Hằng năm mỗi độ thu về với những chiếc lá vàng nhẹ rơi, với cơn
gió heo may bồi hồi se lạnh, hay những cơn mưa ngâu ầm thầm chợt đến… báo hiệu
một mùa Vu Lan về, lòng người cũng chợt dạ thoáng buồn khi nghĩ về công ơn sanh
thành dưỡng dục của mẹ, cha. Vu Lan bao giờ cũng mang thông điệp về Rằm tháng Bảy:
“Tháng Bảy ngày Rằm, xá tội vong nhân.”
Tháng bảy mùa thu, mùa được xem là đượm buồn và sâu lắng nhất trong năm, mùa gợi
nguồn cảm hứng trùng trùng cho những thi nhân nghệ sĩ, cho những dòng thơ, những
áng văn chương bất hủ ra đời, hay những dòng cảm xúc của những chuyện tình buồn
từ ngàn thu lưu lại:[1]
“Tháng bảy, mưa ngâu, nhịp cầu
ô thước bắc qua giải Ngân-hà; hai tâm hồn lẻ loi cô độc, hằng đêm tư lự trong nỗi
sầu ly biệt thiên thu giữa bầu trời cao rộng, chọn mùa mưa sụt sùi để gặp nhau,
chỉ trong một thoáng chốc, rồi đời cũng như con nước trôi xuôi… Đây đó, giữa những
cụm rừng khuya u tịch, vẫn còn có những oan hồn cô độc, lần mò tìm lại nẻo sống
của một thời xa xưa. Kẻ chết và người sống, khéo hẹn nhau để chu tất những món
nợ ân tình đã từng chôn sâu dưới lòng đất…” Hơn thế nữa, tháng bảy Vu lan còn là mùa hiếu tâm hiếu hạnh, mùa
dành riêng tôn vinh mẹ, mùa mà những đoá hoa hồng nở ngay trên ngực áo, cạnh
con tim của những người con hiếu thảo, và còn là mùa để siêu độ vong linh, hay
những vong hồn phiêu bạt.
Lễ Vu lan xuất phát từ
tấm lòng đại hiếu của tôn giả Mục Kiền Liên, qua một bản kinh rất nổi tiếng
trong Phật giáo: Phật Thuyết Kinh Vu Lan
Bồn. Bản kinh này do ngài Dharmariksa (Trúc-pháp-hộ: 竺 法 護) dịch từ tiếng Phạn sang tiếng Hán, vào thời Tây Tấn (265-317).
Ngày nay bản kinh này được dịch ra nhiều thứ tiếng và lưu truyền khắp nơi trên
thế giới.
Bản kinh này cho biết rằng:
Sau khi xuất gia nỗ lực tu tập, tôn giả Mục Kiền Liên đã chứng đắc lục thần
thông[2]. Với tấm
lòng hiếu hạnh cao cả, ngài nghĩ về thân mẫu của mình, bèn dùng Huệ nhãn để tìm
xem thân mẫu mình thác sanh về chốn nào. Nhưng than ôi, bà Thanh Đề (mẹ ngài)
lúc sanh tiền tạo quá nhiều ác nghiệp, khi chết đọa trong loài ngạ quỉ khổ đau,
đói khác vô cùng… lại bị đọa vào trong địa ngục Vô gián, chịu muôn ngàn khổ cực.
