Nguồn gốc Lễ Vu lan tại Trung Quốc
Phần này chúng tôi không đi sâu vào chi tiết về từ
nguyên, lịch sử hoặc cách thức thực hành nghi lễ. Chỉ điểm qua một số
nét chính để có cơ sở so sánh với lễ Vu lan tại Nepal.
Tượng Phật được trưng bày cho Phật tử chiêm bái và cúng dường nhân mùa Güla
Có lẽ bị ảnh hưởng từ Phật giáo Trung hoa, Phật giáo
của Việt Nam, Nhật Bản và Triều Tiên cũng tổ chức lễ Vu lan gần giống
như của Trung Hoa. Nói chung, tất cả các nước trên đều tổ chức lễ Vu lan
dựa theo bài kinh Phật thuyết kinh Vu lan do ngài Trúc Pháp Hộ
dịch vào thời Tây Tấn (265-316). Kinh này nói về sự tích Phật dạy ngài
Mục Kiền Liên cứu mẹ khi mẹ bị đọa ở địa ngục. Và tất cả đều thống nhất ở
một điểm theo truyền thống Phật giáo: ngày rằm tháng Bảy (theo âm lịch
Trung Hoa) là ngày chư Phật hoan hỷ, oai lực chư Tăng được tăng trưởng
sau ba tháng an cư, và là ngày tự tứ, do đó chư Tăng hội họp đầy đủ.
"…Rằm tháng Bảy là ngày tự tứ
Mười phương Tăng đều dự lễ này
Phải toan sắm sửa chớ chầy
Thức ăn trăm món, trái cây năm màu…".(Phật thuyết Kinh Vu lan)
Thật ra, tập tục cúng bái tổ tiên và tẩy trừ ma quỷ
vào dịp rằm tháng Bảy tại Trung Quốc đã xuất hiện từ rất lâu đời (ít
nhất là từ đời Hán). Còn Tết Trung nguyên của Đạo giáo thì cũng có trước
thế kỷ thứ VII. Khi Phật giáo truyền đến Trung Quốc, có lẽ trùng hợp về
thời điểm và quan niệm báo hiếu nên người Trung Quốc đã hấp thụ lễ Vu
lan của Phật giáo và biến lễ Vu lan tại Trung Quốc trở thành một lễ dân
gian mang tính tổng hòa của: Tập tục thờ cúng tổ tiên + Tết Trung nguyên
của Đạo giáo + Lễ báo hiếu của Phật giáo.
Chư Ni tụng kinh trên đỉnh đồi Swayambhu vào mùa Güla
Nội dung mang màu sắc Phật giáo có thể thấy qua việc
thiết lễ cúng dường chư Tăng và cầu nguyện cho người đã khuất. Còn những
tập tục như cúng cô hồn, đốt vàng mã là những tập tục còn sót lại của
tín ngưỡng dân gian Trung Quốc. Sau này Mật tông Trung Quốc còn soạn
thêm lễ cúng thí ngạ quỷ. Từ đó có thể thấy lễ Vu lan ở Trung Quốc và
các nước ảnh hưởng bởi Phật giáo Trung Quốc không còn thuần khiết và bị
pha trộn bởi những yếu tố văn hóa địa phương.
Việc tìm hiểu nguồn gốc lễ Vu lan tốt nhất nên khảo
sát tại quê hương bản quán của nó, tức địa bàn Bắc Ấn. Tuy nhiên, Phật
giáo tại vùng Bắc Ấn đã tàn lụi hơn 1.000 năm trước, những lễ tiết Phật
giáo cũng đã nhạt nhòa theo thời gian.
May mắn thay cho chúng tôi, một địa điểm tại Nepal vẫn còn bảo lưu được lễ Vu lan nguyên thủy: Thung lũng Kathmandu.
Phật tử đi kinh hành cầu nguyện vòng quanh bảo tháp Swayambhu
Güla - tháng lễ trọng của cộng đồng Newari
Güla là một lễ hội đặc biệt của Nepal và chỉ duy nhất
có ở Thung lũng Kathmandu (Kathmandu Valley), đây chính là nước Nepal
cổ đại với tên gọi Nepal-Mandala vào thời Asoka Đại đế.
Xin nói qua một chút về lịch sử của Kathmandu Valley.
