Mỗi
ngày mình tới bàn thờ tổ tiên, lấy miếng vải để lau bụi, hay là đốt một
cây hương để cắm vào lư hương, hành động đó có người cho là mê tín nhưng
theo tôi, rất là khoa học, tại vì trong thời gian đốt cây hương thì
mình có cơ hội tiếp xúc được với tổ tiên trong từng tế bào cơ thể mình.
Nếu chúng ta tin rằng tổ tiên đang ngồi trên bàn thờ và đợi chúng ta đốt
một cây hương cho quý ngài thì đó là mê tín nhưng chúng ta biết rằng tổ
tiên không ngồi trên bàn thờ. Bàn thờ chỉ là một biểu tượng cũng như
một lá cờ, lá cờ không phải là đất nước, chỉ là biểu tượng thôi. Bàn thờ
cũng vậy, trong khi chúng ta đốt một cây hương, chúng ta phải sử dụng
năng lượng của niệm của định và của tuệ thì hành động đốt hương đó mới
có giá trị. Đó là giá trị tâm linh và rất khoa học.
(Trích pháp thoại của Thiền sư Nhất Hạnh tại Học viện chính trị quốc
gia Hồ Chí Minh, ngày 17.03.2005 – phần vấn đáp giữa Thiền sư với các
giáo sư, tiến sĩ, các nhà khoa học)
Hỏi:
Chúng ta đang sống trong một thời kỳ mà cuộc cách mạng khoa học công
nghệ đang phát triển hết sức mạnh mẽ. Nhận thức của con người về các
quá trình tự nhiên và xã hội ngày càng sâu sắc, ngày càng đầy đủ và ngày
càng mang tính phổ biến hơn. Vậy trong thời kỳ đó, theo Thiền sư, niềm
tin tôn giáo vì thế có giảm đi hay không và nếu không thì vì sao? Cũng
xin ý kiến của Thiền sư về xu hướng phát triển của tôn giáo trong tương
lai sẽ như thế nào khi nhân loại ngày càng bước sâu hơn vào nền văn
minh?
Thiền sư Nhất Hạnh: Sự hành trì đó là mê tín hay không
mê tín, tùy theo cách mà chúng ta thực tập. Trong nhà của chúng ta,
thường thiết lập bàn thờ tổ tiên vào vị trí trung ương vì chúng ta muốn
tôn vinh tổ tiên. Dù cho nhà của chúng ta là nhà tranh vách nứa thì
chúng ta cũng đặt bàn thờ tổ tiên vào vị trí trung ương. Điều đó chứng
tỏ rằng chúng ta có niềm tin nơi tổ tiên, giai đoạn này rất là quan
trọng. Sự kiện thiết lập một bàn thờ tổ tiên trong nhà là một hành động
giáo dục rồi. Có thể coi như là một cái gì rất khoa học mà không phải mê
tín.
Nếu mình công nhận rằng cây có cội, nước có nguồn thì đó là một niềm
tin rất khoa học. Có gì là mê tín đâu? Vì bàn thờ tổ tiên biểu trưng
cho niềm tin đó. Chúng ta có gốc, có nguồn và chúng ta đã tiếp nhận được
những giá trị lớn lao từ gốc, từ nguồn của chúng ta. Sự có mặt của bàn
thờ tổ tiên trong nhà không phải là dấu hiệu mê tín gì hết. Những người
không hề theo đạo Phật, những người Cơ đốc giáo hoặc những người cộng
sản cũng có thể làm như vậy. Trong nhà mình mà có một bàn thờ tổ tiên
thì điều đó chứng tỏ rằng mình có gốc, có nguồn và mình luôn luôn hướng
về cội nguồn của mình. Điều này rất đẹp, đó là văn hóa chứ không phải là
tôn giáo, không phải là mê tín.
