Sự thật đức Phật Thích Ca chứng ngộ chân lý
lúc Thành đạo chính là sự thật Duyên sinh vô ngã. Chính sự thật Duyên
sinh vô ngã này, nó quy định toàn bộ đặc trưng hệ thống giáo lý đức Phật
tuyên thuyết trong 49 năm, được kết tinh trong Tam Tạng kinh điển.
Nó cũng chỉ ra con đường giác ngộ được thực
thi theo một phương pháp giáo hóa, giáo dục với tinh thần theo lý Duyên
sinh vô ngã mà không có ở bất kỳ một nền văn hóa giáo dục nào được thiết
lập theo hướng tư duy hữu ngã trước đó.
Cụ thể, đạo Phật chủ trương tùy theo căn cơ,
từng thời mà có phương thức, kỹ năng trao truyền giáo pháp thích ứng
cho mỗi đối tượng, mỗi hội chúng với một nội dung thích hợp để người học
đạo tiếp nhận. Bài tham luận chỉ đề cập đến “Hoằng pháp dành cho
thiếu nhi”, một đối tượng mà ngày nay được xã hội quan tâm, trong
đó các nhà lãnh đạo Phật giáo, các giảng sư hoằng pháp phải quan tâm
hàng đầu trong việc vận dụng giáo lý Phật đà để giáo dục nhân cách cho
các con em Phật tử thiếu nhi. Đây là một đối tượng hoằng pháp mà tương
lai trở thành chủ thể trung tâm để mạng mạch Phật giáo được kế thừa.
Hoằng pháp và giáo dục nhân cách theo quan
điểm Phật giáo
Nói đến hoằng pháp là nói vấn đề giáo hóa,
giáo dục, nói đến một hoạt động nhằm rèn luyện nhân cách cho con người.
Hoạt động này không thể tiến hành một cách tuỳ tiện theo những ý muốn
chủ quan hay kinh nghiệm riêng rẻ mà phải dựa trên những hướng dẫn có
tính khoa học việc giảng dạy đạo lý cho thiếu nhi, nhi đồng và thiếu
niên mới lớn. Hay nói cách khác, giáo dục đó phải dựa vào căn cơ, trình
độ phát triển của trẻ phù hợp với từng lứa tuổi tâm sinh lý của con cháu
của chúng ta. Đây chính là toàn bộ đặc trưng của việc giáo hóa, giáo
dục Phật giáo được đức Phật xác lập khi Ngài còn tại thế theo mô hình
cấu trúc: “Nhân duyên giảng dạy, đối tượng giảng dạy, phương thức
giảng dạy, nội dụng giảng dạy”.
Vì thế, Phật giáo chủ trương việc giáo dục
con người là một quá trình có sự vận động, diễn ra trong một thời gian,
không gian nhất định, có nội dung, có quy luật và động lực nhất định.
Đối tượng của giáo dục học là quá trình đào tạo con người dưới những tác
động có mục đích của gia đình, của nhà trường, nhà chùa và cả xã hội.
Trong ý nghĩa đó, giáo dục được hiểu như là
quá trình hình thành nhân cách toàn vẹn được tổ chức một cách có mục
đích, có hệ thống thông qua hai hoạt động: dạy và học để làm phát triển
các sức mạnh thể chất và tinh thần của con người, giúp trẻ thơ sống vui
tươi, khoẻ mạnh, học hành tốt, sau này có thể tham gia có hiệu quả vào
đời sống xã hội.
Cụ thể là quá trình này được tổ chức một
cách có kế hoạch nhằm bồi dưỡng cho người được giáo dục là trẻ thơ những
kinh nghiệm xã hội của loài người, bao gồm các quá trình giáo dục trí
tuệ, giáo dục đạo đức, giáo dục thể chất, giáo dục thẩm mỹ, giáo dục lao
động. Từ đây, việc định hướng của việc giáo dục không chỉ thích ứng với
những yêu cầu của xã hội hiện tại mà còn phải thích hợp với yêu cầu
phát triển của tương lai để thúc đẩy sự tiến bộ của xã hội.
