Trong
tâm thức mỗi người dân Việt Nam lễ Vu Lan (nhằm ngày 15/7 âm lịch) từ
lâu đã thành một ngày trọng đại, không thể thiếu được trong hệ thống
các hoạt động văn hóa tâm linh nói chung, văn hoá Phật giáo nói riêng.
Chính vì vậy, trong bài viết này người viết xin được lần lượt đi vào
giải quyết hai vấn đề đó là: Nguồn gốc và ý nghĩa giáo dục của lễ Vu
Lan.
Ngày lễ Vu Lan là dịp nhắc nhở các thế hệ con cháu chúng ta nhớ tới
công ơn dưỡng dục sinh thành của cha mẹ, ông bà, tổ tiên cũng như những
đóng góp to lớn của các anh hùng dân tộc, những người có công với đất
nước. Ðồng thời giúp chúng ta tiếp cận được những ý nghĩa giáo dục đầy
nhân bản của văn hoá Phật giáo đó là “Từ, bi, hỷ, xả”, “vô ngã, vị
tha”, “uống nước nhớ nguồn”, “ăn quả nhớ người trồng cây”...
Báo hiếu là sự biểu hiện phẩm hạnh dạo đức của mỗi con người chúng
ta. Trong xã hội, luôn luôn tồn tại hai hoạt động mang ý nghĩa dường
như trái ngược nhau song lại gắn bó chặt chẽ với nhau đó là làm ơn và
trả ơn. Người xưa đã đạy: “Có hai điều dứt khoát phải làm, một là phải
quên đi khi mình giúp đỡ người khác, hai là phải ghi nhớ, phải trả ơn
khi người khác giúp mình”. Hành động làm ơn và trả ơn là không thể
thiếu được trong bất cứ xã hội nào bởi trong cuộc sống con người đâu có
tồn tại một cách độc lập, mà họ luôn tồn tại trong mối tương quan,
trong sự gắn kết giữa các cá nhân với các chủ thể khác. Các Mác từng
nói: “Con người là tổng hoà các mối quan hệ xã hội”, do đó, con người
nếu đã hiếu nghĩa với cha mẹ, họ hàng thì không thể không yêu quý quốc
gia; thầy cô, bè bạn; và mở rộng ra là với toàn thể chúng sinh, đồng
bào.
Sự hiếu nghĩa của con cái đối với cha mẹ không chỉ được thể hiện
trong sự cung phụng về vật chất mà còn trong lĩnh vực tinh thần. Cha mẹ
cần tình cảm và sự chăm sóc của con cái: “Trẻ cậy cha, già cậy con”.
Vì thế, bên cạnh việc lo chu đáo “miếng cơm, manh áo” cho cha mẹ,
chúng ta cần phải “sớm viếng, tối thăm”, trò chuyện, vấn an cha mẹ để
cha mẹ thật sự vui vẻ an hưởng tuổi già. Nhất là khi cha mẹ đau yếu,
phải “rước thầy, đổi thuốc: hết lòng chăm sóc từ miếng ăn, nước uống,
trên sắc mặt lúc nào cũng vui tươi, cầu cho bệnh chóng khỏi. Bổn phận
làm con, làm được như thế, gọi là báo hiếu trong muôn một”.
Cùng một quan điểm như vậy, từ hơn 2500 năm truớc Ðức Khổng Tử cũng
đã từng dạy: “Ðời nay thấy ai nuôi dưỡng được cha mẹ thì khen là có
hiếu. Nhưng chó, ngựa cũng được nuôi dưỡng. Vì thế nếu nuôi cha mẹ mà
không kính trọng thì khác gì nuôi thú vật”. Hoặc như kinh Lễ cũng có
đoạn viết: “Khi cha mẹ còn sống mà chỉ chăm chú vào việc làm giàu,
không phụng dưỡng cha mẹ là không tròn đạo hiếư”. Ðức Khổng Tử còn dạy
tiếp: “Có việc thì mình giúp, có rượu, thức ăn ngon mời cha mẹ là hiếu
chăng? Giữ được sắc mặt vui vẻ khi ở chung với cha mẹ mới thật khó”.