Mỗi ngày mình tới bàn thờ tổ tiên, lấy miếng vải để lau bụi, hay là
đốt một cây hương để cắm vào lư hương, hành động đó có người cho là mê
tín nhưng theo tôi, rất là khoa học, tại vì trong thời gian đốt cây
hương thì mình có cơ hội tiếp xúc được với tổ tiên trong từng tế bào cơ
thể mình. Nếu chúng ta tin rằng tổ tiên đang ngồi trên bàn thờ và đợi
chúng ta đốt một cây hương cho quý ngài thì đó là mê tín nhưng chúng ta
biết rằng tổ tiên không ngồi trên bàn thờ. Bàn thờ chỉ là một biểu tượng
cũng như một lá cờ, lá cờ không phải là đất nước, chỉ là biểu tượng
thôi. Bàn thờ cũng vậy, trong khi chúng ta đốt một cây hương, chúng ta
phải sử dụng năng lượng của niệm của định và của tuệ thì hành động đốt
hương đó mới có giá trị. Đó là giá trị tâm linh và rất khoa học.
Thầy tôi dạy rằng: Mỗi khi con đốt một cây hương, con phải đem hết cả
sự thành tâm vào trong việc đốt hương. Làm thế nào trong khi đốt hương
có năng lượng của niệm, của định, của tuệ. Niệm là năng lượng của sự có
mặt hoàn toàn của thân và tâm. Khi mà thân và tâm của mình về lại với
nhau, mình thật sự có mặt trong giây phút hiện tại thì đó gọi là năng
lượng của niệm. Khi mình có sự chuyên chú vào hành động đó mà không suy
nghĩ về quá khứ, không suy nghĩ về tương lai, không suy nghĩ về bất cứ
một cái gì khác nữa thì đó là năng lượng của định.
Trong khi đốt một cây hương chúng ta làm thế nào đốt cây hương để
năng lượng của niệm và của định có mặt, nghĩa là chúng ta có mặt, thân
và tâm phải có mặt đích thực trong giây phút hiện tại và ta phải chuyên
chú vào việc đốt hương thì đó là điều kiện để có sự truyền thông. Trong
thời gian đốt hương và cắm cây hương lên bàn thờ thì ta có niệm và có
định, chính cái niệm và định đó giúp ta tiếp xúc được với tổ tiên hiện
đang có mặt trong từng tế bào cơ thể. Theo tôi đó là một hành động rất
khoa học, nó không có cái gì mê tín hết.
Cũng như khi chúng ta chào một lá cờ. Có mê tín gì đâu? Lá cờ đó tuy
chỉ là một miếng vải thôi nhưng biểu trưng cho đất nước. Nếu nói là thắp
cây hương mê tín thì chào cờ cũng là mê tín. Vì vậy tùy theo nhận thức
của chúng ta mà thôi. Như tôi đã nói, tôn giáo có phần hy vọng, có phần
cầu nguyện nhưng đạo Phật không phải chỉ là một tôn giáo, đạo Phật là
tuệ giác và tuệ giác đó có thể đem lại hạnh phúc cho chúng ta ngay trong
giây phút hiện tại.
Như phương pháp thiền hành, gọi là thiền đi, chúng tôi thực tập mỗi
ngày. Khi chúng tôi đem tâm về với thân, có mặt thật sự trong giây phút
hiện tại thì chúng tôi tiếp xúc được ngay với bao nhiêu là mầu nhiệm của
sự sống đang có mặt: Trời xanh, mây trắng, chim hót, thông reo, hoa
nở... Tất cả những cái mầu nhiệm đó của sự sống có mặt trong giây phút
hiện tại và ta phải trở về giây phút hiện tại mới có thể tiếp xúc với
những mầu nhiệm đó của sự sống. Những mầu nhiệm đó sẽ nuôi dưỡng ta và
làm cho chúng ta thấy rằng sự sống là một cái gì hết sức mầu nhiệm. Đi
thiền hành (walking meditation) là đem tâm thân về với nhau, mỗi bước
chân đưa ta trở về với giây phút hiện tại để ta có thể tiếp xúc được với
những mầu nhiệm sự sống. Mỗi bước chân đem lại vững chãi, thảnh thơi,
hạnh phúc và chúng ta bước như là đang bước ở cõi Tịnh Độ hay là ở cõi
Thiên Đường.