Về địa lý, Kathmandu Valley nằm cách Kapilavastu của
Vương quốc Sakya 400km. Thung lũng này nằm trên độ cao hơn 2.000m trên
mực nước biển và được bao bọc bởi những ngọn núi cao. Đặc điểm này đã
làm nên cái tên cổ đại nổi tiếng của thung lũng vì những ngọn núi bao
bọc xung quanh giống như những cánh hoa sen trong một đồ hình mandala.
Theo huyền sử, Kathmandu chính là một cái hồ lớn vào thời tiền sử (các
khảo cứu địa chất mới nhất tại đây đã chứng minh điều này). Những sườn
núi xung quanh hồ lớn ấy là nơi cư trú của sắc dân Naga - nhóm chủng tộc
Mongoloid của Hymalaya mà địa bàn cư trú kéo dài đến tận Trường Sơn của
Việt Nam. Cũng theo huyền sử, ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ tát đã tìm đến đây
để chiêm bái Swayambhu (Ánh sáng tự sinh từ một hoa sen do Đức Phật
Bipaswi gieo trồng). Ngài Văn Thù đã dùng báu kiếm của mình rạch một lối
thoát nước và biến cái hồ ấy trở thành Thung lũng Kathmandu, còn hòn
đảo giữa hồ trở thành ngọn đồi Swayambhu ngày nay. Sắc dân Naga sống gần
đấy đã quy tụ lại dưới sự lãnh đạo của một đệ tử của ngài Văn Thù, sau
này được ghi nhận trong sách sử cổ đại của Ấn Độ là Kirat hay Kiran. Bộ
tộc Kiran đã từng tham chiến và giúp đỡ có hiệu quả trong cuộc chiến
tranh của liên minh các vương quốc Ấn Độ chống đạo quân viễn chinh của
Alexander. Sau này, trong công cuộc thống nhất Ấn Độ của Chandragupta
(ông nội của Asoka Đại đế), họ trở thành một đồng minh tin cậy của ông
trong việc kiến tạo Đế quốc Maurya. Chính Asoka, sau khi hành hương
chiêm bái tất cả các thánh tích Phật giáo của Ấn Độ, đã đi đến
Nepal-Mandala vào năm 250 TCN. Ở bốn góc của thành phố cổ Patan (trung
tâm quyền lực của Nepal cổ đại) còn tồn tại bốn bảo tháp lớn, được
truyền tụng rằng, chúng đã được dựng nên bởi chính vua Asoka khi ông đến
thăm Nepal-Mandala. Một huyền sử nữa là vua Asoka đã gã con gái của ông
là công chúa Charumati cho một hoàng thân trong triều đình Kiran.
Đội nhạc cổ truyền dẫn đầu mỗi nhóm đi cầu nguyện
Đội nhạc cổ truyền thế hệ trẻ vào mùa Güla
Về truyền thống Phật giáo, có lẽ Phật giáo đã du nhập
vào Nepal-Mandala từ thời Đức Phật. Huyền sử cũng nói rằng, chính Đức
Phật Thích Ca đã viếng thăm một vương tử Sakya tại Nepal-Mandala trước
khi Ngài nhập Niết bàn, và sau này ngài A Nan cũng nhiều lần đến
Nepal-Mandala thăm viếng và truyền đạo cho các quý tộc Sakya lưu lạc đến
đây sau khi vương quốc Sakya ở Kapilavastu bị tận diệt. Nagarjuna (Long
Thọ), Buddhaghosa (Phật Âm), Atisa đều đã đến thăm viếng Thung lũng
Kathmandu và Swayambhu. Vì thế Phật giáo tại Kathmandu Valley có một
truyền thống sâu xa và vững chắc, kéo dài không ngưng nghỉ suốt từ thời
Đức Phật còn tại thế cho đến nay. Đến cuối thế kỷ XIX, những nhà khoa
học Anh đã ghi nhận rằng, có đến 80% dân số của Kathmandu Valley theo
đạo Phật. Chỉ từ sau khi có luật chống lại Phật giáo vào thời Rana những
năm 1910-1930 và những hành động quá khích của chính quyền để thiết lập
một vương quốc thuần Hindu, số lượng người theo đạo Phật mới bị giảm
sút nghiêm trọng, chỉ còn trên dưới 20% vào thời điểm hiện nay. Mặc dù
vậy, hầu hết những gia đình đã cải đạo sang Hindu đều giữ những tập tục
Phật giáo của mình. Và điều quan trọng hơn, cộng đồng "thuần túy Phật
giáo" Sakya vẫn giữ nguồn mạch Phật giáo chảy mãi tại Kathmandu Valley.