Thấy cảnh mẹ mình như vậy, với hai hàng lệ rơi, tôn giả liền dâng bát cơm lên mẹ
dùng, nhưng tội nghiệp bà quá nặng, bát cơm liền hoá thành than lửa, không thể
nào dùng được: “Cơm chưa đưa đến miệng đà
– Hóa thành than lửa nuốt mà đặng đâu.” Với năng lực thần thông siêu việt của
mình, tôn giả cũng không sao cứu được tội nghiệp sâu nặng của mẹ. Ngài liền trở
về lại Dương thế, cầu xin đức Phật chỉ dạy phương pháp cứu mẹ. Đức Phật dạy: “Đến Rằm tháng bảy mỗi năm – Sau khi kiết hạ
chư tăng tựu về…” Vào ngày Rằm tháng bảy, sau ba tháng tu tập, thúc liễm
thân tâm An cư Kiết hạ, chư tăng đều tựu về để dự lễ Tự tứ[3]. Nhân dịp
này ông nên sắm sửa trai duyên dâng cúng mười phương chư Phật, cùng hiện tiền Thánh
chúng, đặng nhờ sức chú nguyện của quí ngài thì mẹ ông sẽ được cứu thoát… Vâng
theo lời dạy của Phật, tôn giả Mục Kiền Liên đã thiết lễ trai duyên… làm đúng
như lời Phật dạy, và mẹ ngài cũng như vô số ngạ quỷ, cô hồn được nhờ oai lực
chú nguyện của đức Phật và chư Thánh tăng, lìa các cảnh khổ sanh về cõi trời
Đao lợi[4] hưởng
phước báu an vui, cao đẹp. Và lễ hội Vu Lan được hàng con Phật noi theo hiếu
tâm, hiếu hạnh của tôn giả Mục Kiền Liên thực hiện vào dịp Rằm tháng bảy, từ
khi ấy đến tận bây giờ. Ngày nay mỗi độ Rằm tháng bảy về, lễ Vu Lan được tổ chức
khắp mọi nơi trên thế giới, nhất là các nước Trung Quốc, Đài Loan, Nhật Bản,
Hàn Quốc, Việt Nam…
Sau lễ Vu Lan, tại các
chùa, bao giờ cũng có lễ siêu độ cô hồn, còn gọi là lễ Thí thực, lễ cúng chẩn,
lễ cúng cô hồn, lễ kỳ siêu bạt độ cô hồn… nếu tổ chức lớn có thiết đàn tràng,
có ban kinh sư, ngài sám chủ, ngài gia trì… thì gọi là lễ Trai đàn Chẩn tế kì
siêu bạt độ chư âm linh cô hồn…. Nguồn gốc của lễ siêu độ cô hồn cũng có từ thời
đức Phật, nghĩa là bắt nguồn từ Ấn Độ. Điều ấy được thể hiện rõ qua các kinh: Phật thuyết cứu bạt diệm khẩu ngạ quỷ
Đà-la-ni kinh[5], Thí
ngạ quỷ ẩm thực thuỷ pháp[6],
Du-già tập yếu cứu Anan Đà-la-ni diệm khẩu quỷ nghi kinh[7],
và Du-già tập yếu diệm khẩu thí thực nghi[8].
Trong những bản kinh ấy,
nguồn gốc lễ cúng cô hồn có duyên khởi như sau: Vào một đêm tối trời, tôn giả
Anan đang ngồi thiền tịnh tại một nơi vắng, bổng thấy một con quỷ gọi là Diệm
khẩu, miệng đỏ rực như lửa than, hình dáng dị kì ghê gớm, xuất hiện trước mặt
và nói với tôn giả Anan rằng: Trong ba ngày nữa ngài sẽ chết, nếu muốn vượt qua
khổ nạn này thì nên đem thức ăn và nước uống nhiều như số cát sông Hằng để bố
thí cho các loài ngạ quỷ đang đói khổ… Xuất thiền, toát cả mồ hôi vì sợ, Anan tự
nghĩ rằng mình đã xuất gia, mỗi ngày khất thực chỉ một bình bát, lấy đâu ra thức
ăn và thức uống nhiều như số cát sông Hằng để bố thí cho các loài ngạ quỷ… Tôn
giả liền cầu xin đức Phật chỉ dạy phương pháp. Đức Phật đã vì tôn giả Anan và
thương các chúng sanh khổ nghiệp liền chỉ dạy nghi thức bố thí cho các loài ngạ
quỷ, trong ấy có thần chú tên là “Biến thực
biến thuỷ chơn ngôn”. Dùng một ít thức ăn và nước uống, với thân, miệng, ý
thanh tịnh trì tụng chú ấy, thì một có thể biến ra mười, mười biến ra trăm,
ngàn, vạn, ức… nhiều như số cát sông Hằng để bố thí cho các loại ngạ quỉ, cô hồn…
Tôn giả Anan đã thực hành y theo lời Phật dạy, và các loài ngạ quỷ, cô hồn được
thọ hưởng no đầy, sung mãn. Từ đó về sau, trước khi thọ trai, trong các buổi
Quá đường, đặc biệt là các mùa An cư Kiết hạ, chư tăng thường trì chú này, ngài
Thiền chủ thường lấy khoảng 7 hạt cơm, bỏ vào chén nước nhỏ, thành tâm chú nguyện,
rồi sai vị thị giả mang ra ngoài bàn Xuất sanh (Đại bàng kim xí điểu…) Và trong
các chùa, chiều nào cũng có lễ cúng thí thực cô hồn, thực phẩm cúng chỉ cần có
một ít muối, gạo và nước trong là đủ. Đôi khi có thêm là cháo trắng nấu thật
loãng, nếu thêm nữa thì có chè xôi, hoa quả, cơm canh, bánh kẹo… đặc biệt đến lễ
Vu lan, Rằm tháng bảy là tổ chức lớn nhất.