Tôn giáo hay diễn giải rằng Thiên Quốc hay Thiên Đường chỉ nằm ở
tương lai và nằm ở chỗ khác. Nhưng mà theo tuệ giác của đạo Phật thì cõi
gọi là Tịnh Độ, gọi là Niết Bàn có mặt ngay trong giờ phút hiện tại với
tất cả những mầu nhiệm của nó. Khi mình đem tâm trở về với thân và mình
có mặt đích thực trong giây phút hiện tại thì mình tiếp xúc được với
tất cả những mầu nhiệm của Niết Bàn, của Tịnh Độ và mỗi bước chân mình
đặt vào Tịnh Độ (mà không đặt ra ngoài). Vì vậy thiền hành nghĩa là thực
tập sống hạnh phúc, sống vững chãi, sống thảnh thơi và sống tự do trong
giây phút hiện tại. Phần lớn chúng ta đều tin rằng hạnh phúc chỉ có thể
có được trong tương lai cho nên ai cũng bương bã đi tìm hạnh phúc trong
tương lai. Chúng ta nghĩ rằng những điều kiện hạnh phúc chưa đủ, chúng
ta cần một vài điều kiện nữa và những điều kiện đó chúng ta phải đi tìm ở
tương lai. Hầu hết chúng ta đều hy sinh giây phút hiện tại để đi tìm
hạnh phúc trong tương lai. Đó là lầm lỗi căn bản.
Đức Phật nói rằng chúng ta có thể sống hạnh phúc ngay trong giây phút
hiện tại, đó gọi là Hiện Pháp Lạc Trú. Hiện pháp tức là giây phút hiện
tại, lạc trú là sống hạnh phúc. Đem tâm trở về với thân và có mặt thật
sự trong giây phút hiện tại, khi đó ta tiếp xúc được với những mầu
nhiệm của sự sống trong giây phút hiện tại. Ta sẽ thấy rằng những điều
kiện hạnh phúc ta đang có, dư sức để có thể có hạnh phúc trong giây phút
hiện tại. Ví dụ như quý vị thực tập thế này:
Thở vào tôi có đôi mắt sáng,
Thở ra tôi mỉm cười vì hai con mắt sáng của tôi.
Hai con mắt sáng là điều kiện rất lớn của hạnh phúc vì chỉ cần mở mắt
ra là ta thấy trời xanh mây trắng, thấy rõ cái khuôn mặt dễ thương của
đứa con mình. Tôi cũng có thể ý thức là mình đang có một trái tim còn
tốt, nó đang hoạt động bình thường. Bởi vì có những người có trái tim
không bình thường và họ đang mong ước có trái tim bình thường như chúng
ta. Chúng ta có rất nhiều điều kiện của hạnh phúc, nếu chúng ta trở về
giây phút hiện tại, tiếp xúc với điều kiện của hạnh phúc thì chúng ta
hạnh phúc liền lập tức và chúng ta không cần đi tìm cầu những điều kiện
khác của hạnh phúc.
Tôi xin đề nghị, quý vị lấy một tờ giấy, viết xuống những điều kiện
may mắn mà quý đang có, điều kiện hạnh phúc mà quý vị đang có, quý vị sẽ
thấy rằng hai trang giấy không đủ để quý vị ghi xuống những điều kiện
hạnh phúc mà quý vị đang có. Vì vậy phương pháp của Đức Phật rất nhiệm
mầu: đừng nuối tiếc quá khứ, đừng tưởng tới tương lai, quá khứ đã không
còn, tương lai thì chưa tới. Đó là lời của Đức Thế Tôn. Người thức giả
trở về giây phút hiện tại, nhận diện được rằng, trong giây phút hiện tại
mình có quá nhiều những điều kiện hạnh phúc và mình có thể có hạnh phúc
được liền lập tức.
Niết Bàn cũng như Tịnh Độ, mình có thể tiếp xúc được ngay trong giây
phút hiện tại. Tại sao phải đợi chờ nữa? Hầu hết chúng ta đều mê tín
rằng trong giây phút hiện tại chúng ta chưa hạnh phúc được. Hạnh phúc là
phải đi kiếm ở tương lai một vài điều kiện nữa cho nên chúng ta phải hy
sinh giây phút hiện tại. Theo tuệ giác của đức Thế Tôn thì sự sống chỉ
có mặt trong giây phút hiện tại: Quá khứ đã không còn, tương lai thì
chưa tới, muốn ước hẹn với sự sống phải trở về với giây phút hiện tại.
