chỉ tín lý phồn thực: cầu mong sự sinh sản, gieo một hạt được trăm hạt, nhất bản vạn lợi.
Tập quán bày ngũ quả không quy định là những thứ quả gì mà dường như
tùy địa phương, tùy sự được mùa quả từng năm mà người ta chọn mua hay
hái để dâng cúng tổ tiên. Tiêu chuẩn lý tưởng là quả tốt, có màu sắc
đẹp và càng có giá trị là các loại quả quý hiếm. Điều kiêng kị là các
loại quả có tên gọi đồng âm với từ có nghĩa xấu theo đó, cá biệt có nơi
người ta kị cam (cam chụi), chuối (chúi: chúi đầu, chúi mũi; tức vất
vả)… Ngược lại, cũng theo tên gọi, các loại trái ở Nam bộ, người ta
thích thơm (thơm tho, thơm danh), sung (sung túc); đủ một câu thể hiện
sự mong ước khiêm tốn gồm mãng cầu, dừa, đu đủ, xoài (cầu vừa đủ xài);
quá mức đầy đủ một bậc mãng cầu, dừa, đu đủ, xoài, sung (cầu vừa đủ xài
sung)…
Nói chung, mâm ngũ quả như vậy là một biến thái mà xu hướng chủ đạo là theo vần theo âm.
Số Năm - Ngũ
Truy nguyên cội nguồn của mâm ngũ quả buộc chúng ta phải xem xét đến
hai thành tố của tên gọi: ngũ (số 5) và quả (trái cây), rồi sau đó mới
nói đến ngũ quả.
Theo quan niệm cổ đại phổ biến trong khu vực chịu ảnh hưởng văn hoá
Trung Quốc, các quy luật phổ biến đều gộp vào con số 5: ngũ sắc, ngũ
vị, ngũ âm, ngũ tạng, ngũ kim, ngũ quan, ngũ luân, ngũ cốc… Như vậy, số
5 là biểu hiện chung của sự sống và ở đây ngũ quả tự nó biểu trưng một
hợp thành được coi là đầy đủ của loại lễ vật dâng cúng là quả.
Đối với cư dân nông nghiệp ngũ cốc (đạo/nếp hương, lương/gạo,
thúc/đậu, mạch/ lúa mì, tắc/kê) là lương thực chủ đạo và ngũ quả (trái
cây nói chung) là thứ yếu. Theo sự xác tín đã trở thành tập tục phổ
biến trong dân gian nên có thể “ngũ quả” nêu trên là “chuẩn” của năm
thứ quả dùng làm lễ vật bởi lẽ việc dâng lễ vật nào đều có thể là cách
biểu thị sự cầu mong của người dâng lễ. Ở đây, đối với người nông dân
thời cổ thì điều cầu mong lớn nhất là được mùa ngũ cốc.
Quả - Trái
Quả hay trái cây là thứ lễ vật xuất hiện khá sớm trong việc cúng bái
bên cạnh các loài thú hiến tế (heo, bò, dê: tam sinh; hoặc bình dân
hơn: gà, vịt, tôm, cua, cá). Theo khoa nghi nhà Phật, trong danh mục lễ
vật lục cúng hay thập cúng có hương (nhang), đăng (đèn), hoa, trà,
quả, thực… Tuy nhiên, nghi lễ nhà Phật cũng không quy định rõ là quả
gì.
Quả/trái cây nói chung là biểu tượng của sự sung túc, dồi dào. Vì quả
thường chứa nhiều hạt được đồng nhất với quả trứng vũ trụ, biểu tượng
cho mọi nguồn gốc, mọi sự khởi nguyên; biểu trưng quả (với hạt bên
trong của nó) biểu thị cho sự phồn thực, sinh sôi và khao khát sự bất
tử - hiểu theo nghĩa là sự nối truyền dòng giống miên viễn. Theo chiều
hướng này, quả bao gồm cả ý nghĩa biểu trưng vượt lên trên nhịp điệu
sinh tồn của vạn vật: sự xen kẽ luân hồi của sự sống và cái chết; giữa
cuộc sống dưới đất (của hạt giống) và cuộc sống dương thế…
Trong văn hóa, cụ thể là trong văn học và nghệ thuật tạo hình, quả
vừa là biểu trưng chung vừa là biểu trưng có ý nghĩa riêng - hoặc theo
sự đồng âm của nó hoặc nó được xác định bởi các tình tiết văn học
truyền kỳ, thần tiên… Lựu được biểu trưng cho sinh con (lựu khai bách
tử), dưa hấu nhiều hạt cũng có ý nghĩa tương tự như lựu. Mơ, đào, bầu,
phật thủ… đều có ý nghĩa biểu trưng riêng, song đều hội ý chúc tụng cát
tường, như ý.
Tóm lại, mâm ngũ quả trên bàn thờ ngày Tết của người Việt là một “sản
phẩm văn hóa” đã xác lập trong quá trình lịch sử lâu dài, được khuôn
đúc theo quan niệm về “bộ ngũ hoàn hảo” và bắt nguồn từ cái nhìn liên
tưởng mang tính chất trải nghiệm từ thực tế sinh trụ dị diệt của thực
vật.