Lễ siêu độ ngạ quỷ, cô
hồn có nguồn gốc từ Ấn Độ, nghi thức ấy được truyền sang và thịnh hành ở Trung
Hoa vào đời Đường do ngài Bất Không Kim Cang (Amoghavajra), còn gọi là Bất
Không Tam Tạng, người Bắc Ấn Độ, một truyền nhân nổi tiếng của Mật giáo (Kim
Cang Thừa - Vajrayāna) hoằng hoá. Phật giáo được truyền vào Việt Nam từ
những thế kỉ đầu tiên Tây lịch. Chúng ta chưa thấy tài liệu nào cho biết chính
xác niên đại của nghi thức lễ siêu độ ngạ quỷ cô hồn có ở Việt Nam từ
khi nào. Căn cứ theo Việt Nam Phật Giáo Sử
Luận của Nguyễn Lang thì lễ siêu độ cô hồn đã được phổ biến rộng rãi ở đời
Trần. Câu chuyện về việc Trúc Lâm Tam Tổ đăng đàn Chẩn tế với sự linh ứng nhiệm
màu trước sự chứng kiến của vua Trần và bá quan văn võ với đông đảo quần chúng
tham gia.[9]
Một nghi thức cúng chẩn
thí, hay lễ siêu độ cô hồn dù được tổ chức qua đại lễ Trai đàn Chẩn tế bạt độ
cô hồn, có ban kinh sư, ngài gia trì, sám chủ… cho đến nghi thức đơn giản của một
chú tiểu cúng trước Bàn cô hồn trong chùa cũng phải có những ý nghĩa cơ bản
sau:[10]
1. Trình bày tất cả do
tâm tạo qua bài kệ của kinh Hoa Nghiêm: Nhược
nhơn dục liễu tri, tam thế nhất thiết Phật, ưng quán pháp giới tánh, nhất thiết
duy tâm tạo.
2. Nguyện xa lìa cảnh ác thú bằng cách tập trung tư tưởng phá tan
mọi phiền não, sám hối tội lỗi, giải sạch oan khiên qua thần chú: Phá địa ngục chân ngôn, phổ triệu thỉnh chơn
ngôn, giải oan kết chân ngôn….
3. Cung thỉnh mười phương Tam bảo, đức Phật Thích Ca, đức Quán Âm, đức Địa Tạng,
và ngài A Nan giáng lâm đàn tràng chứng minh.
4. Hướng dẫn chúng sanh quy y Tam bảo.
5. Sám hối nghiệp chướng: Tất cả chúng sanh hữu tình và vô tình, bao gồm cả người
cúng và người được cúng phải thành tâm sám hối mới có lợi lạc.
6. Phát đại nguyện: thề cứu độ hết chúng sanh, thề phá hết phiền não, nguyện học
các pháp môn tu tập, thề nguyện thành Phật đạo.
7. Diệt tội: Thành tâm sám hối, phát đại nguyện và hành giả tụng các thần chú mới
có linh cảm như chú Diệt định nghiệp chơn
ngôn của ngài Địa Tạng, Diệt bất định
nghiệp chơn ngôn của ngài Quán Âm.
8. Tuyên thuyết định giới: Thần chú khai
yết hầu chơn ngôn và Tam muội gia giới chơn ngôn để chúng sanh diệt trừ chướng
ngại, mở rộng yết hầu thọ hưởng pháp thực, thọ xong giữ giới để thoát phiền não
nghiệp chướng.
9. Biến thức ăn thành pháp vị: Biến thực
chơn ngôn, biến thủy chơn ngôn, nhất tự thủy chơn ngôn, nhũ hải chơn ngôn khiến
cho chúng sanh ngạ quỷ thọ hưởng được sung mãn.