Phật tử đọc kinh tại Golden Temple
Phật tử tựu tập tại "Golden Temple - Patan để đọc kinh Phật cùng Chư Tăng-Ni
Đối với Phật tử của Kathmandu Valley, sự kiện quan trọng nhất trong năm là tổ chức một tháng lễ trọng Güla.
Güla là tên của tháng thứ 10 trong lịch Newari (Nepal
Era Calendar) - một nguyệt lịch được sử dụng từ năm 880 tại Kathmandu
Valley. Güla là một từ Newari cổ (Newari là ngôn ngữ của cư dân bản địa ở
Thung lũng Kathmandu, có nguồn gốc từ ngôn ngữ Bhrami, được sử dụng
rộng rãi vào thời vua Asoka). Güla cấu thành từ "gun" có nghĩa là điềm
lành và từ "la" là một khoảng thời gian (trong trường hợp này là một
tháng). Chính vì vậy, Güla có nghĩa "tháng tốt lành". Theo lịch Ấn Độ,
Güla bắt đầu từ ngày thứ nhất của tuần trăng Srawan và chấm dứt vào ngày
đầu tiên của tháng Bhada (tháng Tám-Chín). Theo dương lịch, tháng Güla
thường rơi vào khoảng giữa tháng Tám đến giữa tháng Chín, và hoàn toàn
trùng khớp với tháng Bảy âm lịch của Việt Nam và Trung Quốc.
Vào tháng Güla, sau khi lúa đã cấy xong, Phật tử
Newari bước vào tháng lễ quan trọng nhất trong năm của họ. Dễ quan sát
hơn cả là việc họ chiêm bái ngọn đồi Swayambhu - Thánh địa Phật giáo
quan trọng nhất của thung lũng Kathmandu.
Suốt cả tháng Güla, Phật tử Newari cầu nguyện, chay
tịnh, thiền quán và biểu diễn âm nhạc tôn giáo. Trong tháng Güla, họ
không ăn thịt gà và trứng. Từ rất sớm (4-5 giờ sáng) họ đi bộ (đa số đi
chân trần) thành từng nhóm đến Swayambhu cùng với những ban nhạc cổ
truyền dẫn đầu mỗi nhóm để thực hiện những buổi lễ đặc biệt, bất kể thời
tiết thế nào. Nhạc cụ chính của tất cả các ban nhạc là Dhah (trống 3
tấc, một nhạc cụ cổ truyền tồn tại hơn 2.000 năm nay ở Thung lũng
Kathmandu, các nhà khảo cổ đã tìm thấy chứng tích của nó từ thời Kiran -
Asoka Đại đế). Những chàng trai, cô gái người Newari đeo những cái
trống cổ truyển này trên cổ và vỗ bằng tay trái còn tay phải gõ bằng một
cái dùi đặc biệt, đầu cuốn tròn như dấu "?". Nhóm nhạc công tài tử này
còn có những người thổi kèn và chơi những cái chập chõa nhỏ như chén ăn
cơm.
Phật tử Tây Phương cũng về Swayambhu cầu nguyện nhân mùa Güla
Vào tháng Güla, Swayambhu đông nghịt người chiêm bái,
đủ mọi lứa tuổi, mọi thành phần. Không chỉ Phật tử mà cả người theo đạo
Hindu (hoặc Phật giáo cải sang Hindu) cũng đi đến Swayambhu để tỏ lòng
kính ngưỡng Đức Phật. Họ leo lên 365 bậc đá của ngọn đồi, vượt qua những
khu rừng thưa, những tượng đá của các linh vật, những pho tượng Phật cổ
bằng đá to ngoại cỡ, và những con khỉ ngồi dọc theo đường đi để chờ
thức ăn… để lên tới đỉnh đồi. Người người chen chúc nhau trong không
gian chật hẹp và càng chật hẹp hơn bởi đèn dầu, cờ phướn, tượng Phật và
tranh cuộn Thangka trang hoàng các tự viện và bàn thờ, bởi mùi nhang
trầm hòa quyện cùng tiếng chuông và tiếng quay của những bánh xe cầu
nguyện đặt vòng quanh bảo tháp. Đây đó, những nhóm Tăng Ni ngồi tụng
thật lớn những bộ kinh Phật cho mọi người cùng nghe, trong khi những
nhóm nhạc tài tử thì tụ tập bên cạnh những tháp đá và chơi những bản
nhạc cổ truyền hoặc hát lời ngợi ca chư Phật. Theo truyền tụng, việc
chiêm bái trong tháng Güla này đã được thực hiện ở Thung lũng Kathmandu
từ nhiều thế kỷ, có lẽ từ 2.500 năm trước. Nghi thức này lặp lại mỗi
ngày trong suốt tháng Güla. Những ngày về sau của tháng lễ, số lượng các
nhóm nhạc và người cầu nguyện càng đông khi những người ở xa xôi hơn
cũng tề tựu về.