Căn cứ trên những dự báo về gia tốc phát
triển của xã hội, mà giáo dục thiết kế nên mô hình nhân cách của con
người thời đại với hệ thống định hướng giá trị tương ứng. Do đó, có
những quan điểm khác nhau về dạy học. Một là dạy học theo đà phát triển.
Hai là dạy học song hành với sự phát triển. Ba là dạy học đi trước sự
phát triển. Tại đây, Phật giáo dựa vào đặc tính duyên khởi mà tuỳ thời,
tuỳ căn cơ đối tượng mà có nội dung giáo lý giảng dạy cụ thể theo những
phương thức truyền trao thích hợp với môi trường giảng dạy.
Từ cuối thế kỷ 20, hoạt động giáo dục được
xây dựng theo quan điểm của nhà tâm lý học Nga Vưgốtxki: “Dạy học
hướng vào vùng phát triển gần nhất” nhằm đón đầu sự phát triển cá
nhân. Theo ông: “Dạy học tạo nên hiệu quả to lớn nếu nó được xây
dựng trên nguyên tắc phát triển”.
Thiết nghĩ, ý tưởng này chẳng mới mẻ gì so
với lời dạy của Phật cách đây 2500 năm trong các bản kinh Nikaya hay bản
kinh A Hàm khi Ngài khuyến cáo vua Ba Tư Nặc, có 4 thứ trẻ không nên
xem thường. Bởi vì Sát Lợi trẻ có thể sau này thành viên tướng nắm cả
thiên hạ; con rắn trẻ có thể cắn chết người; ngọn lửa trẻ có điều kiện
có thể cắn chết người; tỳ kheo trẻ có thể chứng ngộ giải thoát nếu biết
học pháp và hành trì pháp.
Rõ ràng, thông qua các tác động đón đầu sự
phát triển, giáo dục không chỉ thúc đẩy sự phát triển hoàn thiện nhân
cách và trí tuệ mà còn thúc đẩy sự phát triển xã hội sau này. Tuy nhiên,
giáo dục không phải là vạn năng, không thể một mình quyết định toàn bộ
tiến trình hình thành và phát triển nhân cách. Giáo dục chỉ là một trong
những yếu tố ảnh hưởng quan trọng đến sự phát triển nhân cách thông qua
những tác động có tính chủ động.
Hơn nữa, vai trò chủ đạo của giáo dục chỉ
thể hiện đầy đủ khi có những điều kiện như sau: Công tác dự báo về xu
hướng phát triển của xã hội đưa ra những định hướng đúng đắn để giáo dục
thực hiện tốt chức năng đón đầu sự phát triển. Ðội ngũ thực hiện công
tác giáo dục phải có khả năng tác nghiệp vững để tổ chức những tác động
phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý của được giáo dục.
Ở đây, vai trò các vị thầy giảng sư rất quan
trọng trong việc kết hợp gia đình bao gồm bố mẹ người thân của các cháu
trong việc định hướng hình thành nhân cách cho các em theo một chương
trình ứng dụng giáo lý Phật đà để gảing dạy.
Theo thiển ý của chúng tôi, vì con em của
mình là Phật tử, nên phải có sự kết hợp chặt chẽ bốn thành phần giáo
dục; gia đình, nhà trường, nhà chùa và xã hội nữa. Trong đó nhà trường,
nhà chùa phải chủ động tạo ra sự liên kết giữa bốn thành phần trong công
tác giáo dục. Bởi vì nhà trường, nhà chùa là nơi tập trung những người
làm công tác giáo dục, hoằng pháp được đào tạo, được trang bị nghiệp vụ
sư phạm cho công tác giáo dục con người.
Các nhà nghiên cứu Phật giáo đã chỉ ra sự
hình thành và phát triển nhân cách của con người diễn ra có tính quy
luật theo từng lứa tuổi, bắt đầu từ khi cha mẹ kết duyên và có thai nhi.
Mỗi giai đoạn phát triển đều có những đăc điểm riêng biệt, con em chúng
ta đều có những bước nhảy vọt về chất - lượng và tạo tiền đề cho sự
phát triển ở các giai đoạn tiếp theo.