10. Kết nguyện: Thần chú gia trì tịnh
pháp thực, tất cả chúng sanh cô hồn đã no đủ, xả hết tâm tham lam mau thoát
cảnh địa ngục u đồ, trì chú: “Vô giá thực
chơn ngôn” phá tan sự ngăn ngại thánh phàm, tăng tục, bình đẳng thọ hưởng
cam lồ pháp vị.
11. Hồi hướng: Cầu cho tất cả chúng sanh an lành, vãng sanh cực lạc.
Thông thường, cô hồn được
phân làm mười loại:[11] 1. Thủ hộ quốc giới: những oan hồn “vị quốc
vong thân.” 2. Phụ tài khiếm mạng: chết vì oan gia trái chủ, nợ nần, trụy thai.
3. Khinh bạc Tam bảo: bất hiếu, bội nghịch vô đạo. 4. Giang hà thủy nịch:
thương khách chết sông chết biển. 5. Biên địa tà kiến: những người sống tại
biên ải hẻo lánh. 6. Ly hương khách địa: cô khổ phiêu bạt, chết đường chết xá.
7. Phó hỏa đầu nhai: tự tử, nhảy sông, nhảy núi, chết đâm, chết cháy. 8. Ngục
tù trí mạng: chết trong ngục tù. 9. Nô tì kết sứ: nô lệ cùng khổ, chết vì đày đọa
lao dịch. 10. Manh lung ám á: đui, què, câm, điếc, không người chiếu cố.
Tuy nhiên theo nghi thức
chẩn tế cô hồn đại khoa (nghi thức cúng cô hồn có ba khoa: đại khoa, trung khoa
và tiểu khoa), Diệm khẩu Du-già tập yếu
thí thực khoa nghi[12] thì cô
hồn có 13 loại: 1. Hoàng vương đế bá, 2.
Anh hùng tướng soái, 3. Quan văn, 4. Văn nhân, 5. Người xuất gia, 6. Đạo sĩ, 7.
Thương nhân, 8. Chiến sĩ, 9. Sản phụ, 10. Di địch, 11. Cung phi, 12. Cái bang,
13. Thập loại cô hồn.
Nguyễn Du trong bài Văn
tế của mình cũng chia làm 13 loại:[13] 1. Vương giả, 2. Công nương, 3. Quan văn, 4.
Quan võ, 5. Thương nhân, 6. Trí thức, 7. Ngư phủ,
8. Nông dân, 9. Chiến sĩ, 10. Kỷ nữ, 11. Hành khất, 12. Tù nhân, 13. Tiểu
nhi.
Theo quan niệm của người
xưa, chết có hai loại: chết bình thường và chết không bình thường. Chết bình
thường là chết vì tuổi già, vì bệnh. Chết không bình thường là chết vì tai nạn
(xe, tàu, tên bay, bom đạn… sẩy thai…), hay vì tức tối, giận hờn, ghen tuông, tự
tử… và những người chết theo loại này phần lớn trở thành những dạng cô hồn, oan
hồn uổng tử; nhất là những người lúc chết không có thân nhân nhìn nhận, không mồ
mả, không cúng kiến, thờ tự… và trong 13 loại cô hồn trên đã tóm thâu toàn bộ
những dạng ấy. Theo lời Phật dạy, người con Phật nói riêng hay tất cả mọi người
nói chung cần nên mở rộng lòng mình, nếu có cơ hội nên bố thí, thương tưởng đến
các loại ngạ quỷ, cô hồn, dù là một nắm gạo, vài hạt muối hay một ly nước lã…
thực phẩm chỉ là phần nhỏ, quan trọng nhất là tấm lòng của mình, nghĩa là sự dụng
tâm; đồng thời thành tâm cầu mong họ sớm được lìa khỏi những thảm cảnh đói
khát, khổ đau… sớm sanh về những cảnh giới an lành.