Một hơi thở có ý thức, một bước chân có ý thức, giúp cho chúng ta đem
tâm trở về với thân và có mặt đích thực trong giây phút hiện tại. Đó là
sự thật đầu tiên của những người giác ngộ mà tất cả quý vị đều có thể
làm được. Không có tuệ giác, có thể cho đó là mê tín nhưng khi có tuệ
giác rồi thì đó là một sự thật rất khoa học. Chúng ta đừng bị hình tướng
bên ngoài đánh lừa. Trong Kinh Kim Cương có nói rằng: Chỗ nào có hình
tướng là chỗ đó có sự đánh lừa (*). Chỉ có tuệ giác mới giúp chúng ta
được tự do và giúp chúng ta không bị đánh lừa bởi hình tướng đó.
Nhà bác học Einstein có nói rằng: Nếu có một tôn giáo nó có thể đi
đôi được với khoa học thì tôn giáo đó là Phật giáo. Chúng tôi thấy rằng
khi chúng ta học khoa học cho đến nơi đến chốn thì chúng ta có thể hiểu
Phật giáo sâu sắc hơn. Ví dụ như khi đọc Kinh Hoa Nghiêm, quý vị sẽ thấy
quan điểm: Một là tất cả, tất cả là một (nhất tức nhất thiết, nhất
thiết tức nhất) **. Bây giờ chúng ta nhìn vào khoa sinh vật học chúng ta
thấy khoa học bây giờ có khả năng lấy một tế bào trong cơ thể và làm ra
một cơ thể khác y hệt như tế bào cha, đó gọi là cloning. Trong cơ thể
chúng ta có hai loại tế bào, tế bào mầm và tế bào sinh dưỡng. Chúng ta
lấy bất cứ một tế bào sinh dưỡng nào, rồi ta bỏ đói nó chừng hai ba ngày
thì nó sẽ trở thành một tế bào mầm và khi đó chúng ta lấy một cái trứng
trong buồng trứng của một phụ nữ, nạo hết cái nội dung ra, rồi chúng ta
đặt tế bào mầm này vào trong cái vỏ trứng đó và chúng ta cho một luồng
điện đi ngang qua thì nó khép lại. Chúng ta gửi cái trứng đó vào trong
tử cung của một người phụ nữ để nuôi, sau chín tháng thì đứa con được
sinh ra, nó là một bản sao y hệt của tế bào cha.
Sinh sản như thế gọi là sinh sản theo dòng vô tính. Nếu chúng ta lấy
ra một ngàn tế bào thì chúng ta có thể làm ra một ngàn đứa bé. Gia tài
di truyền đó đồng nhất với gia tài di truyền của người gốc. Chúng ta
thấy rất rõ mỗi tế bào của cơ thể nó chứa đựng tất cả những tế bào khác,
chỉ cần bất cứ một tế bào nào trong cơ thể thì chúng ta có thể làm một
con người toàn vẹn. Điều đó chứng minh: Cái một chứa đựng cái tất cả.
Chúng ta đã từng nghe rằng, mỗi tế bào của chúng ta chứa đựng tất cả
những dữ kiện, tất cả những gia sản di truyền của tất cả các thế hệ cha
ông của chúng ta. Nếu có một máy đọc tinh vi chúng ta có thể có đủ những
dữ kiện về các thế hệ của tổ tiên chúng ta, tất cả những dữ kiện đó chỉ
cần nhìn trong một tế bào. Vì vậy giáo lý Hoa Nghiêm gọi cái một chứa
đựng tất cả, nó đã được khoa học hiện giờ chứng minh, xác định được.
Điều đó cho ta thấy tôn giáo không có nghĩa là trái, chống với khoa học
kỷ thuật.