Giáo dục bao giờ cũng hướng vào con người cụ
thể với những đặc điểm tâm lý riêng về lứa tuổi, giới tính... và những
đặc trưng độc đáo trong nhân cách. Do đó, giáo dục phải xuất phát từ
những đặc điểm tâm sinh lý của đối tượng để đề ra các nội dung, cách
thức tác động tương ứng và phù hợp.
Cụ thể là Phật giáo chủ trương giáo dục con
em từ trong thai nhi và cho đến khi lọt lòng, lớn lên và cả trưởng thành
sau này mà có từng nội dung giáo dục, phương thức giáo dục phù hợp với
từng giai đoạn phát triển của trẻ thơ.
Các đối tượng giáo dục nhân cách theo lứa
tuổi dưới cái nhìn Phật giáo
Giáo dục và sự phát triển nhân
cách trẻ sơ sinh (0 – 1 tuổi)
Ngay từ khi còn trong bụng mẹ, cha mẹ sống
phải biết yêu thương bằng một tình yêu vợ chồng khắng khít không có gì
phân ly được. Sự đầm ấm gia đình sẽ bảo vệ và nuôi dưỡng thai nhi hình
thành mầm mống của chủng tử yêu thương và hiểu biết sau này. Kinh nghiệm
thực tiễn về đời sống tâm linh, một cặp vợ chồng khi người mẹ mang thai
thường xuyên thắp hương kỳ nguyện Phật Tổ, tụng kinh bái sám, chiêm
ngưỡng Thế Tôn, làm việc các công đức thì lúc đó cha mẹ đã bước đầu cho
thai nhi cùng mình kết nối liên thông với thế giới an lành trong tâm
thức. Ðể khi vừa lọt lòng thông qua lời ru của mẹ
và sự ôm ấp trìu mến của mẹ cha, trẻ thơ học được cách hoà nhập với môi
trường sống mới.
Sự phát triển của trẻ sơ sinh chủ yếu là về
mặt cơ thể được thể hiện ở những tiến bộ trong các hoạt động của các
hoạt động của các giác quan và của vận động qua sự nhìn, nghe, ngửi,
nếm, lật, ngồi bò, đứng đi, nằm, cầm, nắm…. Chiều hướng phát triển của
các giác quan và vận động cơ thể trong giai đoạn này cũng nói lên tính
chất và mức độ phát về trí tuệ và tinh thần của đứa trẻ.
Nội dung giáo dục là cha mẹ phải thúc đẩy
quá trình hoàn thiện giác quan và vận động của đứa trẻ. Quan trọng nữa
là cha mẹ cho con tiếp xúc thế giới đồ vật, hoặc tranh ảnh Phật, pháp
khí bằng cách chỉ cho đây là cây viết, tập vở, Phật Quan Âm, đây là mõ, …
dần dần hình thành thái độ và phương thức tác động vào đồ vật hay các
thứ được xử dụng sau này.
Tuỳ theo cách thức chăm sóc của cha mẹ, tuỳ
theo cách cư xử của mọi người lớn trong gia đình mà đứa trẻ ghi nhận
được các ấn tượng, hình thành các thói quen hành vi trong sinh hoạt sau
này như ăn uống, vệ sinh.
Cách tiếp xúc trẻ thơ và tạo điều kiện cho
trẻ thơ tiếp xúc thế giới qua hình ảnh, đồ vật, con người sẽ làm nền
tảng cho trẻ lớn lên có kinh nghiệm cư xử đúng với thế giới xung quanh.
Mọi thứ phụ thuộc vào khả năng cha mẹ am hiểu giáo lý và ứng dụng giáo
lý để hướng dẫn cho các cháu bắt chước và để dấu ấn Phật pháp từ buổi
còn thơ.
Giáo dục và sự phát triển nhân
cách trẻ ở nhà trẻ (1 - 3 tuổi)
Ðến thời kỳ này, trẻ thơ bắt đầu tiến bộ rõ
rệt về cơ thể, tâm lý. Rõ nét trẻ bắt đầu được cha mẹ tập đi thẳng, biết
thích chơi đồ vật, biết nói dần dần, góp phần thúc đẩy sự phát triển
khả năng ý thức của trẻ, một yếu tố thể hiện nhân cách con người. Lúc
này cha mẹ tập nói những đại từ nhân xưng thân thuộc như ba, má, ông
nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, hay thầy, sư ông…khi bồng trẻ lên chùa
lẽ Phật và hướng dẫn con mình hiểu người khác nói.
