Bất kỳ một tôn giáo nào, ngày Đản sanh của vị Giáo chủ là
ngày trọng đại nhất. Trong tất cả những ngày lễ của Đạo Phật, ngày Phật Đản là
ngày lễ lớn nhất, là Đại lễ Vesak của toàn thế giới. Nghĩa là, ngày Đản sanh của
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã trở thành ngày lễ hội văn hóa thế giới, mang tính
toàn cầu, được sự bảo trợ, quan tâm đặc biệt của Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc.
Qua đó, đã khẳng định được vị trí quan trọng của Đạo Phật chúng ta trên lĩnh
vực một tôn giáo văn hóa, hòa bình của nhân loại và thấy được sự xuất hiện vi
diệu của Đức Phật trong cuộc đời rất có ý nghĩa.
Điều hy hữu nhất trong tất cả những điều hy hữu là: khó thay
Phật ra đời! Đây là sự kiện trọng đại, vị tằng hữu (chưa từng có), nghìn năm
một thuở trong lịch sử nhân loại. Trong một thế giới, không bao giờ có hai vị
Phật đồng thời xuất hiện. Kinh Nikàya có ghi: “Một người, này các Tỷ kheo, khi xuất hiện ở đời là xuất hiện một cách
vi diệu. Người ấy là ai? Chính là Thế Tôn, bậc A la hán Chánh Đẳng Giác”. Sự
xuất hiện của Ngài được gọi là vi diệu vì sự xuất hiện đó như ánh sáng mặt trời
xua tan bóng đêm tăm tối, mang lại hạnh phúc đích thực, bình an vĩnh cửu cho
vạn loại, ban cho chúng sanh một phương thuốc mầu nhiệm điều trị tâm bệnh, nỗi
khổ trầm luân sinh tử.
Từ khi còn ở trong hoàng cung, Ngài đã thường trầm tư suy
nghĩ về những cảnh sanh, già, bệnh, chết của kiếp sống con người. Ngài ăn không
ngon, ngủ không yên khi nhìn thấy nỗi khổ đau của chúng sinh đang chìm đắm
trong dục lạc, si ái. Ngài không màng đến những thú vui xa hoa, sung sướng cho
riêng mình nơi cung son, khi nhân loại đang quờ quạng trong đêm trường vô minh
tăm tối. Ngài quyết định ra đi vì đại cuộc, vì mục đích tìm ra ánh sáng giác
ngộ, cứu độ chúng sanh. Rõ ràng địa vị cao sang đối với Ngài không quan trọng
bằng sự giác ngộ, tấm lòng từ bi và hạnh nguyện phổ độ chúng sinh. Kinh Nikàya
có ghi:“Một chúng sinh duy nhất, một con
người phi thường xuất hiện trong thế gian này, vì lợi ích cho số đông, vì hạnh
phúc cho số đông, vì lòng bi mẫn, vì sự tốt đẹp, vì lợi ích và hạnh phúc cho
chư Thiên và loài người”.
Đức Phật với sự giác ngộ của Ngài, không những mang tính minh
triết mà còn với lòng từ bi bất bạo động, mang an lạc, hạnh phúc, hòa bình, hữu
nghị nên được thế giới chấp nhận. Đó là một giá trị văn hóa tâm linh tôn giáo mang
tính vĩnh cữu.
Kinh A Hàm có tán thán sự kiện Đản sanh hi hữu, vi diệu của
Đức Phật như sau: “Sự xuất hiện của một
người, này các Tỳ kheo, là sự xuất hiện của mắt lớn, của đại quang, của đại
minh, là sự xuất hiện thù thắng của sự chứng ngộ vô ngại giải, là sự chứng đạt
các giới và các giới sai biệt, là sự chứng ngộ minh và giải thoát, là sự chứng
ngộ quả Dự Lưu, Nhất Lai, Bất Lai, A La Hán, người ấy là ai? Này các Tỳ kheo,
chính là Như Lai, bậc A La Hán.”
Đức Phật xuất hiện gọi là mắt lớn, nhìn thấu suốt bản chất sự
vật trên thế gian, là đại quang đại minh, là sự xuất hiện thù thắng của sự
chứng ngộ vô ngại giải (biện tài vô ngại). Ngài chứng đạt các giới và các giới
sai biệt, thấy rõ sáu căn, sáu trần và sáu thức là vô thường, duyên sinh, vô
ngã, huyễn mộng. Ngài đã thắp sáng trí tuệ Bát Nhã, không còn vướng nhiễm các
pháp, nên được giải thoát, đạt được các quả vị Dự Lưu, Nhất Lai, Bất Lai, A La
Hán một cách tự tại.