Hiện nay ở Việt Nam có
rất nhiều nghi cúng chẩn cô hồn, nhưng nghi thức được xem là ý nghĩa, văn
chương và rất phổ biến, đó là khoa nghi cúng cô hồn diễn Nôm của HT. Bích Liên
(Trí Hải, 1876-1950)[14]. Ai đã
từng lắng nghe một buổi lễ Siêu độ cô hồn trong một chiều thu của ngày Vu lan
Báo hiếu qua nghi thức của ngài sẽ cảm nhận được điều đó, nhất là giọng thỉnh của
các thầy miền Trung (Huế, Bình Định, Nha Trang). Chỉ ngay câu thỉnh loại cô đầu
tiên (Hoàng vương đế bá), chúng ta cũng cảm nhận được nghĩa lý thâm sâu, cũng
như chất văn chương cổ điển, cung đình: “Trước
thỉnh kẻ hoàng vương đế bá, triều đại xưa trải quá biết bao; đền đài chín lớp ở
cao, non sông muôn dặm chén vào một tay…” Đặc biệt là lời cảm thán, vừa bi
đát, vừa toát lên được vẻ ngậm ngùi tang thương của một kiếp người. Phải chăng
đó cũng là lời cảnh tỉnh cho bất cứ những ai còn tham đua danh lợi trong giả
trường danh mộng, để rồi cuối cùng chịu những kết thục bi thương: “Ôi thôi ! Đỗ quyên kêu trót tàn canh, máu hồng
nhuộm mãi trên cành đào hoa. Trước sau vương bá những là, hồn hương xin chứng
tiệc hoa sẵn sàng”. (Mộng tranh hùng tranh bá, làm chúa làm vua, nay chinh
Nam, mai tảo Bắc. Nhưng rồi từng đêm suốt những canh dài, từng tiếng quốc kêu rủ
rỉ, màu sương trăng lạnh phủ trên cánh hoa đào, giòng máu oan thiên hận sự bất
thành nhuộm đỏ đầu cây ngọn cỏ. Vậy thì, giang sơn như họa còn đó, mà anh hùng
hào kiệt một thời ở đâu, và đâu là ảo vọng của đời người?)[15]
Với những kinh văn như
vậy được tụng đọc, diễn ngâm tại những đàn tràng trang nghiêm thanh tịnh… dù là
một người với tâm địa xấu xa, hung hãn… chỉ cần lắng nghe vài câu cũng phải
chùn lòng, hướng thiện. Đó là chưa nói đến sự cảm ứng đạo giao, bất khả tư nghì
của pháp Phật cho các âm linh cô hồn phiêu bạt. Đó chính là: Âm siêu dương
thái, hải yên hà thanh, pháp giới chúng sanh, đồng thành Phật đạo.
Vu lan với những truyền
thống cao đẹp của con người, đó là truyền thống đền ơn đáp nghĩa, uống nước nhớ
nguồn, biết đền ơn đáp nghĩa công đức sinh thành của mẹ cha, ông bà và đó cũng
là truyền thống cao đẹp của người Đông phương. Hơn thế nữa Vu Lan bắt nguồn từ
tấm lòng đại hiếu của tôn giả Mục Kiền Liên, thể hiện hiếu tâm, hiếu hạnh của
con người, đó cũng chính là tấm lòng của đức Phật: Tâm hiếu là tâm Phật, hạnh hiếu là hạnh Phật.
Lễ siêu độ cô hồn bắt
nguồn từ tấm lòng vị tha của đức Phật qua lời thỉnh cầu của tôn giả Anan. Với
những mật chú hướng về loài ngạ quỷ, hướng về những oan hồn uổng tử đang chịu
khổ đau đói khát, lạc lõng, bơ vơ trong những cảnh khổ đọa đày… người con Phật
dùng pháp Phật để cúng thí, dùng pháp Phật để siêu độ các loại cô hồn ấy thoát
khỏi mọi cảnh giới khổ đau để thác sanh về miền lạc cảnh thanh nhàn.
Vu Lan với lễ siêu độ
cô hồn thể hiện được lý tưởng vô ngã, vị tha của người thực hành lý tưởng Bồ-tát
đạo, phát triển lòng từ bi không những giữa con người với con người, con người
với vạn loại chúng sanh, mà đến cả những loài ngạ quỷ, cô hồn khổ đau nhất
trong những cảnh giới u ám, đọa đày. Người viết xin mượn những dòng thơ, dòng
văn tế đầy vị tha của nhà Đại thi hào, Phật tử Nguyễn Du để cùng ông thành tâm đảnh
lễ Tam bảo và cầu nguyện hết thảy chúng sanh nhân lễ Vu lan về:[16]
"Nam
mô Phật, Nam mô Pháp, Nam mô Tăng,
Nam mô nhứt thiết siêu thăng thượng đài".