Vajracharya (Giai cấp tư tế Phật giáo của cộng đồng Newar)
đọc kinh Phật nhân mùa Güla
Tại Patan (thành phố cổ nhất của Thung lũng
Kathmandu, nơi được mệnh danh là thành phố Phật giáo), trong khi mưa
thỏa cơn khát của đất đai và vạn vật, Phật tử nhắc nhở nhau nhớ lại
những lời Phật dạy. Phật tử Newari ở đây thực hiện một tháng lễ quan
trọng bằng cách tỏ lòng tôn kính Đức Phật, nhắc nhở nhau cố gắng thực
hiện ngũ giới trong cuộc sống hàng ngày, tối thiểu là một tháng.
Những nữ Phật tử tắm gội sạch sẽ và chỉ ăn một bữa
mỗi ngày trong suốt tháng Güla. Mỗi ngày, trước khi nấu nướng thức ăn
trong ngày, những người phụ nữ nắn những cái tháp nhỏ bằng đất sét
(Caitya) và cầu nguyện trước chúng với lòng tin rằng, hành động đó sẽ
tích lũy công đức cho chính họ và gia đình. Những cái tháp nhỏ đó được
cầu nguyện và giữ cẩn thận cho đến ngày cuối cùng của tháng Güla. Vào
ngày cuối cùng của tháng Güla, những người phụ nữ thực hiện một nghi lễ
đặc biệt: mặc những bộ trang phục đẹp nhất mà họ có cùng với nữ trang
đắt tiền, họ bưng những cái tháp nhỏ trong một cái khay bạc hoặc đồng,
theo sau những nhóm nhạc cổ truyền, đi tới một dòng sông gần nhà. Ở đây
họ thực hiện nghi lễ cuối cùng trước các caitya rồi đặt chúng xuống
nước. Kết thúc mùa Güla, số Caitya có thể lên đến hơn trăm ngàn cái.
Bảo tháp Swayambhu trong đêm Güla nhìn từ cửa sổ phòng của tác giả
Vào ngày thứ tám của tháng Güla, Phật tử ở Patan thực
hiện lễ "Pancha Dana" - lễ dâng cúng năm thứ vật thực (gạo lức, gạo
trắng, đậu, lúa mì và muối). Đó chính là lễ cúng dường cho các chư Tăng
Ni theo nghi thức cổ truyền. Huyền thoại truyền rằng đó chính là ngày
Siddhartha từ bỏ lối tu khổ hạnh để chọn con đường Trung đạo và sau đó
chứng ngộ thành Phật. Trong ngày Pancha Dana, các cửa hiệu và nhà cửa
trang hoàng với hoa và các tranh tượng Phật. Phụ nữ ngồi trước cửa nhà
với những cái bồn bằng đồng chứa đầy 5 thứ phẩm vật dâng cúng (nguồn gốc
của Vu lan bồn(?), và dâng mỗi lần đầy hai tay vào bình bát của các
Tăng Ni đi khất thực ngang qua theo phong tục được chính Đức Phật thực
hành hơn 2.500 năm trước. Các Tăng Ni ban phước lành cho mỗi thí chủ
bằng cách cầm những cuốn kinh Phật chạm vào trán của họ, cầu chúc cho họ
nhận được phước duyên và sự bảo hộ của chư Phật. Khi trời chạng vạng
tối, một nhà sư đi vòng quanh thành phố và lắc một cái chuông báo hiệu
kết thúc ngày Pancha Dana, khi đó các Tăng Ni không nhận thêm lễ vật
dâng cúng nữa. Sau đó, vào ngày thứ 28 của tháng Güla, Pancha Dana lại
được tổ chức ở hai thành phố khác của Thung lũng Kathmandu là Kathmandu
và Bhaktapur.