Tuy nhiên, cũng đừng vì đặt quá chữ hiếu lên đầu mà chúng ta làm
những điều “bất nhân, thất đức” hay hùa theo cha mẹ làm những điều ác,
điều xấu để làm hại người khác. Bên cạnh đó, cũng phải sáng suốt để vừa
hiếu thuận với cha mẹ lại vừa “lợi lạc, quần sinh”, vừa kế thừa và
phát huy được những đức tính tốt của cha mẹ lại vừa biết khuyên can cha
mẹ rời xa những điều không tốt, ấy mới là “chân hiếu”, là “trí hiếu”,
là hiếu đễ thực sự như mọi người hằng ngưỡng mộ...
Tiếc thay, trong xã hội chúng ta hiện nay do những ảnh hưởng tiêu cực
của nền kinh tế thị trường ít nhiều đã xuất hiện lối sống thực dụng,
chạy theo lợi ích vật chất tầm thường mà quên đi những giá trị truyền
thống của bản sắc văn hoá dân tộc, quên đi những nghĩa vụ thiêng liêng
của con cái đối với cha mẹ. Phải thừa nhận rằng, thực tế vẫn còn có
không ít những quan niệm về đạo hiếu thật đơn giản và lệch lạc. Do đó,
khi vận dụng vào cuộc sống đã không mang đầy đủ ý nghĩa đích thực của
nó, biến đạo hiếu trở thành một thứ hình thức, câu nệ tầm thường, dẫn
đến việc thực hành đạo hiếu chỉ còn là trách nhiệm, là nghĩa vụ mà
không xuất phát lừ đáy lòng, từ trong tâm. Hoặc nếu không gượng ép thì
cũng là thỉnh thoảng, không thường xuyên, mà nhiều khi còn mang tính
thời điểm, cơ hội, sử dụng cha mẹ như những “công cụ” để mang lại lợi
ích cho bản thân.
Thật xót xa khi xã hội còn có những đứa con bất hiếu, những “nghịch
tử” đang hàng ngày, hàng giờ ruồng rẫy cha mẹ, coi cha mẹ như gánh nặng
bên mình. Ấy vậy mà khi cha mẹ chết đi thì lại tổ chức ma chay linh
đình những để người ngoài trông vào mà nghĩ đó là những đứa con “hiếu
để”. Những “tấm gương” tày liếp đó, thiết nghĩ báo chí đã tốn không
biết bao nhiêu giấy mực để lên án. Nhưng, dù có viết bao nhiêu đi chăng
nữa cũng vẫn là chưa đủ nếu như chúng ta chưa hình thành đủ các chuẩn
mực đạo đức cần thiết để có thể điều chỉnh được những hành vi “phi nhân
tính” đó. Hay như bản thân mỗi con người không tự tu dưỡng, rèn luyện
nhân cách, đạo đức để có thể có một cuộc sống lành mạnh, có ích, dời xa
những cám dỗ của dục vọng...
Ðức Phật cũng chính là một tấm gương sáng về đạo hiếu. “Ðạo hiếu này
tức như Ðức Thích Ca để phụ vương ở lại mà trốn vào rừng đi tu. Nhưng
Ngài cố tu học cho đến thành Phật. Ðến nay người ta sùng bái Ngài mà
sùng bái đến cả Tịnh Phạn vương. Ngôi vua nào tôn vinh, tràng viễn
bằng”. Hay như khi Tịnh Phạn đại vương lâm chung. Ngài đã đứng ra lo
liệu mọi việc, quỳ lạy trước vong linh cha rồi cung kính nghinh tiễn
kim quan cha về nơi “an nghỉ cuối cùng” cho trọn đạo làm con. Như vậy,
đã là tạo hiếu thì các đấng toàn năng, các bậc thánh hiền, hay người
phàm trần cũng đều như nhau. Và dù có là Ðấng Giác Ngộ cao minh với
quyền pháp vô biên hay một người dân bình thường nhất, thì với cha mẹ
con cái bao giờ cũng vẫn là con cái, vì vậy, lo lắng hậu sự cho cha mẹ
phải chăng là điều không cần phải bàn cãi gì thêm nhiều nữa.
Từ sự phân tích trên chúng ta cũng đã phần nào thấy được những ý
nghĩa giáo dục cao cả của văn hoá Phật giáo trong tiến trình hình thành
và phát triển bản sắc văn hoá dân tộc Việt Nam. Nhân mùa báo hiếu
chúng ta cũng nhận thức lại những ý nghĩa đúng đắn của ngày lễ Vu Lan
để có những hành động thiết thực hơn, tích cực hơn cho gia đình và cho
xã hội để góp phần xây dựng một xã hội tốt lành, thực hiện “tốt đời,
đẹp đạo”.
Thanh Trần