Tôi đã từng giảng dạy trong những đại hội của người Cơ đốc giáo và
tôi đã khuyến cáo, đã khuyên những nhà thần học nên hiện đại hóa cách
giảng dạy và cách thực tập. Tôi nói rằng: Cái mà quý vị gọi là Thiên
Quốc, có thể có mặt ngay trong giây phút hiện tại. Đó là tôi căn cứ trên
truyền thống đạo Phật. Những mầu nhiệm của sự sống chúng ta có thể tiếp
xúc được trong giây phút hiện tại. Tôi có nói rằng, anh không cần phải
chết đi mới đi vào Thiên Quốc được mà theo nguyên tắc, anh sống anh mới
có thể đi vào trong Thiên Quốc. Với năng lượng của niệm, của định, anh
bước một bước, anh có thể đi vào trong Thiên Quốc ngay trong giây phút
hiện tại. Các nhà lãnh đạo Cơ đốc giáo nếu muốn cho người thanh niên,
những người trẻ không bỏ nhà thờ đi như họ đã và đang làm thì phải cung
cấp giáo lý và sự thực tập nào đó để giúp cho người đương thời có thể
tiếp xúc với những mầu nhiệm của sự sống trong giây phút hiện tại để có
được Thiên Quốc ngay bây giờ và ở đây thì thanh niên họ mới không đi tìm
hạnh phúc ở chiều hướng của ma túy, của danh lợi, của quyền hành, của
sắc dục.
Ở trong thánh kinh có nói về một câu chuyện của một người nông dân
khám phá ra được một kho tàng trong một thửa ruộng, rồi về bán hết tất
cả mọi thứ khác của mình để mua cho được cái thửa ruộng đó, tại vì anh
thấy thửa ruộng đó là quý giá nhất. Ở đây cũng vậy, khi khám phá ra tất
cả những mầu nhiệm của sự sống, khám phá ra Tịnh Độ và Niết Bàn là những
gì có mặt ngay trong phút hiện tại thì mình có thể buông bỏ tất cả
những cái khác như danh vọng, sắc dục và uy quyền. Nếu chúng ta có thể
cung cấp được những giáo lý và phương pháp thực tập giúp cho con người
sống được hạnh phúc trong giây phút hiện tại, có cơ hội chế tác trí tuệ
và tình thương, khi đó hạnh phúc lớn lắm thì mình có thể buông bỏ được
tất cả những đối tượng của tham đắm, của quyền hành và của dục vọng. Có
những vị lãnh đạo của Cơ Đốc giáo thấy được giá trị của sự thực tập đó
và họ đã đi theo.
Tôi nghĩ, nó tùy thuộc theo cách mình thấy mà thôi, cái đó có thể là
tôn giáo, là mê tín nhưng nếu mình có thể có một nhận thức sâu sắc hơn
nhờ có tuệ giác thì mình biết đó là một thực tại hiện thực và rất khoa
học. Cũng như là khi tôi nói với những người Tây phương về bàn thờ ông
Địa ở Việt Nam. Mỗi khi chúng ta đến đất mới chúng ta phải cúng đất đai.
Tôi giải thích cho các bạn Tây phương rằng trong văn hoá Việt Nam khi
đến một vùng đất mới, chúng tôi phải chứng tỏ sự cung kính, muốn hòa
bình với vùng đất đó thì chúng tôi thiết lập bàn thờ ông Địa và cam kết
rằng mình sẽ sống như thế nào để tôn trọng, để bảo tồn được đất và nước ở
vùng đó. Bàn thờ ông Địa này không phải là mê tín mà là một hành động
cam kết sẽ tôn trọng sinh môi, sẽ không để cho vùng này bị ô nhiễm, bị
phá hoại.
Người Tây phương và thế hệ trẻ ngày nay họ chấp nhận một cách rất
trân quý việc thiết lập bàn thờ ông Địa. Ban đầu quý vị có thể nói rằng
thờ ông Địa là một hành động mê tín nhưng nếu chúng ta chuyển hướng nhận
thức của chúng ta thì thờ ông Địa là một hành động rất hiện đại, một
lối sống rất đẹp đẽ và rất ý nghĩa. Vậy ông Địa là gì? Là sự có mặt của
tinh thần trách nhiệm, là sự tôn trọng sinh môi, hoàn cảnh mà chúng ta
đang sống. Đời nay, phần đông chúng ta đang đi ngược lại lối sống đẹp đẽ
đó, chúng ta đang phá hoại môi sinh của chúng ta, đang làm ô nhiễm môi
sinh của chúng ta và như vậy chúng ta đang không thờ ông Địa.