Đồng thời, cha mẹ chỉ bảo cho con cái học
tập cư xử theo những nguyên tắc hành vi khi tiếp xúc với người khác
trong gia đình như anh em, chú bác và thầy cô dạy trẻ. Quan trọng hơn là
cha mẹ phải là những người gương mẫu, đừng bao giờ để trẻ thấy một hình
ảnh bất hoà cãi vả, lớn tiếng tạo dấu ấn xấu trong đôi mắt trẻ thơ.
Thỉnh thoảng, cha mẹ lên chùa cho trẻ tiếp
xúc không gian rộng lớn vườn tược, hình ảnh Phật thánh qua những bức
tượng hiền hoà để chúng nhận ra sự tình thương của Phật sau này, thậm
chí chỉ vào những bức tượng Hộ Pháp, Kim Cang để răn đe khi chúng không
vâng lời như không chịu ăn, khóc nhè…
Giáo dục và sự phát triển nhân
cách trẻ ở nhà trẻ (3 - 6 tuổi)
Ðây là giai đoạn hình thành nhân cách của
trẻ thể hiện khả năng hành động theo động cơ gián tiếp. Sự phát triển
nhân cách lệ thuộc vào khuôn mẫu hành vi của người lớn mà trẻ em tiếp
xúc như cha mẹ, thầy cô, bạn bè…Những dấu ấn ban đầu trên nhân cách trẻ
thơ được lưu giữ lại.
Sự phát triển nhân cách trong giai đoạn này
chỉ đạt được mức độ thấp nhưng diễn ra ở tốc độ cao. Bắt đầu xuất hiện
khuynh hướng độc lập không có sự kiềm kẹp của người ở trẻ. Vì vậy cha mẹ
phải tập trung chú ý quan tâm nhiều hơn trong việc trẻ ham thích trò
chơi. Thông qua việc tiếp xúc chơi trò chơi mà định hướng ý thức trẻ vào
việc học tập.
Có thể dạy trẻ những gương tốt đạo đức thông
qua việc kể chuyện cổ tích, thần thoại, bước đầu chỉ ra nhân vật thiện
ác, kích thích trí tưởng tượng của trẻ thơ, các loại tình cảm của trẻ
thơ. Ðối với những phụ huynh là Phật tử thuần thành thì nên kể những mẫu
chuyện Tiền thân đức Phật nữa.
Thỉnh thoảng khen thưởng cho quà, hoặc chở
trẻ đi chùa tập làm quen vẻ thưa thầy, sư cô, tập chào hỏi các vị Thầy
bằng cách dạy tập trẻ thưa thầy mở đầu là “A Di Ðà Phật”, “ bạch Thầy”…,
cúi chào người lớn, nhất là chú ý đến việc trẻ trong cách thức ứng xử
các hành vi lễ phép, biết làm chủ về sinh hoạt cá nhân. Bước đầu cho trẻ
tiếp xúc các lễ hội Phật giáo nhân ngày Phật đản, Vu lan, …để thông qua
các đại lễ này dạy về ý nghĩa Phật ra đời, những đạo lý cơ bản hiếu
hạnh, hiếu tâm mà Phật dạy rất căn bản.
Giáo dục và sự phát triển nhân
cách trẻ học sinh tiểu học (6 – 11 tuổi)
Lúc này trẻ bắt đầu lớn nhanh so với các
giai đoạn trước. Trẻ thơ bắt đầu tham gia các hoạt động xã hội để tiếp
nhận hệ thống tri thức của loài người. Cha mẹ chú ý quan tâm về việc học
tập, tinh cách bắt đầu định hình. Có những biến đổi với các đặc điểm
sau:
- Khả năng nhận thức của trẻ phát triển
nhanh chóng nhờ hoạt động học tập. Ðời sống tình cảm chiếm ưu thế và chi
phối mạnh mẽ các hoạt động trong sự hồn nhiên.
- Hay bắt chước những người gần gũi có uy
tính ảnh hưởng đến chúng. Bản tính hiếu động, không kiềm chế dẫn đến sai
phạm những điều cha mẹ, ông bà, người lớn dạy bảo.