Đạo Phật đã hòa nhập vào nền văn hóa của dân tộc Việt Nam
suốt hai mươi thế kỷ, trở thành dòng máu của người dân Việt, đóng góp rất tích
cực trong công cuộc bảo vệ, xây dựng và phát triển quê hương đất nước. Ngày
Phật Đản là ngày đem lại niềm tin và sự kỳ vọng. Đạo Phật mang một sứ mệnh gắn
kết các dân tộc, tôn giáo, gắn kết tất cả mọi đặc thù về văn hóa, chủng tộc… Bởi giáo lý của Đạo Phật mang thông
điệp hòa bình, hữu nghị, tinh thần ban vui cứu khổ, hóa giải mọi xung đột về
các ý thức hệ. Chính vì vậy, Đạo Phật đã hòa nhập, nối nhịp cầu thông cảm, yêu
thương, mang tính đoàn kết, hòa bình trên mọi lĩnh vực quốc tế. Cho nên, ngày
Phật Đản là ngày truyền thông điệp của niềm tin và hy vọng về một thế giới
tương lai đầy ắp tình thương yêu, không có bóng dáng chiến tranh, hận thù. Giáo
pháp của Đức Phật có thể giúp thế giới sống trong hòa bình. Đức Phật chưa từng
khuyến khích con người đấu tranh, sát phạt nhau. Đức Phật cũng không tự thiết
lập cho Ngài một quyền lực gì, và Đạo Phật cũng không có giáo quyền, binh quyền
nên chưa từng có một cuộc Thánh chiến nào mang danh Đức Phật để tiến hành những
cuộc chiến đẫm máu trong lịch sử nhân loại.
Tại lễ Vesak 2009 tổ chức tại Thái Lan, Tổng Thư ký Liên Hiệp
Quốc - ông Ban Ki Moon đã nói: “Giáo pháp
của Đức Phật có thể giúp thế giới trở nên hòa bình. Tất cả chúng ta có thể học
hỏi tinh thần từ bi của Đức Phật. Những lời dạy bất hủ của Ngài có thể giúp
chúng ta giải quyết nhiều vấn nạn toàn cầu mà ngày nay nhân loại đang đối đầu.”
Trong bối cảnh thế giới đang có nhiều biến động sâu sắc như
hiện nay, hơn lúc nào hết, nỗi mong mỏi về một thế giới vắng bóng hận thù, dịch
bệnh, thương đau là một nhu cầu bức thiết của số đông, một khát vọng cháy bỏng
của biết bao con người trên thế giới đang chung vai góp phần xây dựng một xã hội
an bình, tự do, hạnh phúc.
Nhất là hiện nay, trên thế giới đang đứng trước nguy cơ rất
nan giải về các vấn đề môi trường. Khi mặt đất, nguồn nước, không khí bị ô
nhiễm, hiện tượng El Nino, hiệu ứng nhà kính, tầng Ozone bị thủng…, rất nhiều
vấn nạn cho con người, gây ra do vô minh tăm tối, tàn phá thiên nhiên. Với giáo
lý minh triết của Đạo Phật có thể đáp ứng, giải quyết mọi vấn nạn đó, nhất là
vấn đề môi sinh.
Khi còn tại thế, Đức Phật từng dạy các vị tỳ kheo: “Này các Tỳ kheo, khi các ngươi đến dưới một
gốc cây ngồi nghỉ một buổi trưa nắng oi bức, hay là đến dưới bóng cây các ngươi
thiền tọa, sau khi rời các cây đó ra đi, các ngươi phải tưởng nhớ bóng cây đã
che mát cho mình”, và“Này các Tỳ
Kheo, các ngươi không được đi dẫm đạp trên cỏ non”. Những lời dạy của Đức
Phật không những từ bi đối với các loài động vật như: con người, trâu bò, heo,
chó, gà, vịt..., mà cho đến các loại thảo mộc, Đức Phật cũng khuyên nên hạn chế
tối đa vấn đề chặt phá, dẫm đạp lên mầm sống của các loài thực vật. Đạo Phật là
đạo hiếu sinh, yêu chuộng hòa bình, bảo vệ sự sống.