Thờ ông Địa là phải kính trọng đất nước và hoàn cảnh trong đó mình
sống. Mình phá rừng, mình làm cho ô nhiễm sông hồ tức là mình không có
niềm kính trọng đó. Tổ tiên chúng ta thiết lập bàn thờ ông Địa nghĩa là
tổ tiên chúng ta đã có ý muốn tôn trọng sinh môi, muốn giữ gìn vùng đất,
nước và những khu rừng này. Thành ra tùy theo cách mình nhìn, cái đó là
cái gì rất mê tín hay là cái gì rất khoa học, tất cả đều do tâm của
mình, tất cả đều do nhận thức của mình hết.
Hỏi:
Khi nói đến đạo Phật là nói đến sự giác ngộ, đến tuệ giác, đến trí
tuệ. Điều ấy có nghĩa là đạo Phật không chấp nhận những vấn đề mê tín dị
đoan. Vậy thì theo Thiền sư hiện nay chúng ta có cách nào tốt nhất để
khắc phục hiện tượng mê tín dị đoan trong chùa, trong lễ hội và kể cả
trong thờ cúng tổ tiên.
Thiền sư Nhất Hạnh: Câu hỏi này quan trọng lắm, thuộc
về vấn đề giáo dục. Cái mê tín hôm nay có thể trở thành cái không mê tín
của ngày mai. Trước hết, khi đi vào chùa thấy tượng Phật, mình thắp
hương, mình vái, mình xá tượng Phật, đó cũng có thể là mê tín rồi. Theo
tuệ giác của đạo Phật, Phật tức là khả năng hiểu và thương, đại từ, đại
trí, đại bi, còn cái tượng kia đâu phải là Phật mà chỉ là một biểu
tượng, một cái gì bằng đồng thôi. Thường những người mới bắt đầu thực
tập nghĩ rằng Phật ở ngoài mình nhưng nếu thực tập cho giỏi và có người
hướng dẫn đàng hoàng thì trong một thời gian ngắn sẽ thấy Phật nằm ở
trong tâm. Nhưng mà luôn luôn phải bắt đầu, bằng chỗ mới bắt đầu. Ban
đầu thấy Phật ở ngoài, ở trên bàn thờ, rồi sau đó mới thấy Phật ở trong
tâm thì đối với những người kia cũng vậy.
Chúng ta biết rằng khi mà chúng ta có bàn thờ tổ tiên, chúng ta phải
thắp hương và thắp hương như vậy không có nghĩa là tổ tiên ngồi trên bàn
thờ. Khi chúng ta thắp hương như vậy, chúng ta có cơ hội tiếp xúc với
tổ tiên ở trong từng tế bào của cơ thể. Cái đó rất khoa học nhưng người
ta nhìn vào có thể thấy đó như là mê tín. Chúng ta biết rằng theo truyền
thống văn hóa chúng ta thì tổ tiên chúng ta có quyền biết được những gì
đang xẩy ra cho con cháu. Khi gả con gái cho một anh chàng ở bên làng
bên thì chúng ta phải cáo với tổ tiên, làm mâm cúng hoặc trái cây hoặc
cái gì đó. Chúng ta phải thắp hương và khấn: Xin cáo với tổ tiên là
chúng con mới vừa hứa gả con gái cho cái anh chàng ở bên làng bên. Theo
truyền thống, tổ tiên phải được biết điều đó. Khi khấn như vậy tức là
chúng ta nói với tổ tiên ở trong tế bào cơ thể, chứ không phải tổ tiên
đang ngồi trên bàn thờ như là một thực tại ở ngoài. Ở ngoài hay trong là
tùy theo trình độ, kiến thức, tuệ giác của từng người mà thôi. Có những
người họ chưa đạt tới cái thấy như vậy, chúng ta phải tìm cách để đưa
họ đi từ từ, từ chỗ thấp đến chỗ cao, chứ đừng vội nói với họ cái đó là
mê tín.