Do đó, cha mẹ cần phải khéo léo uốn nắn dạy
dỗ con em trong việc ứng xử hành vi, lễ phép tôn trọng người lớn và biết
học tập theo chương trình dạy ở trường. Lúc này cha mẹ phải cho con
tiếp xúc các mẫu người mô phạm để làm phương tiện giáo dục.
Ngoài sự giáo dục của gia đình, nhà trường,
cha mẹ phải dẫn con lên chùa gần gũi chư Tăng. Sự tiếp xúc này sẽ để lại
ấn tượng tốt thông qua lễ lạy, nghe những lời dạy của quý Thầy hết sức
đơn giản.
Có thể kể những câu chuyện đạo lý trong Phật
giáo về về sự tôn trọng sự thật, sự vâng lời mẹ cha, biết yêu thương
đồng loại. Như câu chuyện Sa di La Hầu La, thường hay nói dối được giáo
hoá qua bài kinh giáo giới La Hầu La. Sa di nọ nhờ cứu đàn kiến mà thoát
kiếp sống đoản mạng. Hoặc những bài kệ ngắn gọn đơn giản trong kinh
Pháp Cú các thầy, cha mẹ có thể dạy như:
“Không làm các điều ác,
Thành tựu các điều lành,
Giữ tâm ý trong sạch,
Ðó là việc làm tối thượng.”
Hay:
“Thờ cha mẹ đúng pháp,
Buôn bán đúng, thật thà
Gia chủ không phóng dật,
Ðược sanh Tự Quang thiên.”
Lúc này, cha mẹ cần lưu tâm chú trọng từng
hành vi ứng xử của trẻ trong học tập, tâm lý, dạy cho chúng tự tin, biết
tin yêu gia đình, thầy cô…đồng thời hướng dẫn tham gia các hoạt động
mang tính tập thể, đoàn hội Gia đình Phật tử, đi hành hương các chùa
cùng bố mẹ, làm việc công đức ở chùa như quét sân, chùi chùa, tham gia
văn nghệ các ngày lễ cuả Phật giáo…nói chung là tập làm các việc có ích
thuộc về khả năng các cháu có thể làm được.
Giáo dục và sự phát triển nhân
cách học sinh trung học cơ sở (11 -15 tuổi)
Giai đoạn này là giai đoạn trẻ phát triển và
biến động về tâm sinh lý phức tạp, tác động khá mạnh vào sự định hình
nhân cách. Giới tính định hình, nó quy định tính cách, cách nhìn và sự
thể hiện ra bên ngoài qua các hành vi ứng xử khác nhau giữa đứa trẻ nam
và nữ. Lúc này trẻ xuất hiện những khuynh hướng phát triển khá đặc biệt
về biến chuyển tâm lý: như mong muốn tự khẳng định mình nên bắt đầu có
dấu hiệu phản ứng lại lời dạy của thầy cô, cha mẹ, hoặc tranh cãi với
bạn bè.
Các em bắt đầu biết xấu hổ, biết tự kiêu,
biết làm đẹp, thích được thoả mãn các mong muốn như được đi chơi, được
xem các trò chơi, ti vi, game…Nếu không đáp ứng hoặc đáp ứng nhu cầu của
trẻ không đúng do nuông chiều của cha mẹ thì dẫn đến sự hư hỏng. Tình
cảm của các em lúc này diễn biến rất phức tạp.
Vì vậy, cha mẹ càng có sự liên kết giáo dục
gia đình, nhà trường, nhà chùa và xã hội chặt chẽ đối với vấn đề giáo
dục các em hoàn thiện. Người mẹ lúc này càng gần gũi con hơn bao giờ
hết. Phải biết để sự phát triển tâm lý, theo dõi sự dậy thì tránh sự lo
âu khi cơ thể biến chuyển về sinh lý cho các em gái, kể cả các em trai,
đồng thời dạy cho hiểu biết về giới tính, có cách thức hành xử đúng khi
quan hệ, tiếp xúc với người khác giới. Tuổi này các em bắt đầu ham chơi,
thích mơ mộng và mong muốn được nuông chiều làm nũng.