[1] Thích
Tuệ Sỹ - Lễ Tháng Bảy Cho Những Oan Hồn Phiêu Bạt
[2]
Theo Phật giáo, Lục thông là sáu phép
Thần thông của bực tu chứng quả A-La-Hán: 1. Thiên nhãn thông, 2. Thiên
nhĩ thông, 3. Túc mạng thông, 4. Tha tâm thông, 5. Thần túc thông và 6. Lậu tận
thông.
[3]
Tự Tứ là chữ phiên âm từ tiếng Phạn Pravārana. dịch nghĩa theo chữ Hán gọi là hỷ
duyệt, nghĩa là sau ba tháng An cư tu tập, vào ngày mười bốn tháng bảy, chư
Tăng cùng nhau tập trung tại một giới trường, đối chiếu với giới luật mà mình
đã thọ trì, mỗi một người tự xét bản thân qua: thấy, nghe và nghi và nếu thấy
việc gì đó không đúng, tự mình nói lên hoặc nhờ một vị Tỳ-kheo khác nói lên,
sau đó nếu thấy rằng, mình có sai phạm thì phải sám hối đúng như pháp. Sau khi
sám hối liền được thanh tịnh, trong tâm cảm thấy vui vẻ và an lạc.
[4]
Trời Đao-lợi (S. Trayastrimsa, P. Tavatimsa, Hán. Đao-lợi thiên, Tam thập tam
thiên), là tầng trời thứ 2 trong 6 tầng trời ở cõi Dục. Theo vũ trụ quan Phật
giáo, trời Đao-lợi nằm trên đỉnh núi Tu-di, bốn phía đỉnh núi, mỗi phía đều có
8 thiên thành, thành Thiện kiến hay Hỷ kiến (Sudassana) ở giữa là cung điện của
vua trời Đế-thích (Sakka), tất cả gồm 33 nơi nên gọi Tam thập tam thiên.
[5]
Đại XXI. No. 1313. Tham chiếu, Phật thuyết
cứu Diện nhiên ngạ quỷ đà-la-ni thần chú kinh, Đường Thật-xoa-nan-đà dịch;
Đại XXI, No. 1314.
[6]
Đại XXI, No. 1315. Tham chiếu, Phật thuyết cam lộ kinh đà-la-ni chú, vô danh dịch, Đại XXI,
No.1316; Cam lộ đà-la-ni chú, Đường Thật-xoa-nan-đà
dịch, Đại XXI, No. 1317.
[7]
Đại XXI, No.1318. Tham chiếu, Du-già tập yếu Diệm khẩu thí thực khởi giáo A-nan-đà tự do, Đường Bất
Không dịch, Đại XXI, No.1319.
[8]
Vô danh dịch, Đại XXI, No.1320. Tham chiếu, Phật
thuyết thí ngạ quỷ cam lộ vị đại đà-la-ni kinh, Đường Bạt-đà-mộc-a dịch, Đại
XXI, No.1321.
[9]
Xem, Việt Nam Phật Giáo Sử Luận, tác
giả Nguyễn Lang, NXB Lá Bối.
[10]
Ý nghĩa lễ Chẩn tế Âm linh Cô hồn, Tỳ
kheo Thích Ngộ Định
[11]
Theo liệt kê của Du-già tập yếu Diệm khẩu
thí thực nghi, Đại XXI, tr. 483b
[12]
Còn gọi là “Thiên Hòa Tự Tàng Bản” do
Tỳ-kheo Tánh Tình phụng khắc vào mùa Phật đản năm Minh Mạng thứ 2 (tức năm Tân Tỵ, 1821)
[13]
Văn Tế Thập Loại Chúng Sanh của Nguyễn
Du
[14]
Nghi thức cúng cô hồn bằng nôm,
HT. Bích Liên, bản chép tay của Thích Nguyên Trạch, Bình định.
[15]
Xem, Thích Tuệ Sỹ, Lễ Tháng Bảy Cho Những Oan Hồn Phiêu Bạt
[16]
Nguyễn Du, Sđd.