Ví dụ như tục đốt vàng mã, áo quần bằng giấy cho người chết, chúng ta
có thể nói đó là mê tín, vì làm thế nào để đốt cái áo đó rồi gởi xuống
một cõi khác mà người ta có thể mặc được? Nhưng chúng ta phải thấy giá
trị văn hóa ở trong hành động đó. Chúng ta phải thấy rằng niềm tiếc
thương của mình đối với người chết, đối với người đã khuất khiến mình
biểu lộ tình thương đó dưới những hình thức này hay hình thức kia, trong
đó có hình thức cúng tiền giấy và cúng áo quần giấy. Tôi có viết đoản
văn Bông Hồng Cài Áo, nói về tình mẹ, tình cha. Tôi nói với những người
trẻ rằng: Đến ngày rằm tháng bảy, mình có thể in tập này ra và tổ chức
những buổi lễ Bông Hồng Cài Áo.
Những buổi lễ Bông Hồng Cài Áo của chúng tôi tổ chức như thế này:
Người nào còn mẹ được cài bông hoa màu hồng còn những người nào mất mẹ
được cài một bông hoa màu trắng. Khi được cài một bông hoa màu hồng thì
mình rất hãnh diện vì mình còn có mẹ và hạnh phúc của mình rất lớn. Còn
khi được cài một bông hoa màu trắng thì mình ý thức rằng tuy mẹ của mình
đã mất rồi nhưng mình có cơ hội để nhớ mẹ. Buổi lễ đó gọi là lễ Bông
Hồng Cài Áo, phát xuất từ một đoản văn của chúng tôi viết tại Princeton
năm 1962 và đã thành một truyền thống rồi. Hiện giờ ở các nước, nhất là ở
Việt Nam đang thực tập lễ đó. Khi thực tập như vậy, chúng ta có cách
thức biểu lộ tình thương của chúng ta một cách hiện đại hơn mà chúng ta
khỏi phải đi mua giấy tiền vàng bạc gì cả. Cả hai đều có giá trị văn hóa
là tưởng nhớ đến người thương. Một bên tổ chức cái lễ rất là trẻ, rất
là văn nghệ, rất là hay còn bên kia phải đi mua giấy vàng bạc, mướn
người làm áo quần bằng giấy để đốt. Chúng ta phải nhớ rằng cả hai đều có
giá trị văn hóa. Nếu chưa tìm ra được những phương tiện khác để biểu lộ
được tình cảm đó thì chúng ta chớ vội chấm dứt cái kia. Khi tổ chức
được lễ Bông Hồng Cài Áo rồi thì chúng ta có thể khuyên rằng thay vì đốt
tiền giấy với vàng mã, chúng ta làm cái lễ này. Nhưng các bạn nên nhớ,
khi chưa cống hiến được cho họ những phương tiện để biểu lộ thứ tình cảm
cao đẹp đó thì chúng ta đừng chấm dứt những cái kia. Chính những cái
kia nuôi dưỡng được tình nghĩa, tuy là mê tín nhưng có giá trị văn hóa ở
trong đó. Chúng ta phải rất cẩn thận mới được, nếu không, chúng ta chấm
dứt truyền thống ân nghĩa của chúng ta thì đó là một thiệt thòi lớn.
Nói đến vấn đề giáo dục quần chúng cho khéo thì chúng ta phải giúp cho
người ta đi từ chỗ thấp đến chỗ cao từ từ.
Nhân đây tôi xin nói một câu chuyện vui là, trong thiền học có câu
như thế này: Trước khi tôi tu thiền thì tôi thấy núi là núi, sông là
sông. Trong khi tôi tu thiền, tôi thấy núi không là núi nữa, sông không
là sông nữa. Sau khi tôi tu đã tạm vững rồi, tôi thấy núi lại là núi,
sông lại là sông ***. Câu nói đó rất là ngộ nghĩnh, nó là biện chứng
pháp của Phật học, của thiền học. Vì sao? Khi nhìn vào đứa con và mình
nói đây là đứa con tức là mình chưa thấy được đứa con. Nếu nhìn vào đứa
con, mình thấy người cha trong đứa con thì lúc đó mình bắt đầu thấy được
đứa con. Cũng như khi nhìn vào đám mây mà chỉ thấy mây là đám mây thôi
thì chưa chắc mình đã thấy được đám mây. Nhìn vào đám mây, phải thấy
được nước sông, nước hồ và sức nóng của mặt trời thì mới bắt đầu thấy
được đám mây. Nhìn vào đám mây, thấy được cơn mưa, lúc đó mình mới thấy
được đám mây sâu sắc hơn vì mình đã nhìn bằng con mắt vô tướng. Ở trong
Kinh Kim Cương có những câu không thể hiểu được, nếu không đặt câu đó
dưới ánh sáng của biện chứng pháp Phật giáo: Cái mà tôi gọi là vị Bồ
Tát, đó không phải là vị Bồ Tát thì mới thật sự là một vị Bồ Tát. Khi
nhìn vào sông, thấy núi ở trong đó mới thấy sông một cách đích thực. Khi
nhìn vào núi thấy sông ở trong núi, lúc đó mới thấy núi một cách đích
thực. Khi nhìn vào đứa con mà thấy người cha trong đó, lúc đó mới thấy
đứa con được rõ ràng và thấy được cái tự tính của đứa con.