Vì vậy phải khéo léo kết nối yêu thương vỗ
về, nhưng cũng phải nghiêm khắc cần thiết. Quan tâm và tạo các điều kiện
học tập tốt nhất và vui chơi lành mạnh mà cha mẹ có thể đáp ứng.
Môi trường của các em tiếp xúc lúc này là
khá rộng, hiểu biết nhiều. Vì vậy cha mẹ Phật tử phải dành nhiều thì giờ
chăm lo để các em phát triển nhân cách theo định hướng của gia đình có
nề nếp và gia phong. Liên lạc thường xuyên với các thầy cô giáo để theo
dõi việc học, tìm hiểu bạn bè của các em để nắm rõ tình hình sinh hoạt ở
bên ngoài. Khi có điều kiện sinh hoạt gia đình thông qua bữa cơm, huý
kỵ, tiệc mừng sinh nhật, chúc thọ … mà nói rõ ý nghĩa lễ và khơi dậy
tình thương yêu, biết chia sẻ niềm vui với người khác, cũng như giảng rõ
về sự bất hạnh đối với ai thiếu tình thương với cha mẹ.
Độ tuổi này các bậc cha mẹ phải kết hợp quý
Thầy khéo léo giảng dạy các em về niềm tin và lẽ sống. Tin Phật pháp
tăng, tin nhân quả, dạy phân biệt Chánh tà, thiện ác, nhất là biết tin
vào chính mình.
Có thì giờ nên tạo cho các em đi chùa cùng
với gia đình để bước đầu học hỏi giáo lý Phật đà, sự quy y và biết sống
theo năm giới như một nếp sống đạo đức Phật giáo. Khi cha mẹ đi chùa
hành hương thập tự thì nên cho các em đi theo, tiếp cận sự tin yêu, tôn
kính ba ngôi Tam bảo, sự bố thí cúng dường, thực hành các việc phước
thiện…
Các chùa hiện nay đều có chức thuyết giảng
sáng chủ nhật, tu bát quan trai, lớp học giáo lý, hướng cac em thực hành
nếp sống tri túc, hướng dẫn lối sống đạo đức Phật giáo, cho các em tham
gia đi hành hương, từ thiện nên tạo điều kiện cho các em học tập và
thực hiện làm quen. Dần dần, các em sẽ biết hình thành nhân cách hoàn
thiện sống có ích và thực hiện ước mơ hoài bão của chúng theo định hướng
của gia đình, xã hội yêu cầu.
Tóm lại, trẻ em là đối tượng cần quan tâm
hơn bao giờ hết. Ðây là thành phần hạt nhân kết nối sự yêu thương gia
đình qua tình vợ chồng, anh em, ông bà, cha mẹ, bà con quyến thuộc nội
ngoại xa gần xóm giềng. Các em cũng là người kế thừa trong gia đình gánh
vác việc gia tộc, ngoài xã hội là những chủ nhân ông xây dựng đất nước
sau này. Là Phật tử các em là người hộ trì chánh pháp, thậm chí trở
thành người xuất gia học đạo hành đạo đem lại lợi ích sau này cho đời
đạo mỗi ngày sáng tươi. Vì thế, ai cũng có trách nhiệm với trẻ thơ không
chỉ ở phạm vi gia đình, nhà trường, nhà chùa mà cả xã hội nữa.
Cuộc sống hôm nay từng bước chuyển đổi trong
xu hướng thịnh vượng, đời sống sinh hoạt của nhân dân ta đã ấm no đầy
đủ, sự quan tâm đối với trẻ thơ càng được chú trọng hơn. Nhà nước và các
tổ chức cộng đồng, trong đó có Phật giáo đã thực thi chú trọng giảng
dạy trẻ thơ học pháp và hành pháp trong sự hình thành nhân cách con
người Phật tử.
Đây chính là chủ thể và cội nguồn cho Phật
giáo Việt Nam phát triển lâu dài và có kế thừa liên tục. Vị vậy, trách
nhiệm của các vị thầy giảng sư đối với việc giảng dạy giáo lý cho thiếu
nhi hoặc gián tiếp thông qua các phụ huynh Phật tử, hay trực tiếp với
một chương trình vạch địch là điều cần thiết.