Kinh Phật cổ được trưng bày nhân mùa Güla
Bahi Doe Boyegu, sự trưng bày các tượng Phật trong
sân chùa, rơi vào ngày thứ 12, và có thể kéo dài vài ngày, tùy thuộc vào
quyết định của cộng đồng Sakya của tự viện đó. Trong ngày này, những
thánh tích và tượng cổ được trưng bày cho công chúng chiêm bái và cầu
nguyện. Đó là những tượng gỗ tuổi đời vài thế kỷ, có tượng đã bị mối mọt
làm hư hại. Đó là những bức tranh cuộn Thangka, và những tấm thảm treo
tường cổ, thể hiện cuộc đời Đức Phật hoặc các Thánh tăng, đó còn là
những hạt gạo ngoại cỡ được cho rằng đã được trồng ở Thung lũng
Kathmandu vào thời cổ đại. Mỗi ngày có đến hàng trăm người đến chiêm bái
ở mỗi tự viện. Tại một ngôi chùa ở Thamel, những cuốn kinh cổ hơn ngàn
năm tuổi, viết bằng mực hoàng kim, được trưng bày một lần duy nhất trong
năm cũng vào dịp này.
Vào ngày rằm, Phật tử tề tựu tại các bảo tháp Asoka ở Patan để cầu nguyện.
Vào ngày thứ 17, diễn ra lễ Mata-Ya, lễ Đèn. Vào ngày
ấy, mọi người bưng những cây đèn dầu đi không mệt mỏi vòng quanh khắp
các đường lớn, hẻm nhỏ của Patan, để cầu nguyện cho những người thân đã
chết. Họ đi chân trần, mặc những bộ đồ đẹp nhất và tụng đọc những bài
ngợi ca chư Phật. Đi đầu luôn luôn là những nhóm nhạc cổ truyền.
Bắt đầu từ tờ mờ sáng, những đoàn người kéo đi xuyên
qua mê cung của các con đường nhỏ hẹp và hẻm hóc của thành phố cổ Patan,
rắc gạo, tiền xu và bột đỏ lên tất cả các khám thờ tượng, tháp, chùa,
đền dọc theo đường đi. Họ đi càng nhanh khi trời đã đến giữa trưa, và
quan niệm rằng càng khổ nhọc bao nhiêu thì người thân đã khuất của họ sẽ
bớt đau khổ bấy nhiều. Họ rắc những đồng xu trên đường đi trong khi gọi
tên người thân đã khuất, trong khi những người khác hát vang những bài
ca ngợi ca sự chiến thắng của Đức Phật trước ma vương. Đến quá trưa thì
hầu hết mọi người gần như kiệt sức, bột đỏ chảy dài trên thân thể thành
những dòng mồ hôi đỏ, bám đầy cả trên tóc, trên quần áo. Nhưng họ vẫn
không dừng lại. Một số thanh niên và đàn ông của những gia đình có người
thân chết trong vòng một năm qua cởi trần và quỳ lạy trong đất bụi
trước mỗi khám thờ dọc đường. Jyapu, cộng đồng nông dân bản địa của
Thung lũng Kathmandu, tin chắc rằng lễ Đèn là để tưởng niệm người thân
đã khuất của họ.
Chúng tôi nghĩ rằng Güla chính là từ nguyên của Vu
lan khi phiên âm sang tiếng Trung Quốc. Cũng như Vu lan bồn là để chỉ
cái chậu chứa năm thứ vật thực cúng dường chư Tăng trong ngày Pancha
Dana.
Một điều thú vị là từ Kathmandu Valley cho đến Trung
Hoa, Việt Nam, Nhật Bản, Triều Tiên thì ở đâu tinh thần kính ngưỡng chư
Phật, chư Tăng và báo hiếu cũng là trọng tâm của lễ Vu lan.
Nguyễn Phú (Nguyệt San Giác Ngộ số 173)
(Bài viết này có tham khảo tư liệu từ tác giả Đồng Thành, Mary Slusser và văn bản cổ của cộng đồng Newari)