Khi nhìn vào kẻ thù mà thấy được người bạn, một người bạn tương lai
vì trong kẻ thù đó có thể có hạt giống của người bạn và nếu mình có thể
tưới tẩm hạt giống người bạn ở trong người kẻ thù kia, kẻ thù kia sẽ tan
biến để mình có một người bạn. Cái đó rất là mầu nhiệm. Một đứa con hư
thường mình chỉ thấy cái hư của nó thôi chớ không thấy được cái tốt của
đứa con nhưng nếu mình biết cách tưới tẩm hạt giống tốt trong nó thì từ
một đứa con hư sẽ trở thành một đứa con tốt.
Vì vậy nguyên tắc đồng nhất **** là trở ngại rất lớn cho nhận thức
của chúng ta. Khi chúng ta đưa ra một nhận xét, nhận xét đó có thể gọi
là chính đề. Chúng ta nhìn cho kỹ thì có sự mâu thuẫn trong chính đề đó,
tức là phản đề. Chính phản đề đó giúp cho chúng ta thấy chính đề rõ
ràng hơn trong hình thái tổng hợp đề đó, cứ như vậy, chúng ta càng thấy
được sâu hơn trong bản chất của sự thật. Mâu thuẫn dẫn đạo sự đi tới là
như vậy. Trong cái A có thể thấy được cái phi A, cho nên chúng ta thấy
được chiều sâu của cái A, chúng ta không có bị kẹt vào cái tướng. Con
mắt vô tướng là như vậy.
----------------------------------------------------
* Kinh Kim Cang,- "Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng" - phàm cái gì
có hình tướng đều là hư dối. Nguyên câu: "Phàm sở hữu tướng, giai thị hư
vọng. Nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai".
** Nhất tức nhất thiết, nhất thiết tức nhất - Có thể nói, đây là mệnh
đề tóm tắt toàn bộ yếu nghĩa kinh Hoa Nghiêm. Yếu nghĩa ấy nói về sự
tương quan tương duyên chằng chịt của tất cả mọi sự vật trong vũ trụ. Sự
vật này tức là sự vật kia, sự vật kia tức là sự vật này; một sự vật có
mặt trong tất cả mọi sự vật, tất cả mọi sự vật có mặt trong một sự vật;
một sự vật tức là tất cả các sự vật, tất cả các sự vật tức là một sự
vật. Nguyên lý duyên khởi cho ta thấy rằng, một sự vật không thể tự nó
có mặt, mà đã do vô số các sự vật khác, không phải là nó, hợp lại cấu
thành
*** Thiền sư Thanh Nguyên Duy Tín (Trung Hoa) – Sau khi ngộ đạo đã
tuyên bố: Lúc chưa tu ông thấy núi chỉ là núi, sông chỉ là sông. Sau ông
nhập đạo tu hành: ông thấy núi không phải là núi, sông không phải là
sông. Nhưng đến khi giác ngộ: ông lại thấy núi vẫn là núi, sông vẫn là
sông.
**** Nguyên tắc đồng nhất trong logic cổ điển Tây Phương (logic
Aristotle), the principle of identify – Phát biểu như sau: “cho tất cả
x, x = x”. Tạm diễn dịch: Mọi sự vật luôn luôn đồng nhất với nó. A là A
chứ không thể là cái gì khác-A.
(Làng Mai)