Chúng ta sống không thể thiếu môi trường thiên nhiên, vì cây
xanh là lá phổi hô hấp, tạo khí oxy và hút khí cacbonic, ngăn ngừa lũ lụt. Nhà
nước đang khuyến khích toàn dân bảo vệ rừng, nghiêm cấm chặt phá cây rừng, thực
hiện các phong trào trồng cây gây rừng, tạo môi trường thiên nhiên, mang lại
màu xanh cho trái đất. Ngoài ra nên tích cực giảm thiểu các khí thải độc hại
nơi các nhà máy, xí nghiệp đã làm ô nhiễm không khí và nguồn nước. Thế giới
đang lên tiếng kêu gọi ủng hộ “Giờ trái
đất” nhằm kêu gọi hạn chế sự ảnh hưởng độc hại đến cuộc sống con người.
Nói trên phương diện đạo lý, môi trường bên ngoài ô nhiễm là
do con người nhiễm bụi trần tham-sân-si quá nặng, lòng ham muốn đạt lợi cho
mình mà không nghĩ đến hậu quả khôn lường cho mọi người xung quanh. Từ cái chấp
ngã, chấp pháp, vô minh tăm tối, si mê ám chướng bên trong mà thể hiện ra bên
ngoài thế giới cũng bị ô nhiễm.
Bởi vậy, Đức Phật dạy: “Tâm
tịnh quốc độ tịnh”. Nếu con người ai cũng biết tu tập, thì họ phát triển
khoa học, công nghệ nhưng không mang tính chất phá hoại. Nếu áp dụng tinh thần
từ bi hỷ xả, vô ngã vị tha của Đạo Phật thì các nhà khoa học sẽ không chế ra vũ
khí hạt nhân giết người hàng loạt. Cho nên, muốn có một thế giới thật sự phát
triển và hạnh phúc thì khoa học phải song hành với đạo học. Nói cách khác, khoa
học phải có đạo học thì khoa học đó mới có thể đem lại lợi ích cho con người.
Nếu khoa học không có đạo học, có nghĩa là con người không có đạo đức, thế giới
trở nên nguy biến, nhất là khi con người đang có khuynh hướng hưởng thụ, hướng
ngoại, đam mê vật chất. Ngày xưa, cha ông ta xem trọng đạo lý, tình nghĩa trong
cuộc sống hơn là tiện nghi vật chất. Nhưng thời hiện đại, xã hội loài người đào
tạo con người phần nhiều là trọng tri thức và hướng ngoại, nghĩa là xem trọng
trí dục mà xem nhẹ đức dục. Đây là nguyên nhân của mọi thác loạn của cuộc sống
đương đại.
Mỗi mùa Khánh Đản về là dịp cho chúng ta ôn lại nét đẹp siêu
nhiên về sự xuất hiện vi diệu của Đức Phật và nhân cách vĩ đại của Ngài, đồng
thời cũng để nhắc nhở nhau tu hành theo ánh sáng chân lý mà Đức Phật đã tìm ra
và truyền lại. Chúng ta là người học Phật, phải biết quay về với đời sống tâm
linh đạo đức, lấy giáo lý của Đức Phật soi sáng mọi hành động, lời nói và ý
nghĩ của mình, nhằm chuyển hóa bản thân, xây dựng gia đình và xã hội được bình
an, phúc lạc. Chúng ta được phước duyên cận kề ngôi Tam Bảo, học hiểu đạo lý tu
hành, có trí tuệ và đạo đức thì sẽ cảm thấy một sự an lạc, một năng lực sống vững
chãi thảnh thơi trên bước đường tu tập, dù cho dòng đời có biến động nhiễu
nhương theo định luật vô thường tan hợp. Mỗi giây, mỗi phút chúng ta nghĩ điều
thiện, miệng nói điều lành, thân làm việc tốt, lợi đạo ích đời, sống hiền lương
đạo đức, đó chính là chúng ta đang tích lũy công đức lành để đời sau sanh ra
với y báo chánh báo trang nghiêm hơn. Công năng tu hành đó mới chính là phẩm
vật dâng lên cúng dường Đức Từ Phụ nhân ngày Đản sanh của Ngài.
Thiền Viện Trúc Lâm Viên Ngộ
Mùa Phật Đản - PL. 2555